Top 12 Bài thu hoạch quốc phòng an ninh đối tượng 4 (Liên hệ bản thân) năm 2024

Bài thu hoạch kiến thức quốc phòng đối tượng 4 mới nhất năm 2024 hay còn gọi là Bài thu hoạch quốc phòng an ninh đối tượng 4 mới nhất năm 2024 đủ 9 chuyên đề, có liên hệ bản thân. Hoatieu.vn xin giới thiệu tới các bạn Bài thu hoạch bồi dưỡng quốc phòng an ninh đối tượng 4 được cập nhật liên tục. Để đạt được kết quả cao nhất Bài thu hoạch bồi dưỡng kiến thức quốc phòng an ninh đối tượng 4 cần trình bày rõ ràng, khoa học, có phần liên hệ thực hiện bản thân của mỗi cá nhân. Mời các bạn tải file Word Miễn Phí Bài thu hoạch quốc phòng an ninh đối tượng 4 tại đường link trong bài viết.

Bài thu hoạch quốc phòng an ninh đối tượng 4 đủ 9 chuyên đề
Bài thu hoạch quốc phòng an ninh đối tượng 4 đủ 9 chuyên đề

1. Gợi ý cách viết bài thu hoạch Quốc phòng an ninh điểm cao

Để viết được bài thu hoạch QPAN chất lượng, bạn cần trả lời được các câu hỏi sau:

Mục đích: Bồi dưỡng kiến thức quốc phòng an ninh là gì? Chính sách, quan điểm của Đảng và Nhà nước về chiến lược Quốc phòng An ninh ở thời điểm hiện tại và trong tương lai. Nêu tóm tắt và giản lược nhất nhưng vẫn phải đủ những ý chính.

Nội dung: Khi thực hiện bồi dưỡng kiến thức quốc phòng an ninh đối tượng 4, nội dung bồi dưỡng sẽ được thực hiện theo quy định tại Thông tư số 24/2014/TT-BQP của Bộ Quốc Phòng.

Mỗi đối tượng sẽ được tham gia bồi dưỡng theo một thời lượng khác nhau, và tùy vào từng thời điểm mà nội udng chuyên đề có thể thay đổi theo tình hình chính trị, chính sách, quan điểm của Đảng và nhà nước thời điểm đó ra sao. Viết bài thu hoạch sẽ là chuyên đề cuối cùng theo quy định của Bộ.

Khi thể hiện nội dung, bạn cần nêu được tính cấp thiết, nội dung của chuyên đề, liên hệ thực tế gắn với trường hợp bản thân, cơ quan đơn vị mình và đề xuất giải pháp.

Kết bài: Phần liên hệ bản thân thực chất là phần nội dung quan trọng nhất để đánh giá sự nhận thức, tiếp thu của các nhân trong toàn quá trình học tập liệu có biết áp dụng vào công việc thực tế ở cơ sở, cơ quan, đơn vị hay không. Các bạn nên lưu ý để đầu tư nội dung phần này, tránh viết quá sơ sài sẽ không được đánh giá cao.

2. Đối tượng 4 bồi dưỡng kiến thức Quốc phòng An ninh

Các đối tượng phải viết bài thu hoạch bồi dưỡng kiến thức quốc phòng an ninh đối tượng 4 gồm:

a) Chuyên viên không thuộc đối tượng 1, 2, 3; Biên tập viên báo, đài Trung ương, địa phương và báo ngành; Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm bộ môn, giảng viên các trường đại học, cao đẳng; chuyên viên, viên chức các sở, ngành, đoàn thể và Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện; Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng các trường trung học cơ sở, trường tiểu học, trường mầm non; giáo viên các trường trung học phổ thông, trung học cơ sở; Bí thư, Phó Bí thư chi bộ, người đứng đầu các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trên địa bàn tỉnh, huyện và các chức danh tương đương thuộc cơ quan, tổ chức ở trung ương có trụ sở trên địa bàn tỉnh, huyện.

b) Công chức cán bộ không chuyên trách cấp xã (không thuộc đối tượng 3); Bí thư, Phó Bí thư chi bộ, Trưởng thôn, bản, ấp, buôn, sóc, khóm, tổ dân phố, cụm dân cư, khu phố (dưới đây gọi chung là cấp thôn). Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm hợp tác xã thuộc xã; Trưởng các đoàn thể cấp thôn.

c) Người quản lý doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước hoạt động phục vụ quốc phòng và an ninh, hoạt động ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; người quản lý đơn vị sự nghiệp ngoài công lập.

d) Đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã.

đ) Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

3. Chủ đề Bài thu hoạch quốc phòng an ninh đối tượng 4

Đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về QPAN;
Chính sách đối ngoại;

Văn hóa tư tưởng, dân tộc, tôn giáo;

Phòng, chống diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ; biên giới quốc gia, chủ quyền biển, đảo Việt Nam;
Luật về quốc phòng, an ninh quốc gia, nghĩa vụ quân sự

4. Chương trình, nội dung bồi dưỡng kiến thức quốc phòng an ninh đối tượng 4

Chương trình, nội dung bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho đối tượng 4 và tương đương đối tượng 4 gồm 9 chuyên đề, cụ thể như sau:

a) Khối lượng kiến thức: 32 tiết (tương đương 04 ngày làm việc).

b) Cấu trúc chương trình:

TT

Nội dung

Số tiết

1

Quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về quốc phòng, an ninh

04

2

Quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh và hoạt động đối ngoại trong tình hình mới

04

3

Quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về bảo vệ an ninh chính trị, kinh tế, văn hoá, tư tưởng; quản lý nhà nước về an ninh trật tự trong tình hình mới

04

4

Quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về dân tộc, tôn giáo gắn với quốc phòng, an ninh trong tình hình mới

04

5

Phòng, chống chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với Việt Nam

02

6

Nội dung cơ bản về Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia; quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam trong tình hình mới

04

7

Nội dung cơ bản của Luật: Quốc phòng, An ninh quốc gia, An ninh mạng, Nghĩa vụ quân sự, Giáo dục quốc phòng và an ninh, Dân quân tự vệ. Lực lượng dự bị động viên

02

8

Phòng, chống vi phạm pháp luật trên không gian mạng

02

9

Xây dựng, quản lý lực lượng dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên trong tình hình mới

04

10

Viết thu hoạch

02

+

Tổng:

32

5. Bài thu hoạch lớp bồi dưỡng kiến thức quốc phòng an ninh đối tượng 4

Bài thu hoạch bồi dưỡng kiến thức quốc phòng an ninh đối tượng 4 mới nhất
Bài thu hoạch bồi dưỡng kiến thức quốc phòng an ninh đối tượng 4 mới nhất

Câu hỏi

Đồng chí nêu nội dung xây dựng nền quốc phòng toàn dân? Phân tích nội dung xây dựng lực lượng quốc phòng, lực lượng an ninh nhân dân? Liên hệ trách nhiệm bản thân?

Bài làm:

Dân tộc Việt Nam ta trải qua bốn ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, trải qua nhiều cuộc đấu tranh giành chủ quyền dân tộc, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Hồ Chí Minh (30/4/1975), đánh đuổi hoàn toàn các đế quốc xâm lược, non sông thu về một mối. Sau chiến tranh đất nước bắt tay vào xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa .Tuy nhiên chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch luôn tìm cách chống phá chúng ta. Chính vì vậy xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững chắc gắn kết với nền an ninh nhân dân nhằm tạo ra và nhân lên sức mạnh lớn nhất của cả quốc phòng và an ninh trong bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, xây dựng nền quốc phòng toàn dân không chỉ sẵn sàng ứng phó với xung đột vũ trang, đánh thắng chiến tranh xâm lược, mà trước mắt phải làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ của địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Sau khi được học tập bồi dưỡng kiến thức về quốc phòng và an ninh tôi hiểu được: Xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng nền an ninh nhân dân gồm có 3 nội dung chính như sau:

1. Xây dựng tiềm lực của nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân.

2. Xây dựng lực lượng quốc phòng, lực lượng an ninh nhân dân.

3. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân.

Trong 3 nội dung trên, nội dung xây dựng lực lượng của quốc phòng, nền an ninh là một nội dung quan trọng làm cơ sở để xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân, tạo điều kiện để thúc đẩy, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội và củng cố quốc phòng và an ninh. Theo đó, cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất là xây dựng lực lượng chính trị.

Xây dựng lực lượng chính trị của nền Quốc phòng, nền an ninh là một nội dung quan trọng làm cơ sở để xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội và củng cố quốc phòng và an ninh. Theo đó, cần tập trung vào thực hiện tốt một số nội dung cơ bản như:

+ Về chính trị - tinh thần

Trước hết, tăng cường công tác giáo dục chính trị tinh thần cho đội ngũ cán bộ, Đảng viên và nhân dân, có nội dung hình thức và phương pháp thích hợp trong giáo dục, tuyên truyền, vận động nhằm không ngừng nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là với cán bộ đảng viên; theo đó phải giáo dục đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật nhà nước; giáo dục 2 nhiệm vụ chiến lược của CMVN, giúp cho cán bộ, Đảng viên và nhân dân nắm chắc và thực hiện chủ trương chính sách của Đảng; ra sức phát huy nội lực xây dựng phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân, kết hợp chăm lo xây dựng củng cố quốc phòng và an ninh, giáo dục tinh thần yêu quê hương, đất nước, yêu chế độ XHCN, rèn luyện ý chí kiên cường, bất khuất anh dũng, tích cực trong lao động sản xuất. Kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực tham nhũng, cục bộ địa phương, bè phái, mất đoàn kết, buôn lậu, cờ bạc, nghiện hút, trộm cắp, cưới xin ma chay lãng phí, phát huy truyền thống đoàn kết để xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước. Giáo dục tinh thần cảnh giác cách mạng, nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, chủ động phòng chống diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ, giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội.

+ Xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở

Xây dựng tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh nhất là phải nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng đảm bảo cho tổ chức cơ sở Đảng và nhà nước đến mọi người dân, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đến mọi người dân, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, phát triển kinh tế xã hội ở cơ sở. Yêu cầu không ngừng đổi mới nội dung, phương thức nhằm nâng cao chất lượng, năng lực lãnh đạo trong các tổ chức Đảng, trên mọi mặt, mọi hoạt động nhất là các tổ chức cơ sở Đảng. Thường xuyên làm tốt công tác giáo dục, rèn luyện phẩm chất, nhân cách của Đảng viên, phát triển Đảng viên mới, cần đặc biệt chú trọng công tác phát triển Đảng ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Từng đảng viên phải tích cực học tập, rèn luyện tu dưỡng toàn diện về phẩm chất, đạo đức, năng lực, phương pháp, tác phong công tác, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của thời kì mới. Cán bộ, Đảng viên phải là người có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, kiên định, không để địch mua chuộc, không sa ngã trước lối sống thực dụng, đảng viên phải thực sự gắn bó với nhân dân, tiêu biểu cho lực lượng tiến bộ nhất ở địa phương, phấn đấu trở thành người lao động giỏi, người công dân mẫu mực đi đầu trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất, kinh doanh, làm giàu chính đáng và lôi cuốn vận động nhân dân cùng làm giàu, không cam chịu đói nghèo. Xây dựng đoàn kết thống nhất trong các chi bộ, Đảng bộ, bảo đảm sự lãnh đạo vững chắc của Đảng trong lĩnh vực chính trị kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh. Thường xuyên chăm lo xây dựng tổ chức Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh nhất là tổ chức cơ sở Đảng rèn luyện đội ngũ cán bộ Đảng viên vừa có phẩm chất chính trị tốt, vừa có năng lực công tác toàn diện, công tác phát triển Đảng viên mới nhằm vào những người ưu tú, người lao động giỏi có phẩm chất đạo đức tốt và lối sống lành mạnh, có uy tín trong quần chúng, trong cộng đồng dân cư, những người có lí tưởng cách mạng tích cực hoạt động trong hệ thống chính trị, có vai trò nòng cốt trong các đoàn thể nhân dân.

+ Xây dựng chính quyền cơ sở.

Chính quyền có chức năng quản lí điều hành xã hội và tổ chức thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng và an ninh, thực hiện quản lí hành chính Nhà nước trên các lĩnh vực đời sống xã hội, hướng dẫn và giám sát các hoạt động của nhân dân, tạo thuận lợi cho nhân dân và doanh nghiệp làm ăn theo pháp luật, xây dựng chính quyền cơ sở vững mạnh, thực sự của nhân dân, do dân, vì dân là trách nhiệm của mọi người dân, mọi tổ chức, xây dựng chính quyền vững mạnh gắn với xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất năng lực. Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng quy định phù hợp với từng địa phương và pháp luật của Nhà nước. Thường xuyên kiện toàn đội ngũ cán bộ, đủ số lượng và chất lượng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của bộ máy chính quyền cơ sở. Theo đó, yêu cầu từng tổ chức phải có nội dung và phương thức hoạt động đúng đắn, phù hợp với nhu cầu và lợi ích của hội viên, đoàn viên. Trên cơ sở đó, tập trung rộng rãi và nâng cao tính tự giác của hội viên, đoàn viên, xây dựng tổ chức vững mạnh, tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, vận động nhân dân thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, tăng cường củng cố quốc phòng và an ninh trên địa bàn; tiến hành có hiệu quả các cuộc vận động và phong trào thi đua trong sản xuất, xây dựng và chiến đấu thực hiện thắng lợi 2 nhiệm vụ chiến lược của Cách mạng Việt Nam.

Nâng cao chất lượng hoạt động của mặt trận tổ quốc và các tổ chức quần chúng ở cơ sở.

Thứ hai là, xây dựng lực lượng quân sự, an ninh

- Xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh là nội dung trọng tâm, tạo tiềm lực nòng cốt của quốc phòng, an ninh của KVPT tỉnh, thành phố, huyện, thị xã của nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, yêu cầu phải quán triệt phương châm toàn diện, vững trên toàn cục, mạnh ở trọng điểm, có lực lượng tại chỗ và lực lượng cơ động mạnh. Trước tiên tập trung vào xây dựng lực lượng quân sự, an ninh của khu vực PT huyện, xã phường, thị xã, thị trấn.

- Về thành phần xây dựng các lực lượng cơ bản như: dự bị động viên, dân quân và công an xã, trong xây dựng thực hiện tốt chủ trương của đảng về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có số lượng hợp lí với chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao, đồng thời quan tâm xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ rộng khắp, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống, đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh; tăng cường cơ sở vật chất, kĩ thuật đảm bảo cho lực lượng vũ trang từng bước được trang bị hiện đại trước hết là lực lượng hải quân, phòng không, không quân, lực lượng an ninh, tình báo, cảnh sát cơ động. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, nghệ thuật quân sự, an ninh đánh thắng chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao của các lực lượng thù địch và quán triệt đầy đủ nguyên tắc cơ bản là: bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội và công an nhân dân, nâng cao hiệu quả quản lí nhà nước về quốc phòng và an ninh nhân dân.

- Về nội dung xây dựng lực lượng quân sự, an ninh phải được xây dựng toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức biên chế, VKTBKT, không ngừng nâng cao trình độ, sẵn sàng chiến đấu chất lượng, sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang, trong đó chất lượng là chính, lấy chất lượng chính trị là cơ sở; Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc”, nội dung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân về chính trị tập trung vào giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của đảng, nhằm giữ vững tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho các lực lượng vũ trang, giữ vững tăng cường sự lãnh đạo của đảng tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân xây dựng con người và các tổ chức trong lực lượng vũ trang nhân dân có tổ chức cao, có chất lượng cao.

- Lực lượng vũ trang nhân dân phải được xây dựng có tổ chức, biên chế gọn nhẹ, mạnh; có số lượng hợp lí, chất lượng cao, đủ sức làm nòng cốt cho toàn dân xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân trong thời bình và đánh thắng các thế lực xâm lược khi tình huống chiến tranh xảy ra, trước hết là làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.

- Về vũ khí thiết bị và công tác bảo đảm khác; phải khai thác triệt để các nguồn cung cấp từ Bộ quốc phòng, Bộ công an với các nguồn địa phương, đáp ứng yêu cầu hoạt động của lực lượng vũ trang là sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống, thực hiện tốt bảo quản, sửa chữa vũ khí thiết bị và tích cực nghiên cứu, chế tạo vũ khí mới, tái tạo vũ khí thô sơ; đáp ứng yêu cầu hoạt động, tác chiến của lực lượng vũ trang và nhân dân khi có tình huống xảy ra.

- Trong huấn luyện, phải theo đúng phương châm chỉ đạo (cơ bản thiết thực vững chắc, coi trọng cả HLKT, chiến thuật nâng cao chất lượng tổng hợp của lực lượng vũ trang, huấn luyện phải sát với yêu cầu thực tế, yêu cầu nhiệm vụ của từng lực lượng sát với yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng an ninh của từng địa phương)...

Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa cần phải có sức mạnh tổng hợp. Một trong những yếu tố tạo nên sức mạnh tổng hợp là phải có được nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh, điều đó chỉ có được khi được khi mọi công dân, mọi tổ chức, mọi lực lượng, mọi cấp, mọi ngành ý thức được đầy đủ được nghĩa vụ, trách nhiệm đối với việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Từ đó vận dụng vào thực hiện tốt trách nhiệm của mình trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân để bảo vệ tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa.

Liên hệ trách nhiệm bản thân

Là một đảng viên và là một giáo viên trong nhà trường bản thân tôi cần phải làm một số vấn đề sau:

+ Phải có nỗ lực học tập và rèn luyện để trở thành công dân tốt, đảng viên tốt cống hiến cho đất nước.

+ Phải thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng. Tránh những cám dỗ vật chất mà các thế lực phản cách mạng sử dụng để dụ dỗ và để làm giảm lòng tin của chúng ta vào Đảng, cách mạng.

+ Phát hiện, góp phần đấu tranh, ngăn ngừa và đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù trong chiến lược “DBHB” và bạo loạn lật đổ. Đặc biệt cần phải chú ý tới quá trình tự diễn biến bên trong, đây là một quá trình nguy hiểm mà chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch sử dụng để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa.

+Giữ vững sự ổn định tư tưởng chính trị của các cán bộ giáo viên trong nhà trường, phát huy tính đoàn kết trong tập thể.

+Không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với đường lối xã hội chủ nghĩa.

+Thường xuyên vận động tuyên truyền cán bộ giáo viên và Học sinh trong nhà trường thực hiện nghiêm chỉnh chủ trương của Đảng,chính sách và pháp luật của nhà nước.

+Thường xuyên học tập nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh “ do Đảng và chính phủ phát động.

+ Tích cực tham gia xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, đoàn kết trong cơ quan, lấy việc xây dựng chính trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường

+ Luôn luôn hiểu rõ chức năng, nhiệm vụ của đơn vị, chức trách của bản thân; ra sức học tập rèn luyện nâng cao trình độ về mọi mặt, đổi mới công tác quản lí, phát huy tính dân chủ trong cơ quan.

+ Không ngừng học tập nâng cao trình độ nhận thức và hành động thực tiễn về công tác dân vận. Vận động người thân và học sinh chấp hành chủ trương đường lối của Đảng, không tham gia vào các tệ nạn xã hội, không để kẻ xấu có cơ hội lôi kéo làm suy yếu khả năng chiến đấu bảo vệ tổ quốc của mình. Phát hiện tố cáo các hiện tượng tiêu cực và các hành vi làm nguy hại đến an ninh quốc gia, đoàn kết tốt với nhân dân địa phương nơi cơ quan cư trú.

6. Liên hệ trách nhiệm bản thân về quốc phòng an ninh

Họ và tên: .......................

Đơn vị công tác: Trường ...............................

Câu hỏi: Từ nội dung lãnh đạo của đảng, quản lý nhà nước về QPAN liên hệ trách nhiệm của địa phương, ngành trong việc lãnh đạo của đảng quản lý nhà nước về QPAN như thế nào ?

Bài làm

Từ nội dung lãnh đạo của đảng trong quản lý nhà nước về QPAN trách nhiệm của địa phương, ngành trong việc lãnh đạo của đảng quản lý nhà nước về QPAN là:

1. Các ngành và địa phương cần tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Luật Quốc phòng, Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Dân quân tự vệ, Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh và các văn bản quy phạm pháp luật về động viên quốc phòng, động viên quân đội, động viên công nghiệp, v.v. Qua đó, nâng cao trách nhiệm của cấp ủy, cán bộ chủ trì các cấp và cơ quan chức năng của các ngành, địa phương và ý thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động nhằm đảm bảo thực hiện công tác QP- AN đạt hiệu quả cao. Trong quá trình thực hiện, ngành, địa phương cần tích cực đổi mới phương pháp tuyên truyền giáo dục; kết hợp tốt giữa quán triệt thường xuyên với tổ chức học tập và lồng ghép trong các buổi sinh hoạt chính trị tại cơ quan, tổ chức, sinh hoạt cộng đồng.

2. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, các thế lực thù địch luôn tranh thủ, lợi dụng những sơ hở trong quản lý, điều hành đất nước (nhất là về kinh tế - xã hội) của Đảng, Nhà nước ta để chống phá. Bởi vậy, các cấp ủy, người đứng đầu các ngành và địa phương cần coi trọng việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với công tác QP- AN. Đây là một nội dung quan trọng, nhân tố quyết định thắng lợi của công tác này. Đó cũng là nhân tố bên trong quyết định sự thành bại của cách mạng, sự mất còn của chế độ. Thực tế cho thấy, ở đâu cấp ủy, chính quyền quan tâm cơ quan công an, quân sự địa phương và thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ thì ở đó, công tác QP- AN đạt chất lượng, hiệu quả.

3. Thấu suốt quan điểm của Đảng về kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, các ngành và địa phương cần phải kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh trong mọi hoạt động. Đồng thời, phải nắm chắc quan điểm: nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp, được hình thành trên cơ sở sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, trong đó sức mạnh nội lực là chính. Do đó, phải coi trọng xây dựng và phát huy mọi nguồn lực của đất nước về chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Thực hiện công tác QP- AN các ngành và địa phương cần tập trung chỉ đạo kết hợp trong xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố; các dự án trọng điểm quốc gia; các chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng biên giới, biển, đảo; xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng, quốc phòng - kinh tế; xây dựng căn cứ chiến lược, hậu phương chiến lược, công trình quốc phòng; đầu tư phát triển khoa học công nghệ ở trình độ cao; xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng; trong đó, cần coi trọng tính “lưỡng dụng” của các chương trình, dự án. Quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình, các bộ, ngành và địa phương cần chú trọng kiểm tra, điều chỉnh, bổ sung kế hoạch, quy hoạch, dự án trong từng lĩnh vực, bảo đảm vừa phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, vừa tăng cường quốc phòng - an ninh; đồng thời, thường xuyên luyện tập các phương án để kịp thời khắc phục những hạn chế và hoàn thiện phù hợp với thực tế. Để đảm bảo thực hiện sẵn sàng động viên nền kinh tế phục vụ cho thời chiến, các bộ, ngành và địa phương cần phải tích cực chuẩn bị ngay từ trong thời bình.

4. Đối với ngành, cần phải thường xuyên coi trọng việc củng cố, kiện toàn, phát huy vai trò của ban chỉ huy công an,quân sự và đội ngũ cán bộ chuyên trách, kiêm nhiệm công tác QP- AN; tổ chức, xây dựng lực lượng tự vệ có số lượng hợp lý, nâng cao chất lượng tổng hợp, nhất là chất lượng chính trị. Nâng cao khả năng phối hợp với cơ quan công an, quân sự địa phương nơi đặt trụ sở để rà soát, bổ sung phương án chiến đấu bảo vệ cơ sở, xây dựng kế hoạch phòng, chống cháy nổ, bão, lũ, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn; phối hợp chặt chẽ với các lực lượng tham gia bảo vệ chủ quyền biên giới, biển, đảo, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ và phòng thủ dân sự tại địa phương, cơ sở. Cùng với đó, cần thực hiện tốt công tác tuyển quân, đăng ký nghĩa vụ quân sự; công tác xây dựng, quản lý, huấn luyện lực lượng dự bị động viên và sẵn sàng thực hiện động viên quốc phòng, động viên quân đội, động viên công nghiệp theo kế hoạch. Để thực hiện tốt công tác QP- AN, các ngành còn phải coi trọng, quan tâm chỉ đạo các đơn vị thành viên phối hợp chặt chẽ với cơ quan công an,quân sự địa phương nơi đặt trụ sở nghiên cứu, đổi mới công tác đăng ký, quản lý, điều chỉnh, sắp xếp các phương tiện kỹ thuật, nguồn dự bị động viên vào các đơn vị dự bị động viên theo đúng quy định.

5. Các ngành, địa phương cần quan tâm bảo đảm ngân sách đối với sự nghiệp QP- AN, thực hiện chính sách hậu phương Quân đội, chính sách ưu đãi người có công với cách mạng và các chính sách xã hội có liên quan đến công tác QP- AN theo quy định của pháp luật. Đây là vấn đề có ý nghĩa thiết thực, nhằm đảm bảo cho công tác QP- AN được triển khai ngày càng hiệu quả, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Sau khi học xong Lớp bồi dưỡng kiến thức QP- AN đã mang lại cho tôi rất nhiều điều hiểu biết về các vấn đề quân sự, QP- AN nhiệm vụ QP- AN; trách nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc; chủ quyền, biên giới, vùng trời, biển, đảo Việt Nam; cảnh giác, phòng, chống âm mưu thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta;

Là một giáo viên tôi xin đóng góp hết khả năng của mình vào công cuộc hiện đại hóa-công nghiệp hóa của đất nước, nêu cao tinh thần cảnh giác cao độ trước những lôi kéo từ bên ngoài. Tuyên truyền sâu rộng đường lối chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước đến tận người dân, tuyên truyền vận động CBGV , học sinh, quần chúng hiểu rõ bản chất xấu xa, âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch, tránh bị lôi kéo, bị kích động, bình tĩnh, tự tin, linh hoạt giải quyết nhanh chóng, có khoa học, an toàn những biến cố xảy ra trong trường học. Hoàn thành tốt và đầy đủ nhiệm vụ của một người công dân, chấp hành tốt các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Bài thu hoạch quốc phòng an ninh đối tượng 4
Bài thu hoạch quốc phòng an ninh đối tượng 4 có liên hệ bản thân

7. Bài thu hoạch quốc phòng an ninh đối tượng 4 (5 Mẫu)

7.1. Bài thu hoạch an ninh quốc phòng đối tượng 4 số 1

Câu hỏi:

Trong các chuyên đề đã được nghiên cứu đồng chí tâm đắc nhất vấn đề gì? Tại sao. Liên hệ thực tiễn địa bàn cơ sở đồng chí và trách nhiệm của bản thân.

Trả lời:

Dựng nước phải đi đôi với giữ nước, đó là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam trong mấy ngàn năm lịch sử. Khi có giặc ngoại xâm cũng như khi đất nước hoà bình thịnh trị, ông cha ta luôn chăm lo kế sách lâu dài, “sâu rễ bền gốc” luyện binh lúc thư nhàn: “ thái bình nên gắng sức, non nước ấy ngàn thu”. Hay quân ở trong dân “ ngụ binh ư nông” sẵn sàng làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc ta được phát huy cao độ trong chiến lược phát triển đất nước: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc phát triển trong tình hình thế giới có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp chứa đựng nhiều yếu tố khó lường, đó là chiến lược “Diễn biến hòa bình” bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam.

Trong các chuyên đề được nghiên cứu trao đổi, thao luận, bản thân tâm đắc nhất chuyên đề 3: Phòng chống chiến lược “Diễn biến hòa bình” bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam. Bởi vì:

Chiến tranh đã đi qua, đất nước Việt Nam đã hoàn toàn độc lập tự do và đang từng bước vững chắc tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa song các thế lực thù địch tìm đang mọi cách để chống phá cách mạng Việt Nam nhằm triệt tiêu Đảng cộng sản và xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa .Âm mưu của địch là không đánh phá ào ạt bằng lực lượng vũ trang mà trá hình với che đậy dưới hình thức diễn biến hòa bình , đây là chiến lược tổng hợp của chủ nghĩa đế quốc dùng biện pháp phi vũ trang là chính, chủ yếu đánh vào tình cảm con người làm cho con người mất phương hướng , mất niềm tin, mất ý chí, phản bội Tổ quốc.

Tình hình thực hiện “Diễn biến hòa bình” và “bạo loạn lật đổ” chống phá cách mạng Việt Nam của chủ nghĩa đế quốc như thế nào?

- Mục tiêu: Xoá bỏ CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Mục tiêu cơ bản là xoá bỏ chủ nghĩa Mác - Lê Nin thay thế bằng tư tưởng tư sản và xoá bỏ vai trò của Đảng Cộng Sản,trọng điểm là Việt Nam.

- Nội dung chống phá: Toàn diện trên mọi lĩnh vực, trong đó lấy kinh tế làm mũi nhọn, lấy vấn đề dân tộc, tôn giáo làm ngòi nổ, lấy ngoại giao để hỗ trợ, lấy quân sự để răn đe trấn áp, mục đích chống phá nội bộ Đảng từ cơ sở đến Trung ương.

- Biện pháp: Phi quân sự là chủ yếu. Thực hiện chống phá công khai và bí mật, với thủ đoạn mềm, ngầm chúng lợi dụng triệt để những sai lầm bên trong và coi trọng xây dựng lực lượng bên trong để lôi kéo tập hợp lực lượng, mua chuộc những cán bộ thoái hoá biến chất tạo dựng ngọn cờ bên trong tự diễn biến - hoài nghi trong nội bộ. Nhằm xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Từ “ diễn biến hòa bình”, “ bạo loạn lật đổ” để tạo ra quá trình “ tự diễn biến”, “ tự chuyển hoá” từ trong nội bộ chúng ta: Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang và nhân dân. Thủ đoạn đó diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, vào mọi đối tượng trong đó tập trung trên một số lĩnh vực chủ yếu sau:

- Chống phá về chính trị tư tưởng, văn hoá:

Trọng tâm là xoá bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng làm tiêu tan nền tảng tư tưởng trong các tổ chức Đảng, tổ chức xã hội và mọi tầng lớp nhân dân, nhất là đối với thế hệ trẻ.

Phá vỡ khối đại đoàn kết của toàn dân, của các tổ chức chính trị-xã hội. Bằng cách xuyên tạc, chia rẽ, làm cho nội bộ ta không tin nhau, nghi ngờ lẫn nhau, gây rối loạn nội bộ. Nhằm dễ cài cắm những quan điểm mơ hồ, những phần tử cơ hội, thậm chí phần tử phản động, thực hiện kế hoạch "kén làm tổ", "chui sâu, leo cao" để ngầm phá ta từ bên trong lâu dài.

Gieo rắc chủ nghĩa thực dụng, văn hóa phương tây, tạo tâm lý hưởng thụ, lối sống tư sản hướng đến nếp nghĩ tư duy theo hướng đối lập đường lối, tư tưởng của Đảng.

- Hoạt động phá hoại kinh tế:

Hiện nay chúng tập trung phá vỡ quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa của ta bằng nhiều thủ đoạn rất xảo quyệt, như việc lợi dụng quan hệ hợp tác đầu tư liên doanh, liên kết (nhất là qua các khâu: vốn, chuyên gia, kĩ thuật), tìm cách phủ định định hướng chủ nghĩa xã hội trong nền kinh tế nhiều thành phần, thực hiện: vừa khuyến khích, ca ngợi kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, vừa tư nhân hoá dần dần làm mất vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước.

- Lợi dụng các vấn đề tôn giáo, dân tộc để chống phá ta:

Vấn đề tôn giáo, dân tộc hiện nay luôn là mục tiêu kẻ thù hết sức chú trọng lợi dụng để chống phá.

+ Về vấn đề dân tộc: Kẻ thù triệt để khai thác các mâu thuẫn giữa các dân tộc do nhiều nguyên nhân gây ra, để chia rẽ khối đoàn kết, tạo dựng những mâu thuẫn mới, kích động tư tưởng hẹp hòi dân tộc, đòi quyền tự quyết dân tộc chủ nghĩa, như việc xuyên tạc, kích động, mua chuộc, xúi dục một số dân tộc thiểu số đấu tranh Với Đảng, Nhà nước ta để đòi cái gọi là "độc lập quốc gia tự trị".

Đặc biệt chúng chú trọng yếu tố tâm lí và sự dồn nén khó khăn về đời sống tinh thần, vật chất (nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, xa, vùng căn cứ cách mạng trước đây) để tạo dựng xu hướng bất bình với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

+ Vấn đề tôn giáo: Chúng triệt để lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng của Nhà nước ta, để truyền bá mê tín dị đoan và tư tưởng phản động chống chủ nghĩa xã hội. Lợi dụng những phần tử phản động đội lết tôn giáo để hoạt động gây kích động, phá hoại, xúi giục giáo dân đòi đất xây nhà thờ, chùa chiền... để tập hợp, lôi kéo tuyên truyền kích động nhân dân, từng bước vô hiệu hoá sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí của Nhà nước đối với nhân dân vùng có đạo, tiến tới nhen nhóm, cài cắm lực lượng và xây dựng tổ chức phản động chống Đảng và chế độ ta.

- Chống phá trên lĩnh vực quốc phòng an ninh:

Vô hiệu hoá lực lượng vũ trang nhân dân, chủ yếu là quân đội nhân dân và công an nhân dân, đây là lực lượng tập trung nhất bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Hoạt động chủ yếu của chúng nhằm phá vỡ hệ tư tưởng, tổ chức của quân đội và công an. Làm cho lực lượng này xa rời mục tiêu chiến đấu, rệu rã tổ chức; xói mòn về đạo đức, phẩm chất, lối sống... để dẫn tới giảm lòng tin vào Đảng, vào chế độ, mất phương hướng và thay đổi bản chất cách mạng của mình.

Tìm mọi cách xuyên tạc, bôi nhọ bản chất truyền thống tốt đẹp của quân đội - công an, chia rẽ nội bộ, chia rẽ tình đoàn kết máu thịt quân đội và nhân dân, quân đội và Đảng...

Toàn bộ những hoạt động của chúng nhằm phủ định sự lãnh đạo của Đảng ta đối với quân đội và công an "trung lập hoá quân đội và làm phai mờ biến đổi bản chất truyền thống cách mạng của quân đội - công an", "phi chính trị hoá" quân đội - công an.

- Kích động, phối hợp hành động của lực lượng phản động trong nước và phản động ngoài nước:

Kẻ thù rất coi trọng lực lượng phản động trong nước, nhằm tạo dựng lực lượng trực tiếp chống phá ta từ bên trong, để liên kết các hội đoàn phản động ngoài nước, bí mật thành lập tổ chức phản động trong nước và liên kết hai lực lượng đó lại...

Tóm lại, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động dùng nhiều thủ đoạn, trên tất cả các lĩnh vực để chống ta. Chúng hết sức chú ý đẩy mạnh, mở rộng quá trình "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" từ trong nội bộ ta. Đồng thời với việc gây lình huống, tạo cớ để nhân danh các tổ chức quốc tế nhảy vào can thiệp vào công việc nội bộ của ta, kể cả can thiệp bằng quân sự. Chính vì vậy cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống chiến lược diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ càng trở nên phức tạp, lâu dài, đòi hỏi sự kiên trì, quyết tâm cao của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và chúng ta nhất định sẽ giành thắng lợi.

Để thực hiện thành công nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần có những phương thức, biện pháp đấu tranh phòng chống diễn biến hòa bình trên các lĩnh vực. Đó là:

- Ổn định chính trị văn hoá:

Xây dựng và chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng ta trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu.

Tăng cường sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo của chi bộ, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động ở chi bộ. Xây dựng củng cố hệ thống chính quyền vững chắc, thực sự là của dân, do dân và vì dân.

Xây dựng, củng cố vững chắc trận địa tư tưởng XHCN trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân chống lại chiến lượt diễn biến hòa bình.

Giáo dục lòng tự hào dân tộc, phát huy truyền thống yêu nước.

Đẩy mạnh phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tốt các chính sách xã hội.

Xây dựng nền văn hoá đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Xây dựng con người Việt Nam cả về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn và lối sống, có nhân cách tốt đẹp, có tâm hồn trong sáng, có tầm cao trí tuệ, giữ vững tư tưởng xã hội chủ nghĩa.

- Trên lĩnh vực kinh tế:

Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XNCH, không để nền kinh tế trì trệ đi chệch định hướng XHCN.

Phát huy nội lực để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao vai trò chủ đạo nền kinh tế nhà nước, thực hiện xóa đói, giảm nghèo nâng cao đời sống nhân dân.

- Trên lĩnh vực tổ chức nhân sự:

Thường xuyên chăm lo tổ chức Đảng, chính quyền trong sạch vững mạnh, phát hiện kịp thời cá nhân có biểu hiện tiêu cực, suy thoái về đạo đức, nói xấu chế độ để chấn chỉnh giúp đỡ họ nhìn nhận đúng bản chất của vấn đề, có ý thức bảo vệ nội bộ, bảo vệ tổ quốc XHCN.

Củng cố các tổ chức quần chúng, các đoàn thể cách mạng hoạt động hiệu quả.

Tăng cường quan hệ giữa Đảng với nhân dân, giải quyết kịp thời các mâu thuẫn trong nhân dân.

- Trên lĩnh vực ngoại giao:

Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, đảm bảo lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia.

Nâng cao cảnh giác, hành động thận trong, tỉnh táo, không để rơi vào thế bị động.

- Trên lĩnh vực dân tộc, tôn giáo

Đầu tư xây dựng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo cho các bộ phận dân tộc. Phát huy bản sắc tốt đẹp của dân tộc, đề cao dân chủ, tôn trọng tập quán tự do tín ngưỡng, chống mọi hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, mọi hành vi lợi dụng tôn giáo, dân tộc gây rối trật tự, trị an tiếp tay cho địch.

- Trên lĩnh vực quốc phòng an ninh:

Giữ vững quốc phòng an ninh quốc gia và bảo vệ toàn vẹn lãng thổ tổ quốc. Tiếp tục củng cố hoàn chỉnh thế trận quốc phòng toàn dân, kết hợp với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng thế trận phòng thủ ngày càng vững chắc.

Thường xuyên tổ chức tốt việc giáo dục quốc phòng cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân. Giữ vững nguyên tắc lãnh đạo của Đảng.

Liên hệ trách nhiệm của bản thân

Sau khi học xong Lớp bồi dưỡng kiến thức chính trị quốc phòng - an ninh đã mang lại cho tôi rất nhiều điều hiểu biết về các vấn đề quân sự, quốc phòng - an ninh, truyền thống dựng nước, giữ nước của dân tộc; nhiệm vụ quốc phòng - an ninh; trách nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc; chủ quyền, biên giới, vùng trời, biển, đảo Việt Nam; cảnh giác, phòng, chống âm mưu thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta; những văn bản pháp luật về quốc phòng - an ninh. Điều này đã mang lại cho bản thân tôi có một cái nhìn toàn diện hơn về tình hình của đất nước hiện nay, những nguy cơ mà chúng ta đang phải đối mặt, cũng như lòng tự hào về truyền thống dựng nước giữ nước của dân tộc ta từ xưa đến nay. Không những vậy tôi còn được hiểu thêm về các đường lối quân sự, các chỉ thị của Đảng và nhà nước để thực hiện và chấp hành đầy đủ với tư cách là một công dân của nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Là một cán bộ quản lý, là một công dân của nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tôi xin nguyện sẽ đóng góp hết khả năng của mình vào công cuộc hiện đại hóa-công nghiệp hóa của đất nước, nêu cao tinh thần cảnh giác cao độ trước những lôi kéo từ bên ngoài. Tuyên truyền sâu rộng đường lối chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước đến tận người dân, tuyên truyền vận động CBGV , học sinh, quần chúng hiểu rõ bản chất xấu xa, âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch, tránh bị lôi kéo, bị kích động, bình tĩnh, tự tin, linh hoạt giải quyết nhanh chóng, có khoa học, an toàn những biến cố xảy ra trong trường học.hoàn thành tốt và đầy đủ nhiệm vụ của một người công dân và chấp hành mọi quy định về pháp luật của Đảng và Nhà nước.

Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch của chủ nghĩa xã hội đã và đang thực hiện âm mưu, thủ đoạn diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa, chúng luôn coi Việt Nam là một trọng điểm.

Toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta luôn nâng cao cảnh giác, nhận thức rõ tính chất nguy hiểm các âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, thấy được tính chất phức tạp, quyết liệt trong cuộc đấu tranh này, đoàn kết kiên quyết đánh bại chúng, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Đảng ta xác định: Chống chiến lược diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta là nhiệm vụ cấp bách và lâu dài của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vể Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa giai đoạn mới.

7.2. Bài thu hoạch an ninh quốc phòng đối tượng 4 số 2

Câu hỏi:

Đồng chí nhận thức như thế nào sau khi được bồi dưỡng các chuyên đề kiến thức QP-AN? Liên hệ trách nhiệm, hành động của bản thân trong thời gian tới.

Bài làm

Lớp học bồi dưỡng các chuyên đề kiến thức Quốc phòng an ninh nhằm quán triệt và bồi dưỡng quan điểm, đường lối của Đảng về Quốc phòng và an ninh, nâng cao nhận thức cho cán bộ, giáo viên nhiệm vụ Quốc phòng và an ninh. Tình hình an ninh, chính trị quốc tế, khu vực và trong nước hiện nay để mỗi cán bộ, giáo viên nâng cao trách nhiệm và ý thức xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Các chuyên đề trong khóa học rất thiết thực, phù hợp với đất nước trong tình hình mới. Trong đó, tôi quan tâm nhất là Quan điểm, chủ trương của Đảng CSVN về an ninh quốc gia và xây dựng thế trận an ninh nhân dân trong tình hình mới.

Tôi xin trình bày nhận thức của mình về vấn đề này như sau:

I. Nhận thức

Gắn bó mật thiết với nhân dân là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Đảng. Trong lãnh đạo đường lối bảo vệ an ninh, trật tự, nguyên tắc này được cụ thể hóa thành định hướng chiến lược: Xây dựng “thế trận an ninh nhân dân”. Để thực hiện hiệu quả đường lối, chủ trương về xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân, lực lượng công an cần tập trung thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp.

Có thể thấy, nhận thức lý luận, tư tưởng, quan điểm của Đảng về xây dựng thế trận an ninh nhân dân được bổ sung, phát triển ngày càng hoàn thiện, với những nội dung cơ bản:

1. Xây dựng thế trận an ninh nhân dân, nền an ninh nhân dân là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước.

2. Thế trận an ninh nhân dân của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân được xây dựng, củng cố theo hướng toàn dân, toàn diện, trên nền tảng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh và sự ổn định, phát triển bền vững của mọi mặt đời sống xã hội.

3. Phát huy sức mạnh vật chất (tiềm lực kinh tế), sức mạnh tinh thần (tiềm lực văn hóa - xã hội), sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại, nội lực với ngoại lực để xây dựng, củng cố thế trận an ninh nhân dân.

4. Lực lượng nòng cốt tham mưu cho các cấp ủy Đảng, chính quyền xây dựng, củng cố thế trận an ninh nhân dân là công an, có trách nhiệm tham mưu với Đảng, Nhà nước ban hành chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật về xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân; phối hợp với các ban, bộ, ngành, địa phương phát động phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; xây dựng, triển khai các đề án, phương án, kế hoạch, bố trí lực lượng bảo đảm an ninh trên các tuyến, địa bàn, lĩnh vực nhằm chủ động phòng ngừa, đấu tranh với các hoạt động xâm phạm an ninh, trật tự của đất nước.

5. Kết hợp thế trận an ninh nhân dân với thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận lòng dân trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, thế trận lòng dân là nền tảng vững chắc để xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân.

Thể chế hóa quan điểm của Đảng về thế trận an ninh nhân dân, Luật An ninh quốc gia năm 2004, Điều 3, Khoản 10 quy định: “Thế trận an ninh nhân dân là việc tổ chức, bố trí lực lượng bảo vệ an ninh quốc gia và các nguồn lực cần thiết để chủ động bảo vệ an ninh quốc gia”; nhiệm vụ xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân được quy định tại Điều 16:

“1. Vận động toàn dân tham gia phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, giáo dục, động viên cán bộ, công chức, người lao động và mọi công dân tham gia xây dựng địa phương, cơ quan, tổ chức vững mạnh; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

2. Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách, kế hoạch bảo vệ an ninh quốc gia gắn với xây dựng, củng cố hệ thống chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại và kết hợp chặt chẽ với xây dựng nền quốc phòng toàn dân.

3. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia; xác định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong bảo vệ an ninh quốc gia.

4. Xây dựng lực lượng bảo vệ an ninh quốc gia vững mạnh; xây dựng các phương án và tổ chức, bố trí lực lượng, phương tiện cần thiết để chủ động bảo vệ an ninh quốc gia trong mọi tình huống”.

II. Liên hệ trách nhiệm của bản thân trong thời gian tới

Là một đảng viên, giáo viên tôi tự nhận thấy mình cần phải thực hiện các việc làm sau để góp phần xây dựng, bảo vệ Tổ quốc:

+ Nỗ lực học tập và rèn luyện để trở thành công dân tốt, đảng viên tốt cống hiến cho đất nước.

+ Thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng. Tránh những cám dỗ vật chất mà các thế lực phản cách mạng sử dụng để dụ dỗ và để làm giảm lòng tin của chúng ta vào Đảng, cách mạng.

+ Giữ vững sự ổn định tư tưởng chính trị của các cán bộ giáo viên trong nhà trường, phát huy tính đoàn kết trong tập thể.

+ Không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với đường lối XHCN.

+ Thường xuyên vận động tuyên truyền cán bộ giáo viên và học sinh trong nhà trường thực hiện nghiêm chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.

+ Thường xuyên học tập nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” .

+ Không ngừng học tập nâng cao trình độ nhận thức và hành động thực tiễn về công tác dân vận.

+ Vận động người thân và học sinh chấp hành chủ trương đường lối của Đảng, không tham gia vào các tệ nạn xã hội, không để kẻ xấu có cơ hội lôi kéo làm suy yếu khả năng chiến đấu bảo vệ tổ quốc của mình.

+ Phát hiện tố cáo các hiện tượng tiêu cực và các hành vi làm nguy hại đến an ninh quốc gia, đoàn kết tốt với nhân dân địa phương nơi cơ quan cư trú.

7.3. Bài thu hoạch an ninh quốc phòng đối tượng 4 số 3

Câu hỏi:

Đồng chí hãy trình bày mục tiêu, quan điểm chỉ đạo của Đảng ta về phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch? Là cán bộ, Đảng viên đồng chí có những giải pháp gì trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực chính trị tư tưởng văn hóa? Liên hệ trách nhiệm bản thân?

Bài làm:

Theo Từ điển tiếng Việt: “Diễn biến hòa bình” là diễn biến dần dần, cuối cùng đi đến một chế độ chính trị khác, không qua bạo lực; chiến lược không dùng chiến tranh mà dùng hàng loạt phương thức và thủ đoạn, nhằm tạo ra một quá trình diễn biến hòa bình để lật đổ chế độ chính trị ở nước khác.

Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Diễn biến hòa bình” là chiến lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế, được thực hiện dưới một phương thức, thủ đoạn mới để chống phá, đẩy lùi và đi đến xóa bỏ chủ nghĩa xã hội.

Hay có thể nói cách khác “DBHB” là chiến lược cơ bản nhằm lật đổ chế đội chính trị - xã hội của các nước tiến bộ, trước hết là các nước xá hội chủ nghĩa từ bên trong, chủ yếu bằng phương pháp phi quân sự do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động tiến hành.

“DBHB” là chiến lược cơ bản do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động tiến hành; nhằm lật đổ chế độ chính trị - xã hội của các nước độc lập, tự chủ, tiến bộ, trước hết là các nước XHCN từ bên trong, chủ yếu bằng phương pháp phi quân sự, làm cho thể chế chính trị tiến bộ, cách mạng bị thủ tiêu. Từ đó chúng xây dựng chính quyền phụ thuộc, theo chủ nghĩa đế quốc.

Đối tượng của chiến lược “Diễn biến hòa bình” là các nước có khuynh hướng phát triển phi tư bản chủ nghĩa.

Bản chất của chiến lược “Diễn biến hòa bình” là chống Chủ nghĩa xã hội, chống độc lập dân tộc.

Nội dung cơ bản của chiến lược “Diễn biến hòa bình” là phá hoại các nước Xã hội chủ nghĩa về các mặt chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội...

Phương thức và thủ đoạn chủ yếu là tạo dựng và thúc đẩy đối phương vào khủng hoảng toàn diện, từng bước chuyển hóa chế độ chính trị theo con đường phát triển tư bản chủ nghĩa hoặc bị chính các thế lực thù địch chống đối dùng bạo lực lật đổ. Trong điều kiện tương quan lực lượng về mọi mặt cho phép, các thế lực thù địch có thể sử dụng lực lượng vũ trang gây bạo loạn, lật đổ và can thiệp, nhằm thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Nhà nước, xã hội một cách nhanh chóng. “Diễn biến hòa bình” được tiến hành thường là tổng hợp nhiều biện pháp buộc đối phương trong cùng một lúc phải đối phó với nhiều thế lực, nhiều hoạt động chống đối, thúc đẩy cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội thành khủng hoảng chính trị tạo ra tình thế bạo loạn lật đổ chế độ.

Chính vì vậy Đảng ta đã xác định được những mục tiêu và đề ra những quan điểm đúng đắn nhằm phòng chống chiến lược “DBHB” bảo vệ vững chắc tổ quốc VN XHCN.

Mục tiêu cơ bản mà Đảng xác định để phòng, chống “DBHB” là làm thất bại chiến lược “DBHB” của địch , giữ vững ổn định chính trị, môi trường hòa bỉnh để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, HĐH đất nước, xây dựng đất nước theo định hướng XHCN, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhât toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc; Bảo vệ Đảng nhà nước nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, an ninh quốc gia; trật tự xã hội và nền văn hóa.

Cụ thể hóa là Đại hội ĐCS VN lần thứ X khẳng định “ Kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn “DBHB” , bạo loạn lật đổ”.

Đến đại hội lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định “… chủ động ngăn chặn, làm thất bị mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”.

Vấn đề đặt ra cho mục tiêu chiến lược là phải giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm môi trường hòa bình ổn định lâu dài cho sự nghiệp xd đất nước. Phải lấy việc giữ vững ổn định trính trị làm nền tảng để đẩy mạnh sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, để củng cố quốc phòng, an ninh.

Trên cơ cở quán triệt các quan điểm của Đảng trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh bảo vệ tổ quốc. trong phòng chống chiến lược “diễn biến hòa bình” của địch, cần nắm vững các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo sau đây:

- Kiên định mục tiêu, giữ vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nắm vững 2 nhiệm vụ chiến lực xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

- Về lĩnh vực chính trị.

- Về lĩnh vực tư tưởng – văn hóa.

Liên hệ bản thân. Là một đảng viên, giáo viên tôi tự nhận thấy mình cần phải thực hiện các việc làm sau để góp phần đầy lùi âm mưu diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch:

+ Phải có nỗ lực học tập và rèn luyện để trở thành công dân tốt, Đảng viên tốt cống hiến cho đất nước.

+ Phải thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng. Tránh những cám dỗ vật chất mà các thế lực phản cách mạng sử dụng để dụ dỗ và để làm giảm lòng tin của chúng ta vào Đảng, cách mạng.

+ Phát hiện, góp phần đấu tranh, ngăn ngừa và đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù trong chiến lược “DBHB” và bạo loạn lật đổ. Đặc biệt cần phải chú ý tới quá trình tự diễn biến bên trong, đây là một quá trình nguy hiểm mà chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch sử dụng để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa.

+ Giữ vững sự ổn định tư tưởng chính trị của các cán bộ giáo viên trong nhà trường, phát huy tính đoàn kết trong tập thể.

+ Không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với đường lối xã hội chủ nghĩa.

+ Thường xuyên vận động tuyên truyền cán bộ giáo viên và Học sinh trong nhà trường thực hiện nghiêm chỉnh chủ trương của Đảng,chính sách và pháp luật của nhà nước.

+ Thường xuyên học tập nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh “ do Đảng và chính phủ phát động.

+ Thấy rõ “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ là nguy cơ rất lớn, rất nghiêm trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Từ đó nhận rõ kẻ thù, đối tượng tác chiến, luôn đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chuẩn bị tốt về tư tưởng, xây dựng ý chí quyết tâm, tinh thần chủ động, sáng tạo, vững vàng kiên định trước mọi diễn biến của tình hình, sẵn sàng hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.

+ Tích cực tham gia xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, đoàn kết trong cơ quan, lấy việc xây dựng chính trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường

+ Luôn luôn hiểu rõ chức năng, nhiệm vụ của đơn vị, chức trách của bản thân; ra sức học tập rèn luyện nâng cao trình độ về mọi mặt, đổi mới công tác quản lí, phát huy tính dân chủ trong cơ quan.

+ Không ngừng học tập nâng cao trình độ nhận thức và hành động thực tiễn về công tác dân vận. Vận động người thân chấp hành chủ trương đường lối của Đảng, không tham gia vào các tệ nạn xã hội, không để kẻ xấu có cơ hội lôi kéo làm suy yếu khả năng chiến đấu bảo vệ tổ quốc của mình. Phát hiện tố cáo các hiện tượng tiêu cực và các hành vi làm nguy hại đến an ninh quốc gia, đoàn kết tốt với nhân dân địa phương nơi cơ quan cư trú.

7.4. Bài thu hoạch an ninh quốc phòng đối tượng 4 số 4

Đề bài

Để góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chống “diễn biến hòa bình”, đồng chí hãy liên hệ nhận thức của bản thân cần làm vấn đề gì?

Bài làm

Phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội là yêu cầu cơ bản, nhiệm vụ cấp bách của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình hiện nay, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị, trong đó quân đội và công an là lực lượng nồng cốt. Vì vậy, phải luôn đề cao cảnh giác cách mạng, ra sức xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội.

a, Nhiệm vụ:

Đảng ta xác định nhiệm vụ phòng, chống “DBHB” là phát huy sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị, tiến hành cuộc đấu tranh toàn diện lâu dài, đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

b, Mục tiêu chiến lược:

Giữ vững sự ổn định chính trị trên cơ sở độc lập dân tộc và CNXH, tạo môi trường hòa bình để đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, làm thất bại chiến lược “DBHB”, bạo loạn lật đổ của địch nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa, bảo vệ đảng, bảo vệ nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN, Bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc.

Là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước, nhân dân, Quân đội nhân dân Việt Nam phải thường xuyên quán triệt và thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, góp phần đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ công cuộc lao động hòa bình và hạnh phúc của nhân dân.

(**) Quan điểm chỉ đạo đấu tranh chống chiến lược “diễn biến hòa bình” trên các lĩnh vực an ninh quốc phòng.

- Kiên định giữ vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, nắm vững 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN NQ TW 8 khóa IX của đảng đã xác định: Ngăn chặn, đẩy lùi mưu toan “DBHB”, nguy cơ can thiệp quân sự và xung đột vũ trang, xâm hại chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước ta. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, lấy việc giữ vững môi trường hòa bình để phát triển KT, XH… là lợi ích cao nhất của Tổ quốc.

- Phát huy sức mạnh tổng hợp, tiến hành cuộc đấu tranh toàn diện trên tất cả các lĩnh vực

- Để giành thắng lợi, chúng ta phải phát huy sức mạnh tổng hợp của các cấp, các ngành, các lực lượng, chủ động tiến công kẻ thù trên tất cả các mặt trận.

- Giữ vững sự ổn định từ bên trong, chủ động phòng ngừa từ bên ngoài, kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống.

- Giữ vững bên trong là điều kiện, là điểm tựa vững chắc để chủ động ngăn ngừa nguy cơ từ bên ngoài.

- Chủ động phòng ngừa từ bên ngoài là phải nắm chắc âm mưu của địch, thu thập thông tin chính xác, có đối sách phù hợp, không để kẻ địch tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta dưới mọi hình thức.

- Giữ vững bên trong, phòng ngừa từ bên ngoài có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu không giữ vững bên trong sẽ không chủ động phòng ngừa từ bên ngoài được, do vậy phải kết hợp chặt chẽ xây và chống trong đó lấy xây làm cơ sở để chống

- Chống “DBHB”, bạo loạn lật đổ, sẵn sàng đối phó thắng lợi các tình huống khác có thể xảy ra
Phòng chống “DBHB”, bạo loạn lật đổ là nhiệm vụ cấp bách, thường xuyên, lâu dài trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Nhưng chúng ta cũng không được mất cảnh giác, xem nhẹ các nhiệm vụ khác. Vì thế, phải kết hợp phòng ngừa với tích cực, chủ động tiến công địch cả về chính trị, tư tưởng và cả bằng quân sự khi cần thiết.

* Biện pháp đấu tranh trên các lĩnh vực chủ yếu

- Trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa

+ Chính trị: Xây dựng, củng cố vững chắc trận địa tư tưởng, giữ vững ổn định chính trị và an ninh xã hội bảo đảm cho chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Kiên quyết đấu tranh, đẩy lùi các tư tưởng lệch lạc, chủ nghĩa cơ hội dưới mọi mầu sắc. giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực tự cường của nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

+ Tư tưởng văn hóa: Xây dựng con người Việt Nam có tinh thần yêu nước, có bản lĩnh vững vàng, đạo đức trong sáng, giàu tình làng nghĩa xóm, lối sống giản dị, bao dung, nhân hậu, văn hóa, văn minh, đúng kỷ cương pháp luật. Mở rộng giao lưu quốc tế, trên cơ sở giữ vững, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.

- Trên lĩnh vực tổ chức nhân sự

Các tổ chức đảng, chính quyền các cấp ở từng địa phương phải thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, nhất là trong công tác cán bộ. Phát hiện sớm và kiên quyết loại trừ nhứng phần tử cơ hội, biến chất ra khỏi hệ thống chính trị của địa phương. Xây dựng, củng cố hệ thống chính quyền vững chắc, thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân.

- Trên lĩnh vực kinh tế

+ Phát triển kinh tế theo đúng đường lối của Đảng, tìm mọi biện pháp thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển. Tăng trưởng kinh tế phải gắn chặt với củng cố quốc phòng và an ninh của địa phương. Đẩy mạnh thực hiện xóa đói giảm nghèo, chăm lo ngày một tốt hơn đời sống mọi mặt của nhân dân.

- Trên lĩnh vực ngoại giao

+ Mở rộng quan hệ đối ngoại trên cơ sở bảo đảm độc lập chủ quyền quốc gia. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,, thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế nhưng phải bảo đảm lợi ích của quốc gia, dân tộc.

+ Trên quan hệ đối ngoại cần nắm vững nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, giải quyết các tranh chấp bằng thương lượng hòa bình, không để chủ nghĩa đế quốc can thiệp gây bất lợi cho ta.

- Trên lĩnh vực tôn giáo, dân tộc

+ Thực hiện chính sách ưu tiên về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ làm công tác tôn giáo. Đề cao dân chủ, tôn trọng tập quán, tự do tín ngưỡng của mọi người dân, đồng thời chống mọi hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, mọi hành vi lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để xuyên tạc đường lối của Đảng, gây rối trật tự trị an tiếp tay cho địch, chống phá cách mạng.

- Trên lĩnh vực quốc phòng-an ninh

+ Tăng cường củng cố nền quốc phòng toàn dân, giữ vững an ninh quốc gia, thực hiện tốt chiến lược bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới. Thường xuyên làm tốt công tác giáo dục quốc phòng cho mọi đối tượng, làm cho mọi người hiểu rõ trách nhiệm, nghĩa vụ công dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Liên hệ nhận thức của bản thân cần làm

- Thứ nhất : về nhận thức của bản thân.

+ Thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã sử dụng các hình thức, biện pháp phi vũ trang để chống phá Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, cả ở trong nước và ở nước ngoài. Đây là cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt, nhằm làm suy yếu nền kinh tế, rối loạn về xã hội, làm chệch hướng đường lối chính trị, làm mất sức chiến đấu của các LLVT, cô lập và hạ thấp vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, làm mất niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, vào con đường xã hội chủ nghĩa (XHCN), từ đó chuyển hóa chế độ XHCN theo con đường tư bản chủ nghĩa. Ngày nay, tình hình kinh tế - chính trị xã hội trong nước và trên thế giới đang có những biến động mới, sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, sự giao lưu, hội nhập quốc tế càng mở rộng. Cùng với sự chống phá của các thế lực thù địch bằng “diễn biến hòa bình” với các thủ đoạn tinh vi và quyết liệt hơn, đang đặt ra cho cách mạng nước ta những yêu cầu, nhiệm vụ và thách thức mới, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là lực lượng Đảng viên trẻ cũng phải có những nhận thức mới cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn mới, phải nêu cao ý thức tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện trong thực tiễn, để nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, tri thức khoa học cần thiết và phẩm chất đạo đức, lối sống, phương pháp và tác phong công tác đáp ứng đòi hỏi ngày một cao hơn của tình hình, nhiệm vụ mới.

+ Sau khi học xong lớp bồi dưỡng kiến thức chính trị Quốc phòng- An ninh đã mang lại cho tôi rất nhiều hiểu biết về các vấn đề quân sự, quốc phòng- An ninh, truyền thống dựng nước, giữ nước của dân tộc; nhiệm vụ Quốc phòng- An ninh; trách nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, chủ quyền biên giới, vùng trời biển đảo Việt Nam; cảnh giác phòng chống âm mưu thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta. Điều này đã mang lại cho bản thân tôi có một cái nhìn toàn diện hơn về tình hình của đất nước hiện nay, những nguy cơ mà chúng ta đang phải đối mặt, cũng như lòng tự hào về truyền thống dựng nước,giữ nước của dân tộc ta từ xưa đến nay, sự tự ý thức về vấn đề lãnh thổ, biên giới, chủ quyền và có tinh thần cảnh giác cao độ trước những âm mưu chống phá, lôi kéo của CNĐQ và các thế lực thù địch. Không những vậy tôi còn hiểu thêm về các đường lối quân sự, các chỉ thị của Đảng và Nhà nước để thực hiện và chấp hành đầy đủ với tư cách là một công dân của nước Việt Nam XHCN.

- Thứ hai: Là một Đảng viên tôi nhận thức cần làm một số vấn đề sau:

+ Phải có nỗ lực học tập và rèn luyện để trở thành công dân tốt, đảng viên tốt cống hiến cho đất nước.

+ Phải thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng. Tránh những cám dỗ vật chất mà các thế lực phản cách mạng sử dụng để dụ dỗ và để làm giảm lòng tin của chúng ta vào Đảng, cách mạng.

+ Phát hiện, góp phần đấu tranh, ngăn ngừa và đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù trong chiến lược “DBHB” và bạo loạn lật đổ. Đặc biệt cần phải chú ý tới quá trình tự diễn biến bên trong, đây là một quá trình nguy hiểm mà chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch sử dụng để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa.

+ Giữ vững sự ổn định tư tưởng chính trị trong dân phát huy tính đoàn kết.

+ Không ngừng học tập nâng cao trình độ hiểu biết của bản thân, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với đường lối xã hội chủ nghĩa.

+ Thường xuyên vận động tuyên truyền người thân và nhân dân nơi cư trú thực hiện nghiêm chỉnh chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của nhà nước.

+Thường xuyên học tập nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh “ do Đảng và chính phủ phát động.

+ Thấy rõ “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ là nguy cơ rất lớn, rất nghiêm trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Từ đó nhận rõ kẻ thù, đối tượng tác chiến, luôn đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chuẩn bị tốt về tư tưởng, xây dựng ý chí quyết tâm, tinh thần chủ động, sáng tạo, vững vàng kiên định trước mọi diễn biến của tình hình, sẵn sàng hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.

+ Tích cực tham gia xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, đoàn kết trong cơ quan, lấy việc xây dựng chính trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng giáo dục trong nhân dân.

+ Luôn luôn hiểu rõ chức năng, nhiệm vụ của đơn vị, chức trách của bản thân; ra sức học tập rèn luyện nâng cao trình độ về mọi mặt, phát huy tính dân chủ.

+ Không ngừng học tập nâng cao trình độ nhận thức và hành động thực tiễn về công tác dân vận.

7.5. Bài thu hoạch an ninh quốc phòng đối tượng 4 số 5

Họ và tên: .................................

GV: trường ..................................

Câu hỏi1. Đ/c hãy nêu mục tiêu, nhiệm vụ, quan điểm, phương châm của Đảng về phòng chống chiến lược "Diễn biến hòa bình", BLLĐ ở Việt Nam?

Trả lời: Chiến lược “DBHB” là chiến lược cơ bản của CNĐQ và các thế lực thù địch nhằm lật đổ chế độ chính trị-xã hội của các nước XHCN từ bên trong, chủ yếu bằng các biện pháp phi quân sự.

Mục tiêu:

Giữ vững ổn định chính trị, tạo môi trường hoà bình để đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; làm thất bại âm mưu chiến lược “Diễn biến hòa bình”, BLLĐ của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ an ninh quốc gia, TTATXH và nền văn hoá. Bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN, bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc.

Phân tích: Mục tiêu trên chính là nội dung bảo vệ tổ quốc trong NQTW8 (khóa IX) về chiến lược bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới.

Nhiệm vụ:

Chủ động tiến công địch trên mọi lĩnh vực, không để xảy ra mất ổn định chính trị XH, BLLĐ và các tình huống phức tạp khác, ngăn chặn làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn “DBHB” của các thế lực thù địch; bảo vệ Đảng, chính quyền và chế độ XHCN.

Quan điểm:

1. Kiên định giữ vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, nắm vững 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN.

+ Đây là mục tiêu xuyên suốt của CM Việt Nam, là sự lựa chọn đúng đắn mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.

+ Xuất phát từ mối quan hệ giữa ĐLDT và CNXH. Thực tiễn đã chứng minh…

+ ĐLDT và CNXH cũng chính là mục tiêu cơ bản mà các thế lực chống phá.

Nội dung:

+ Kiên định mục tiêu giữ vững cả về lý luận và thực tiễn cả trong tổ choc xây dựng và BVTQ.

+ Đấu tranh bác bỏ các quan điểm sai trái phản động.

+ Ngăn chặn đẩy lùi mọi thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, nguy cơ can thiệp quân sự, xung đột vũ trang, xâm hại đến chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

+ Quán triệt và tổ chức thực hiện từ TW đến cơ sở trên tất cả các mặt của đời sống xã hội về 2 nhiệm vụ chiến lược.

Ngày nay độc lập dân tộc và CNXH vẫn là mục tiêu hàng đầu của CM Việt Nam. Xoá bỏ mục tiêu này chính là mục đích chủ yếu của chiến lược “DBHB” đối với Việt Nam.

2. Phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tiến hành đấu tranh toàn diện trên tất cả các lĩnh vực.

Phân tích: Sức mạnh tổng hợp BVTQ:

Cơ sở: Xuất phát từ lý luận về sức mạnh trong đấu tranh cách mạng

Từ kinh nghiệm truyền thống tạo nên sức mạnh của ông cha ta

Từ đặc điểm của công cuộc BVTQ XHCN hiện nay.

Nội dung sức mạnh BVTQ được ĐH Đảng X xác định:

Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, được tạo ra trên cơ sở kết hợp các hoạt động: Chính trị, kinh tế, quân sự, an ninh, đối ngoại…

"Diễn biến hòa bình" chúng chống phá ta toàn diện trên tất cả các lĩnh vực nên chúng ta cũng phải chống lại trên tất cả các lĩnh vực.

3. Chống "Diễn biến hòa bình" BLLĐ phải nhằm kết hợp ngăn ngừa và đối phó thắng lợi các tình huống chiến lược về QP-AN có thể xảy ra.

NQTW8 (khoá IX) của Đảng ta về Chiến lược bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới dự báo có 3 tình huống chiến lược:

+Tình huống 1: Biến động chính trị trong nước, đe doạ sự mất còn của chế độ

+ Tình huống 2: Bạo loạn ly khai ở một vùng hoặc một số vùng, gây nguy cơ chia cắt đất nước.

+ Tình huống 3: Tạo cớ để can thiệp quân sự, gây xung đột vũ trang và chiến tranh xâm lược nước ta.

Ba tình huống trên nhìn chung có quan hệ hữu cơ, tác động lẫn nhau. Tình huống này có thể là tiền đề cho tình huống kia. Trong đó tình huống 1 và 2 là do hoạt động của chiến lược “Diễn biến hòa bình”, BLLĐ tạo ra.

Vì vậy chống “Diễn biến hòa bình”, BLLĐ là một nhiệm vụ quan trọng cũng chính là trực tiếp ngăn ngừa đẩy lùi các tình huống chiến lược trên để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

4. Nắm vững pháp luật, chủ động, kiên quyết chấn áp các phần tử phản động để bảo vệ chính quyền, bảo vệ chế độ.

Cần tăng cường xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ AN quốc gia và QP.

Chăm lo xây dựng LLVT vững mạnh, trung thành tuyệt đối với sự nghiệp CM của Đảng và nhân dân. Cảnh giác sẵn sàng chiến đấu cao để ngăn ngừa, đập tan mọi âm mưu và hành động gây bạo loạn của kẻ thù. Bên cạnh đó cần đề cao cảnh giác làm thất bại mọi âm mưu “phi chính trị hoá” Quân đội, Công an; hòng xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với LLVT.

Phương châm:

1. Giữ vững ổn định bên trong, chủ động phòng ngừa kết hợp giữa “xây” và “chống”.

Vị trí, ý nghĩa: Đây là phương châm chỉ đạo chung cho cả phòng, chống “Diễn biến hòa bình”, BLLĐ. Nó thể hiện tính chủ động tích cực của ta trong phòng chống “Diễn biến hòa bình”, BLLĐ.

Nội dung:

+ Giữ vững bên trong trước hết là giữ vững sự ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội, QP-AN của địa phương, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với địa phương. Kiên định con đường đi lên CNXH mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn, giữ vững mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, giữ vững khối đại đoàn kết dân tộc xung quanh Đảng, giữ vững và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Giữ vững bện trong là điều kiện, là điểm tựa vững chắc để chủ động ngăn ngừa nguy cơ từ bên ngoài.

+ Chủ động phòng ngừa trước hết là giữ vững đường lối đối ngoại của Đảng. Mọi hoạt động trên trường quốc tế về chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao, quân sự... không được phương hại đến lợi ích quốc gia dân tộc, phải góp phần thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN. Do đó phải nắm chắc âm mưu thủ đoạn của địch, thu thập thông tin chính xác, có đối sách phù hợp, không để kẻ thù tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta dưới mọi hình thức ở địa phương.

+ Giữ vững bên trong và chủ động phòng ngừa có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu không giữ vững bên trong sẽ không chủ động phòng ngừa được. Do vậy phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống trong đó lấy xây làm cơ sở cho chống.

Lấy xây dựng vững mạnh các tổ chức, của cả hệ thống chính trị để ngăn ngừa, chống lại và đẩy lùi là yêu cầu hàng đầu nhằm đánh bại mọi âm mưu thủ đoạn của địch.

2. Khi bạo loạn xảy ra, cần phát huy sức mạnh tổng hợp, kết hợp các biện pháp, các mặt đấu tranh; sử lý kiên quyết, nhanh chóng, không để lan rộng, kéo dài.

Phương châm này chỉ đạo phương thức đấu tranh và hành động của ta, trong sử lý bạo loạn lật đổ của địch.

Để thực hiện tốt phương châm trên cần thường xuyên chủ động, phát hiện mọi ý đồ, hành động của địch, bám sát địa bàn, dự kiến kế hoạch, phương án và chuẩn bị sẵn lực lượng chống bạo loạn ở từng cấp. Tổ chức tập luyện thường xuyên để sẵn sàng xử trí kịp thời, nhanh chóng khi tình huống xảy ra.

Tóm lại: Đảng ta đã đề ra mục tiêu, nhiệm vụ rõ ràng và những quan điểm, phương châm chỉ đạo nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành của chính quyền các cấp nhằm đấu tranh làm thất bại âm mưu chiến lược “Diễn biến hòa bình”, BLLĐ của CNĐQ và các thế lực thù địch ở Việt Nam. Phòng chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, BLLĐ là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu trong giai đoạn hiện nay. Thế nhưng muốn thực hiện được mục tiêu đó thì cần phải có những nội dung giải pháp phòng, chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, BLLĐ cụ thể trên các lĩnh vực.

Câu hỏi 2: Phân tích làm rõ những nội dung, giải pháp phòng chống chiến lược "Diễn biến hòa bình" trên các lĩnh vực? Liên hệ bản thân?

Trả lời: Nội dung, giải pháp phòng chống chiến lược "Diễn biến hòa bình" trên các lĩnh vực?

1. Trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng văn hoá:

a. Trên lĩnh vực chính trị:

Xây dựng chỉnh đốn, bảo vệ Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho Đảng ta thực sự TSVM, nâng cao khả năng lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Tăng cường củng cố các TCCS Đảng, nâng cao vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của các chi bộ Đảng. Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt, và mọi động của Đảng.

Xây dựng củng cố hệ thống chính quyền các cấp vững chắc, thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân.

+ Tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước trên các lĩnh vực.

+ Đồng thời tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức quần chúng.

Xây dựng củng cố vững chắc trận địa tư tưởng XHCN, trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, tạo ra sức đề kháng chống mọi âm mưu, thủ đoạn, “Diễn biến hòa bình” BLLĐ của địch.

Đẩy mạnh phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tốt chính sách XH, nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân.

+ Củng cố giữ vững niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

b. Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá:

Tăng cường công tác tư tưởng lý luận, bảo vệ nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối của Đảng. Bảo vệ củng cố vai trò chủ đạo của lý luận CN Mác Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Chú trọng công tác giáo dục truyền thống yêu nước, truyền thống anh hùng, niềm tự hào và tinh thần tự cường của dân tộc. Truyền thống dựng nước phải đi đôi với giữ nước.

Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà, bản sắc văn hoá dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống có nhân cách tốt đẹp, có bản lĩnh vững vàng, có tâm hồn trong sáng, có tầm cao trí tuệ.

Nắm chắc và giữ vững định hướng XHCN trong các hoạt động VHVN, bảo vệ các thành quả CM trong tình hình mới. Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo.

Làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, quản lý và kiểm soát chặt chẽ công tác tuyên truyền, xuất bản và có định hướng thống nhất trong chỉ đạo nghiên cứu lý luận, nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng- văn hoá trong tình hình mới.

2. Trên lĩnh vực kinh tế:

Quán triệt thực hiện và bảo vệ vững chắc đường lối đổi mới KT của Đảng theo định hướng XHCN, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập KT quốc tế theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn văn hoá bản sắc dân tộc.

Đề cao cảnh giác, không mơ hồ trước âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng quan hệ kinh tế, thương mại, thông qua kinh tế để chuyển hóa ta về chính trị.

Thực hiện phương châm chủ động hợp tác, đấu tranh kiên quyết, mềm dẻo trong quan hệ kinh tế, hạn chế các mặt tiêu cực do cơ chế thị trường tạo ra trong đời sống xã hội.

Nâng cao ý thức năng lực cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, nâng cao năng lực cạnh tranh và hoàn thiện pháp chế về kinh tế.

Thực hiện xóa đói giảm nghèo, thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí, chăm lo ngày một tốt hơn đời sống mọi mặt của nhân dân.

3. Trên lĩnh vực dân tộc, tôn giáo:

Tại tỉnh Lâm Đồng của chúng ta có 35 dân tộc anh em sinh sống và cũng có đầy đủ các tôn giáo lớn tồn tại. Đặc biệt có nhiều giáo dân Tin lành và đạo Tin Lành phát triển mạnh trong những năm gần đây. Có âm mưu tách Tin Lành trong Hội Thánh Tin Lành Việt Nam ra thành Tin Lành Đề Ga riêng nhằm phục vụ mưu đồ thành lập nhà nước Đề Ga tự trị tại tây Nguyên.

Tôn trọng quyền lợi và sự bình đẳng giữa các dân tộc, quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân theo đúng pháp luật và tuyền thống văn hoá của Việt Nam.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý Nhà nước với một hệ thống pháp luật đồng bộ đầy đủ, hợp lý.

+ Phát huy tốt vai trò của MTTQ và các tổ chức chính trị XH, các già làng, trưởng bản, chức sắc tôn giáo để vận động quàn chúng nhân dân.

+ Thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.

Đầu tư xây dựng phát triển KT, VH, XH, xoá đói giảm nghèo cho đồng bào các dân tộc thiểu số và đồng bào có đạo.

+ Thực hiện chính sách ưu tiên, bồi dưỡng đào tạo cán bộ dân tộc thiểu số.

+ Nâng cao đời sống vật chất tinh thần và dân trí cho nhân dân.

4. Trên lĩnh vực QP-AN:

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với sự nghiệp QP-AN.

+ Trước hết xây dựng LLVT vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, có trình độ khả năng sẵn sàng chiến đấu cao.

+ Nâng cao năng lực và hiệu quả là tham mưu cho Đảng, Nhà nước về lĩnh vực QP-AN.

Tích cực xây dựng cơ sở chính trị, làm tốt công tác vận động quần chúng đặc biệt là những địa bàn trọng yếu, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc.

XD QĐND và CAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có bản lĩnh chính trị vững vàng. Trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân.

Tiếp tục củng cố xây dựng, hoàn chỉnh thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp với thế trận ANND trên từng địa phương.

+ Xây dựng KVPT tỉnh, huyện ngày càng vững chắc.

+ Từng bước hoàn thiện bổ sung kế hoạch A, A2 trên từng địa bàn.

+ Giữ vững nguyên tắc lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội và Công an.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về QP-AN.

5. Trên lĩnh vực ngoại giao:

Đổi mới tư duy đối ngoại để phù hợp với sự phát triển mau lẹ của tình hình thế giới và trong khu vực.

Xác định đúng đối tượng, đối tác trên tất cả các lĩnh vực. Chủ động tiến công trên hoạt động đối ngoại, vạch trần và làm thất bại các luận điệu xuyên tạc vu cáo, can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam dưới mọi hình thức.

Phân tích quan điểm của Đảng về đối tượng, đối tác theo NQ TW8 (Khóa IX)

+ Vấn đề xác định đối tác và đối tượng là một vấn đề rất hệ trọng và nhạy cảm; cần có cách tiếp cận mới vì thực tế cho thấy trong mỗi đối tượng đều có mặt cần hợp tác; ngược lại trong các đối tác vẫn tồn tại những khác biệt, mâu thuẫn lợi ích với ta, vì lợi ích của mình, ta vẫn gia tăng mặt hợp tác để hạn chế mặt bất lợi. Trong từng lĩnh vực, từng khu vực, từng thời điểm cụ thể lại có những đối tượng và đối tác khác nhau, nếu mơ hồ hoặc cứng nhắc đều có thể rơi vào tình thế lúng túng, bị động tron cách xử lý.

+ Việc xác định đối tác và đối tượng đấu tranh phải theo nguyên tắc: Những ai tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh. Mặt khác, trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta.

Vận động Việt kiều tham gia, phát hiện, đấu tranh với những âm mưu và hành động chống phá của bọn phản động trong người Việt lưu vong.

Phối hợp đối ngoại với AN-QP trong phòng chống “Diễn biến hòa bình”, BLLĐ, không cho địch lợi dụng lãnh thổ các nước láng giềng để xâm nhập, hỗ trợ, chỉ đạo chống phá Việt Nam.

- Làm tốt công tác đối ngoại nhân dân nhất là các địa bàn biên giới, hải đảo, và những khu công nghiệp tập trung các nước đầu tư cho ta.

Liên hệ bản thân: Phải nhận thức rõ : Tích cực xây dựng cơ sở chính trị, làm tốt công tác vận động quần chúng đặc biệt là những địa bàn trọng yếu, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc.
- Với trách nhiệm đầu đủ và khá năng trình độ nhận thức của mình tích cực tham gia vào các hoạt động thiết thực ở nhà trường, từng địa phương để góp phần làm thất bại âm mưu , thủ đọa DBHB- BLLĐ của kẻ địch .Trước hết là phải nêu cao tinh thần cảnh giác,tự bảo vệ mình, tự bảo vệ những tổ chức mình tham gia sinh hoạt.Luôn chủ động giả quyết tốt mỗi quan hệ cả nhân, nhà trường và xã hôi.

Kết luận

Phòng chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, BLLĐ của CNĐQ và các thế lực thù địch trên đất nước ta là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc dưới một hình thức mới, nhằm giải quyết triệt để vấn đề “ai thắng ai” giữa CNXH và CNTB ở nước ta, góp phần vào thắng lợi chung của CM thế giới. Đặc biệt là trong thời gian sắp đến chúng ta tổ chức Đại hội Đảng các cấp và tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI thì CNĐQ và các thế lực thù địch lại càng ráo riết tổ chức các hoạt động chống phá. Vì vậy chúng ta phải thường xuyên quán triệt sâu sắc mục tiêu, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo và nắm chắc các hoạt động chống phá của địch thực hiện tốt nhiệm vụ phòng, chống “Diễn biến hòa bình”, BLLĐ. Tích cực tuyên truyền giáo dục cho mọi cán bộ đảng viên, quần chúng nhân dân, LLVT luôn nêu cao tinh thần cảnh giác CM hành động kịp thời, có hiệu quả, nhất định chúng ta đánh bại hoàn toàn chiến lược “Diễn biến hòa bình”, BLLĐ của CNĐQ và các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN./.

8. Bài thu hoạch về chiến lược diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ

Câu hỏi: Hãy làm rõ âm mưu thủ đoạn - diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam. Quan điểm, phương châm chỉ đạo của Đảng ta trong đấu tranh phòng chống. Với cương vị của đồng chí cần phải làm gì để tham gia phòng chống làm thất bại âm mưu thủ đoạn của địch?

Bài làm

Chiến tranh đã đi qua, đất nước Việt Nam đã hoàn toàn độc lập tự do và đang từng bước vững chắc tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa song các thế lực thù địch tìm đang mọi cách để chống phá cách mạng Việt Nam nhằm triệt tiêu Đảng cộng sản và xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa. Âm mưu của địch là không đánh phá ào ạt bằng lực lượng vũ trang mà trá hình với che đậy dưới hình thức diễn biến hoà bình, đây là chiến lược tổng hợp của chủ nghĩa đế quốc dùng biện pháp phi vũ trang là chính, chủ yếu đánh vào tình cảm con người làm cho con người mất phương hướng, mất niềm tin, mất ý chí, phản bội Tổ quốc.

Về bản chất của chiến lược diễn biến hoà bình là chống cộng sản, chống phá độc lập dân tộc, chống CNXH.

Mục tiêu: Xoá bỏ CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Mục tiêu cơ bản là xoá bỏ chủ nghĩa Mác - Lê Nin thay thế bằng tư tưởng tư sản và xoá bỏ vai trò của Đảng Cộng Sản.

Đối tượng của diễn biến hoà bình: Các nước XHCN còn lại trọng điểm là Việt Nam.

Nội dung chống phá: Toàn diện trên mọi lĩnh vực, trong đó lấy kinh tế làm mũi nhọn, lấy vấn đề dân tộc, tôn giáo làm ngòi nổ, lấy ngoại giao để hỗ trợ, lấy quân sự để răn đe , mục đích chống phá nội bộ Đảng từ cơ sở đến Trung ương.

Biện pháp: Thực hiện chống phá công khai và bí mật lợi dụng triệt để những sai lầm bên trong và coi trọng xây dựng lực lượng bên trong để lôi kéo tập hợp lực lượng, mua chuộc những cán bộ thoái hoá biến chất tạo dựng ngọn cờ bên trong tự diễn biến - hoài nghi trong nội bộ.

Trọng điểm chống phá của chiến lược diễn biến hoà bình là Việt Nam vì:

Việt Nam là nước XHCN đầu tiên của Đông Nam Á là một trong những ngọn cờ đấu tranh chống CN đế quốc vì độc lập dân tộc.- Việt Nam là nước đầu tiên đổi mới thành công và phát triển nhanh trên trường quốc tế.

- Một nước XHCN ở Đông Nam Á mà là một Đảng cộng sản cầm quyền, đây là một thách thức đối với CNĐQ.

Việt Nam có vị trí chính trị, quân sự, kinh tế ở Châu Á Thái Bình Dương

Mục đích:

  • Làm sụp đổ thần tượng của Việt Nam trên trường quốc tế
  • Xoá bỏ được nổi đau danh dự của nước Mỹ thất bại ở Việt Nam
  • Lợi dụng Việt Nam để kiềm chế Trung Quốc.

Mục tiêu: Nhằm xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và CNXH Việt Nam, lật đổ chế độ XHCN.

Âm mưu thủ đoạn chống phá: Chống phá trên lĩnh vực chính trị tư tưởng văn hoá:- Chống phá về chính trị: phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam về mặt tư tưởng văn hoá.

Chống phá trên lĩnh vực kinh tế: Mua chuộc, lôi kéo. Tư nhân hoá về kinh tế, đẩy mạnh kinh tế tư nhân làm kinh tế nhà nước suy giảm. Đề cao vai trò kinh tế tư nhân thu hẹp kinh tế nhà nước làm cho kinh tế Việt Nam phụ thuộc vào kinh tế nước ngoài. Một nền kinh tế thị trường của chủ nghĩa xã hội lấy nền kinh tế nhà nước làm chủ đạo.

Chống phá trên lĩnh vực xã hội: Đưa ra 3 khu tự trị: Khu tự trị- Nhà nước Khơ Me- Hơ Mông tự trị

Chống phá trên lĩnh vực quốc phòng an ninh:

Chống phá trên lĩnh vực đối ngoại Tăng cường nhiều hình thức: thăm hỏi, du lịch, từ thiện, móc nối cấu kết với các tổ chức phản động bên trong nhằm bạo loạn lật đổ chế độ XHCN của ta.

Mục đích: lật đổ chế độ từ địa phương đến trung ương,

Bạo loạn: trên diện vừa và rộng có sự chỉ đạo của bọn phản động

Phương thức tiến hành:

  • Bạo loạn bằng chính trị: chỉ đạo lật đổ.
  • Bạo loạn bằng vũ trang.

Tính chất của bạo loạn: Là tính chất đối kháng giai cấp một mất một còn giữa lực lượng cách mạng và phản cách mạng.

Phương châm của Đảng sử dụng lực lượng chính trị và tuyên truyền

  • Bạo loạn vũ trang xảy ra trong thời bình: Dùng lực lượng chính trị để tuyên truyền và vũ trang để trấn áp.
  • Trong thời chiến: Dùng biện pháp quân sự mục đích hạn chế sự can thiệp bên ngoài

Quan điểm, phương châm chỉ đạo của Đảng trong phòng chống diễn biến hoà bình và bạo loạn.

1. Nhiệm vụ, mục tiêu phòng chống:Đảng ta xác định nhiệm vụ phòng chống diễn biến hoà bình của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân.Tiến hành lâu dài đấu tranh trên mọi lĩnh vực.

2. Mục tiêu: Giữ vững sự ổn định chính trị nhưng phải trên cơ sở giữ vững độc lập dân tộc và CNXH, bảo vệ vững chắc chủ quyền và lợi ích quốc gia.

Quan điểm chỉ đạo đấu tranh chống diễn biến hoà bình.

a. Kiên quyết giữ vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH. Ngăn chặn đẩy lùi nguy cơ vũ trang của thế lực thù địch.

b. Phát huy sức mạnh tổng hợp tiến hành cuộc đấu tranh

c. Giữ vững ổn định từ bên trong và chủ động phòng ngừa từ bên ngoài, kết hợp xây và chống.

d. Chống diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ là nhiệm vụ cấp bách, thường xuyên, lâu dài trong thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta.

Biện pháp đấu tranh trên các lĩnh vực:

Ổn định chính trị văn hoá: Xây dựng nền văn hoá đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.

- Trên lĩnh vực nhân sự: Tổ chức Đảng, chính quyền, phát hiện kịp thời cá nhân có biểu hiện tiêu cực, suy thoái về đạo đức, nói xấu chế độ để chấn chỉnh giúp đỡ họ nhìn nhận đúng bản chất của vấn đề, có ý thức bảo vệ nội bộ bảo vệ tổ quốc XHCN.

Trên lĩnh vực kinh tế: Phát triển kinh tế địa phương, phát triển kinh tế thị trường theo hướng XHCN.

Trên lĩnh vực ngoại giao: Thực hiện đa phương hoá, đa dạng hoá quốc tế.

Trên lĩnh vực dân tộc tôn giáo: nâng cao kinh tế vùng sâu, vùng xa.

Trên lĩnh vực quốc phòng an ninh: Giữ vững quốc phòng an ninh quốc gia. Thường xuyên làm tốt giáo dục quốc phòng cho toàn dân.

Thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở, tránh tình trạng gây bức xúc trong nhân dân giải quyết ổn thoả và nhanh chóng các thủ tục liên quan đến vấn đề khiếu kiện trong dân.

Đối với bản thân là một cán bộ đảng viên nhằm góp phần chống âm mưu thủ đoạn của các lực lượng thù địch chống phá cách mạng Việt Nam

Trước hết lập trường tư tưởng phải vững vàng, kiên định, quyết không lay chuyển trước những luận điệu xuyên tạc về tôn giáo, mê tín dị đoan cám dỗ bởi vật chất tầm thường.

Tuyên truyền sâu rộng đường lối chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước đến tận người dân.

Tuyên truyền vận động CBGV , học sinh, quần chúng hiểu rõ bản chất xấu xa, âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch, tránh bị lôi kéo, bị kích động

Tham gia tích cực các phong trào đấu tranh toàn dân, toàn diện chống CNĐQ trên các lĩnh vực.

Bình tĩnh, tụ tin, linh hoạt giải quyết nhanh chóng, có khoa học, an toàn những biến cố xảy ra trong trường học .

Có kế hoạch sơ tán học sinh đến địa điểm an toàn và triển khai giảng dạy tốt khi chiến tranh xảy ra.

9. Bài thu hoạch Xây dựng thế trận An ninh nhân dân trong tình hình mới

1. Sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về xây dựng nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân

Tại Đại hội toàn quốc lần thứ VI, cùng với đề ra bài học “lấy dân làm gốc”, Đảng khẳng định phải “đẩy mạnh công cuộc xây dựng nền quốc phòng và an ninh toàn dân”[1]. Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, cụm từ “xây dựng nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân” lần đầu tiên được đề cập trong phần quốc phòng - an ninh. Cương lĩnh 1991 nêu rõ: “Không ngừng nâng cao giác ngộ và cảnh giác chính trị của nhân dân, xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân trong điều kiện mới, với những lực lượng nòng cốt tinh nhuệ”.

Sau đó, vấn đề xây dựng nền an ninh nhân dân được thể hiện rõ hơn trong các văn kiện đại hội của Đảng và trong nhiều nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia. Nghị quyết 08 về Chiến lược An ninh quốc gia ngày 17/12/1998 của Bộ Chính trị đưa ra chủ trương: “Phát động sâu rộng phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc. Dựa vào dân, huy động sức mạnh toàn dân tham gia bảo vệ an ninh quốc gia...”. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX chỉ rõ: “Xây dựng cơ sở chính trị - xã hội, thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân... trên các địa bàn chiến lược trọng yếu [2]”. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (khóa IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhấn mạnh: “Củng cố và hoàn thiện nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân và thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trên từng địa bàn tỉnh, thành phố, đặc biệt là trên các địa bàn chiến lược”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X, ngày 09/02/2007 về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 xác định: “Xây dựng và phát triển kinh tế biển phải gắn chặt với đảm bảo quốc phòng, an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân gắn với phát triển kinh tế biển”.

Báo cáo chính trị tại Đại hội XI và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục nhấn mạnh: xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân, kết hợp chặt chẽ với xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc; chỉ rõ “sức mạnh quốc phòng, an ninh là sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh dân tộc, sức mạnh thời đại, sức mạnh của thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân”. Các quan điểm này được cụ thể hóa trong Nghị quyết số 28, Khóa XI về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”.

Để khơi dậy, quy tụ các tầng lớp nhân dân tham gia công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bên cạnh việc kế thừa quan điểm về xây dựng nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân văn kiện, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, XI đều chú trọng đến việc phải “xây dựng thế trận lòng dân vững chắc”. Tại Đại hội XII, nhận thức về xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân được phát triển lên tầm cao mới: “Xây dựng thế trận lòng dân, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân”.

Đến nay, xây dựng nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân ngày càng được nhận thức rõ hơn về nội hàm, quan điểm, chủ trương, biện pháp xây dựng. Cụ thể:

Xác định rõ nền an ninh nhân dân là sức mạnh về tinh thần, vật chất, sự đoàn kết và truyền thống dựng nước, giữ nước của toàn dân tộc được huy động vào sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, trong đó lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia làm nòng cốt. Thế trận an ninh nhân dân là việc tổ chức, bố trí lực lượng bảo vệ an ninh quốc gia và các nguồn lực cần thiết để chủ động bảo vệ an ninh quốc gia.

Xây dựng nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân bao gồm vận động toàn dân tham gia phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc; xây dựng địa phương, cơ quan, tổ chức vững mạnh; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách, kế hoạch bảo vệ an ninh quốc gia gắn với xây dựng, củng cố hệ thống chính trị, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, đối ngoại và kết hợp chặt chẽ với xây dựng nền quốc phòng toàn dân; kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại, với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; xây dựng lực lượng bảo vệ an ninh quốc gia vững mạnh; xây dựng các phương án và tổ chức, bố trí lực lượng, phương tiện cần thiết để chủ động bảo vệ an ninh quốc gia trong mọi tình huống.

Xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước. Công an nhân dân làm nòng cốt trong xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân, xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Bộ, ngành, địa phương có trách nhiệm tham gia xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân, gắn với nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân vững mạnh; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng tiềm lực bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; thực hiện giáo dục quốc phòng và an ninh. Người đứng đầu cấp uỷ và chính quyền các cấp phải chịu trách nhiệm chỉ đạo tổ chức thực hiện phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; cán bộ, đảng viên có trách nhiệm tự giác thực hiện và tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân tích cực tham gia.

Xây dựng lực lượng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có số lượng hợp lý, với chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao; ưu tiên hiện đại hóa một số lực lượng. Củng cố bản chất cách mạng, bản lĩnh chính trị vững vàng, lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước, tăng cường mối quan hệ máu thịt với nhân dân. Xây dựng, kiện toàn về tổ chức, đảm bảo các yêu cầu chính quy, tinh gọn, cơ động mạnh; tích cực, chủ động chuẩn bị lực lượng đủ mạnh và các kế hoạch, phương án cụ thể, khoa học, sẵn sàng bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong mọi tình huống. Xây dựng đội ngũ cán bộ chiến sỹ đủ về số lượng và đảm bảo chất lượng về mọi mặt, đủ khả năng hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.

Tập trung xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân kết hợp với xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc. Xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân. Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội là nền tảng vững chắc của quốc phòng - an ninh. Để xây dựng nền an ninh nhân dân phải kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trên từng địa bàn. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của mỗi cán bộ, đảng viên và từng người dân tham gia bảo vệ an ninh, trật tự, xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân.

Tập trung xây dựng, củng cố tiềm lực của nền an ninh nhân dân; phát triển công nghiệp an ninh theo hướng lưỡng dụng; tăng cường nguồn lực, tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại cho lực lượng Công an nhân dân đáp ứng yêu cầu bảo vệ an ninh, trật tự trong mọi tình huống. Phát triển lý luận, khoa học an ninh; chủ động, tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh.

Tuy nhiên, bên cạnh những nhận thức đã rõ vẫn còn một số nhận thức chưa rõ, chưa thống nhất, đó là:

- Chưa làm rõ nhận thức chung về mối quan hệ giữa nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân. Đồng thời chưa làm rõ các thành tố và mối quan hệ giữa các thành tố trong nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân; đặc thù cơ bản của nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh khác với nền quốc phòng toàn dân và thế trận quốc phòng toàn dân. Chưa thống nhất về chủ thể nòng cốt là Công an nhân dân hay Công an nhân dân và Quân đội nhân dân trong xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân trong các văn kiện của Đảng và quy định của pháp luật.

- Hiện nay, mặc dù thống nhất về cơ bản bản chất của thế trận an ninh nhân dân là tổ chức, bố trí lực lượng, phương tiện nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp để chủ động bảo vệ an ninh, trật tự, tuy nhiên vẫn còn những quan điểm khác nhau khi diễn giải khái niệm: là hình thái, hay là hoạt động, là việc tổ chức lực lượng, phương tiện...

- Chưa thống nhất phạm vi xây dựng thế trận an ninh nhân dân, nhất là theo địa bàn, mục tiêu, tuyến, lĩnh vực. Có ý kiến cho rằng chỉ xây dựng từ địa bàn cấp tỉnh trở lên; có ý kiến đồng nhất thế trận an ninh nhân dân với thế trận của lực lượng nghiệp vụ hoặc đồng nhất xây dựng thế trận với xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc...

- Chưa phân định rõ xây dựng nền an ninh nhân dân và xây dựng thế trận an ninh nhân dân. Thể chế hóa quan điểm của Đảng, Điều 16 - Luật An ninh quốc gia năm 2004 gộp chung quy định về xây dựng nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân: (1) Vận động toàn dân tham gia phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc; giáo dục, động viên cán bộ, công chức, người lao động và mọi công dân tham gia xây dựng địa phương, cơ quan, tổ chức vững mạnh; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. (2) Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách, kế hoạch bảo vệ an ninh quốc gia gắn với xây dựng, củng cố hệ thống chính trị, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, đối ngoại và kết hợp chặt chẽ với xây dựng nền quốc phòng toàn dân. (3) Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia; xác định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong bảo vệ an ninh quốc gia. (4) Xây dựng lực lượng bảo vệ an ninh quốc gia vững mạnh; xây dựng các phương án và tổ chức, bố trí lực lượng, phương tiện cần thiết để chủ động bảo vệ an ninh quốc gia trong mọi tình huống.

Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế trên là do chưa có sự quan tâm tổng kết thực tiễn về xây dựng nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân. So với nền quốc phòng toàn dân và thế trận quốc phòng toàn dân đã có bề dày lý luận, việc tổ chức nghiên cứu lý luận về xây dựng nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân còn ít, chưa bài bản. Bảo vệ Tổ quốc trong văn kiện của Đảng và bảo vệ an ninh quốc gia trong văn bản pháp luật vốn là hai khái niệm gốc nhưng nhưng chưa phân biệt rõ nội hàm.

Việc chưa thống nhất về chủ thể nòng cốt là do việc chủ trì thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự, xây dựng nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân trên một số địa bàn, lĩnh vực còn có sự chồng chéo giữa hai lực lượng Công an và Quân đội. Việc tổ chức một số lực lượng Công an, Quân đội chưa phù hợp với chủ trương kiện toàn tổ chức: một lực lượng có thể thực hiện nhiều nhiệm vụ, nhưng một nhiệm vụ chỉ một lực lượng chủ trì và chịu trách nhiệm chính.

2. Thực trạng xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân thời gian qua

(1) Ưu điểm, thành tựu

Đã hình thành trên thực tế nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân trong phạm vi cả nước và trên các địa bàn, lĩnh vực trọng điểm về an ninh, trật tự. Qua đó đã góp phần phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của toàn dân trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; từng bước tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh của đất nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, phục vụ thắng lợi sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và đối ngoại của đất nước.

Vai trò lãnh đạo của Đảng, cấp ủy và quản lý, điều hành của Nhà nước, chính quyền các cấp đối với việc xây dựng nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân được đảm bảo. Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân đã được khẳng định. Thể hiện rõ trong việc định hướng quan điểm, xác định mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ, giải pháp bảo vệ an ninh, trật tự để thống nhất về tư tưởng trong hệ thống chính trị và nhân dân; chỉ đạo các ngành, các cấp tham gia xây dựng nền an ninh nhân dân, tổ chức thế trận an ninh nhân dân; kết hợp chặt chẽ với xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân, với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trên các địa bàn, lĩnh vực.

Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc đã được xây dựng với nhiều loại hình phong phú, đa dạng. Nhiều mô hình, điển hình tiên tiến đã được nhân rộng, thu hút ngày càng sâu rộng các tầng lớp nhân dân tham gia phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh với các thế lực thù địch và các loại tội phạm; tham gia giải quyết các “điểm nóng” về an ninh, trật tự. Việc huy động quần chúng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự đã có sự đổi mới, tập trung hơn vào các đối tượng và địa bàn trọng điểm như: công tác vận động người có uy tín trong dân tộc, tôn giáo, công tác vận động quần chúng ở các vùng chiến lược Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, vùng dân tộc Chăm. Thực tế 10 năm qua, nhân dân đã tích cực tham gia phòng ngừa, góp phần giải quyết có hiệu quả các vụ gây rối, bạo loạn, ổn định tình hình, làm giảm tội phạm và các tệ nạn xã hội; cung cấp hàng chục triệu tin có giá trị, giúp các cơ quan chức năng phát hiện, điều tra, xử lý có hiệu quả nhiều vụ việc về an ninh, trật tự.

Sức mạnh cả về vật chất và tinh thần của nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân từng bước được nâng cao. Các tổ chức đảng, chính quyền từ trung ương đến địa phương được củng cố, xây dựng theo hướng trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo. Việc thực hiện nghiêm các quy định về xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4, Khóa XI, XII, các quy định về nêu gương cán bộ, đảng viên, nhất là với đảng viên giữ các cương vị lãnh đạo cao nhất đã góp phần nâng cao uy tín với nhân dân. Lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước ngày càng được củng cố, giúp hình thành “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng để xây dựng nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân. Bên cạnh đó, thành tựu to lớn của quá trình đổi mới, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế đã giúp tăng cường tiềm lực, sức mạnh của nền an ninh nhân dân. Tiềm lực khoa học - công nghệ, các phương tiện, trang bị kỹ thuật hiện đại phục vụ nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự được tăng cường đã giúp củng cố, xây dựng nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững chắc, nâng cao hiệu quả nắm tình hình, đấu tranh với các thế lực thù địch và tội phạm.

Lực lượng Công an nhân dân được xây dựng ngày càng vững mạnh, phát huy vai trò nòng cốt trong xây dựng nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân. Đã tập trung xây dựng lực lượng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Tổ chức bộ máy của Bộ Công an tiếp tục đổi mới, hoàn thiện, hoạt động ngày càng có hiệu lực, hiệu quả hơn. Đã tập trung củng cố lực lượng trực tiếp chiến đấu, lực lượng tại cơ sở, nhất là tại các địa bàn trọng điểm, chiến lược về an ninh, trật tự. Lực lượng Công an đã phát huy vai trò nòng cốt tham mưu với Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức xây dựng nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân; phối hợp, hướng dẫn các ngành, các địa phương xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc rộng khắp trên các địa bàn, lĩnh vực. Chủ động nắm tình hình, xây dựng và triển khai nhiều đề án, phương án, kế hoạch đảm bảo an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội theo địa bàn, mục tiêu, tuyến, lĩnh vực, gắn với đối tượng trọng điểm; góp phần phòng ngừa, đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, các loại tội phạm; bảo vệ Đảng, chính quyền và các tổ chức thuộc hệ thống chính trị, bảo vệ nhân dân, đảm bảo an ninh, an toàn cho mọi hoạt động của cả hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở.

Việc kết hợp thế trận an ninh nhân dân với thế trận quốc phòng toàn dân đã được triển khai một cách đồng bộ và có bước phát triển mới. Sự kết hợp giữa thế trận an ninh nhân và thế trận quốc phòng toàn dân đã được tiến hành đồng bộ từ tham mưu cho Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền các cấp ban hành các chủ trương, quyết sách về các vấn đề liên quan đến an ninh, quốc phòng, đến củng cố nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân ở các vùng chiến lược, các địa bàn trọng điểm phức tạp về an ninh, trật tự. Chủ động phối hợp trong vận động quần chúng, củng cố cơ sở chính trị làm nền tảng chung cho cả hai thế trận; củng cố, tăng cường sự đoàn kết gắn bó máu thịt giữa các lực lượng vũ trang với nhân dân. Lực lượng Công an nhân dân và Quân đội nhân dân đã chú trọng phối hợp trao đổi thông tin, đánh giá và xử lý tình hình; đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, phản động; xử lý các tình huống bạo loạn, phá rối an ninh, trật tự; bảo vệ các cơ quan đầu não, các bộ phận quan trọng, thiết yếu trong hệ thống chính trị; đấu tranh phòng, chống tội phạm, nhất là tội phạm về ma túy, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm mạng.

(2) Hạn chế, bất cập và nguyên nhân

Nền an ninh nhân dân chưa được xây dựng vững chắc, toàn diện trên tất cả các địa bàn, lĩnh vực. Thế trận an ninh nhân dân chưa phát huy được hiệu quả một cách đồng bộ, bền vững và thường xuyên liên tục; nhiều mặt công tác chưa được nhận thức, triển khai theo đúng tinh thần, nội dung của việc xây dựng, nên có lúc, có nơi thế trận chưa được hình thành rõ nét. Việc xảy ra các vụ biểu tình, bạo loạn, phá rối an ninh và tình hình phức tạp về an ninh, trật tự ở các địa bàn, lĩnh vực cho thấy còn những khoảng trống lớn trong xây dựng nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh dân dân. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc tuy có chuyển biến tích cực nhưng chưa đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ đảm bảo an ninh, trật tự trong bối cảnh tình hình có những diễn biến mới phức tạp; bộc lộ những hạn chế, bất cập trước những âm mưu, thủ đoạn mới của các thế lực thù địch và bọn tội phạm, nhất là âm mưu “diễn biến hòa bình”, chia rẽ nhân dân với Đảng, Nhà nước; chia rẽ nhân dân với lực lượng Công an nhân dân; lợi dụng vấn đề tự do, dân chủ, nhân quyền, vấn đề tôn giáo, dân tộc để kích động chống phá.

Một bộ phận cán bộ, đảng viên, cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp chưa nhận thức đúng đắn, đầy đủ về vai trò, trách nhiệm tham gia bảo vệ an ninh, trật tự; còn có biểu hiện mơ hồ, chủ quan, mất cảnh giác trước âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch. Còn có tư tưởng cho rằng đảm bảo an ninh, trật tự, xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân là nhiệm vụ riêng của lực lượng Công an nhân dân nên thiếu sự chỉ đạo huy động sức mạnh tổng hợp, tham gia phòng ngừa, đấu tranh với các đối tượng; dẫn tới bị động, lúng túng trong xử lý, giải quyết vụ việc phức tạp nảy sinh.

Việc cụ thể hóa, thể chế hóa các nội dung, tinh thần tư tưởng chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về xây dựng nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân của các cơ quan chức năng còn chậm nên trong thời gian dài việc nhận thức và tổ chức thực hiện xây dựng nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân còn thiếu thống nhất, đồng bộ, thiếu chỉ đạo, hướng dẫn cụ thể, thiếu đôn đốc, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm chuyên sâu dẫn đến hiệu quả bị hạn chế, không đồng đều. Quan điểm chỉ đạo của Đảng liên quan đến lĩnh vực bảo đảm an ninh, trật tự, xây dựng nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân chưa được triển khai có chiều sâu nhất là việc kết hợp giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, mở rộng quan hệ quốc tế với bảo đảm an ninh, trật tự; những vấn đề này cũng chưa được thể chế hóa làm cơ sở pháp lý để xác định và xử lý trách nhiệm các cơ quan, tổ chức và cá nhân liên quan.

Việc kiện toàn, củng cố hệ thống chính trị, nhất là hệ thống chính trị cơ sở ở nhiều nơi còn bất cập. Hệ thống chính trị cơ sở chưa đủ sức lãnh đạo, tổ chức quần chúng đảm bảo an ninh, trật tự, quản lý, giáo dục đối tượng tại cộng đồng; thậm chí có nơi, có lúc còn bị các thế lực thù địch và tội phạm lôi kéo, lũng đoạn, vô hiệu hóa; đặc biệt là ở một số địa bàn trọng điểm phức tạp về an ninh, trật tự ở cơ sở, nhất là trong vùng dân tộc thiểu số, vùng tôn giáo.

Tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên trong thời gian qua đã ảnh hưởng đến năng lực, sức chiến đấu của Đảng và nguy hiểm nhất là làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ, để các thế lực thù địch, phản động lợi dụng lôi kéo một bộ phận quần chúng chống phá. Điều này đã gây ra nhiều khó khăn trong xây dựng nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân.

Sự kết hợp giữa an ninh với quốc phòng, an ninh với kinh tế và với các lĩnh vực khác có lúc, có nơi chưa được thực hiện tốt. Việc đổi mới các biện pháp công tác bảo vệ an ninh quốc gia trên một số lĩnh vực chưa theo kịp sự thay đổi nhanh chóng của tình hình, nhất là dự báo chiến lược còn yếu, thiếu chiều sâu, nên bị động trong xây dựng nền an ninh nhân dân và tổ chức thế trận an ninh nhân dân, huy động các lực lượng tham gia phòng ngừa và xử lý các vụ việc về an ninh, trật tự phát sinh đột xuất.

Nguyên nhân của hạn chế, bất cập trên, về mặt khách quan do ảnh hưởng từ sự biến động phức tạp, nhanh chóng, khó lường của tình hình thế giới, khu vực, nhất là sự điều chỉnh chiến lược của các nước lớn tác động tiêu cực đến lợi ích và an ninh quốc gia của Việt Nam. Quá trình đổi mới đất nước, chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, bên cạnh mặt tích cực cũng làm nảy sinh nhiều khó khăn, thách thức cả về lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực an ninh, trật tự. Mặt khác, tiềm lực kinh tế của đất nước còn hạn chế, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, công nghệ, kỹ thuật còn lạc hậu không chỉ ảnh hưởng đến nguồn lực vật chất mà còn tác động tiêu cực đến niềm tin của nhân dân đối với Đảng và khối đại đoàn kết dân tộc; ảnh hưởng đến tiềm lực của nền an ninh nhân dân và sức mạnh của thế trận an ninh nhân dân cả về vật chất và chính trị, tinh thần.

Về mặt chủ quan, trước hết là chưa tạo ra được sự chuyển biến căn bản trong nhận thức về nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong cả hệ thống chính trị và trong các giai tầng xã hội tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ. Việc tổ chức thực hiện các chủ trương liên quan đến xây dựng nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân từ thể chế hóa các chủ trương đến hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, sơ kết, tổng kết còn nhiều bất cập. Công tác chỉ đạo, chỉ huy tổ chức thế trận an ninh nhân dân chưa tập trung, thiếu thường xuyên liên tục; chưa được cụ thể hóa phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ, tình hình đặc điểm, điều kiện của từng địa phương, đơn vị; thiếu sự thống nhất về tổ chức, bố trí lực lượng chuyên trách cần thiết tham gia thế trận.

Việc xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật còn thiếu đồng bộ, chồng chéo giữa các lĩnh vực, nhiều quy định chưa phù hợp chậm được bổ sung, sửa đổi. Chức năng quản lý nhà nước về an ninh, trật tự có nhiều lực lượng tham gia nhưng sự phối hợp hoạt động chưa thật hiệu quả. Bảo vệ an ninh, trật tự ở tuyến biên giới và khu vực biên phòng còn trùng dẫm và sơ hở.

Sự phối hợp giữa các ngành, các lực lượng trong đảm bảo an ninh, trật tự bộc lộ những hạn chế trong cả nhận thức và tổ chức thực hiện. Một số cơ quan, ban, ngành các cấp chưa có ý thức chủ động, tự giác phối hợp thường xuyên với lực lượng Công an; chưa coi nhiệm vụ đảm bảo an ninh quốc gia, phòng, chống tội phạm, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội là một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm của mỗi ngành, mỗi cấp, mỗi đơn vị. Còn thiếu cơ chế hữu hiệu đảm bảo sự kết hợp chặt chẽ, thường xuyên giữa nhiệm vụ đảm bảo an ninh, trật tự với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội./.

Đại tá, PGS.TS Trần Anh Vũ

10. Bài thu hoạch "xây dựng thế trận lòng dân'' trong tình hình mới

Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã chứng minh rằng, “thế trận lòng dân” là một yếu tố vô cùng quan trọng và quyết định đến việc hình thành sức mạnh chính trị, quân sự, quốc phòng to lớn để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Trong suốt lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam luôn có những cách thức xây dựng thế trận lòng dân để đối phó với các thế lực xâm lược. Đó là những biện pháp cơ bản như kết hợp giữa công cuộc xây dựng nền kinh tế với công cuộc xây dựng nền quốc phòng, tăng cường đào tạo, rèn luyện và sử dụng nguồn nhân lực, tạo sự đoàn kết và đồng tâm trong nhân dân, đẩy mạnh các phong trào tự vệ, tập trung xây dựng các tuyến đường, hầm mỏ, đường hầm, hầm ngầm, tăng cường trang bị quân sự, và tăng cường đào tạo các đội ngũ cán bộ chiến sỹ trong quân đội và dân quân tự vệ.

"Thế trận lòng dân" là khái niệm tượng trưng cho tinh thần yêu nước, đoàn kết, chiến đấu và phấn đấu của toàn dân tộc, góp phần tạo nên nền tảng chính trị vững chắc và sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, để thực hiện các mục tiêu của cách mạng. Không giống như thế trận quân sự hay quốc phòng, "thế trận lòng dân" được thể hiện bằng sức mạnh nội sinh của quốc gia và dân tộc. Tuy nhiên, "thế trận lòng dân" không tự nhiên hình thành mà phải được củng cố thông qua đường lối, chủ trương và chính sách hợp lòng dân, phục vụ lợi ích của nhân dân và được triển khai thống nhất trong mọi tầng lớp và giai tầng xã hội. Ngày nay, kế thừa truyền thống của ông cha, trong bối cảnh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, việc xây dựng “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn quan tâm và phát huy mạnh mẽ. Việc này đòi hỏi chúng ta phải tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục và tập huấn nhân dân về vấn đề an ninh quốc gia, nâng cao ý thức tự vệ của nhân dân, và tạo động lực cho nhân dân tham gia vào các phong trào tự vệ và các hoạt động xây dựng nền quốc phòng.

Việc Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đứng vững trên lập trường và quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là một sự khẳng định rõ nét về sự đúng đắn và xuất phát từ lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Với sự kế thừa bài học lịch sử và quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân, Đảng ta đã coi trọng yếu tố "lòng dân" và đặc biệt coi trọng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong việc xây dựng và phát huy sức mạnh tổng hợp cho công cuộc giải phóng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn nhấn mạnh rằng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Điều quan trọng nhất để đạt được sự thành công trong cách mạng là sự đồng sức, đồng lòng của toàn dân, là sự đoàn kết "muôn người như một" dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là những giá trị quan trọng mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang khẳng định và phát triển trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của mình.

Xây dựng “thế trận lòng dân” là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn dân, và đây là một trong những phương châm lãnh đạo quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng “thế trận lòng dân” được vận dụng một cách linh hoạt trong thực tiễn cuộc sống, từ cấp trên đến cấp dưới của hệ thống chính trị và toàn dân. Tại cấp trên, các nhà lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đã thường xuyên đến gặp gỡ, tương tác với nhân dân để lắng nghe, tìm hiểu và giải quyết các vấn đề liên quan đến cuộc sống của họ. Điều này giúp tạo dựng được niềm tin và sự ủng hộ của nhân dân đối với Đảng và chính quyền. Tại cấp dưới, các cán bộ, công chức và đảng viên được đào tạo để trở thành những người lãnh đạo có khả năng tương tác, lắng nghe và giải quyết các vấn đề của nhân dân. Họ cũng được khuyến khích tham gia các hoạt động xã hội và đóng góp tích cực vào sự phát triển của địa phương, giúp tạo dựng mối quan hệ tốt đẹp với nhân dân và tăng cường niềm tin của họ đối với chính quyền địa phương. Có thể thấy, việc xây dựng "thế trận lòng dân" không chỉ đòi hỏi sự cố gắng của hệ thống chính trị, mà còn yêu cầu sự đóng góp của toàn dân. Mỗi công dân đều cần phải có trách nhiệm và vai trò của mình trong việc xây dựng "thế trận lòng dân". Chỉ có khi mọi người cùng nhau đoàn kết, thể hiện lòng tin và sự ủng hộ vào đảng và chế độ, thì chúng ta mới có thể xây dựng được một thế trận quốc phòng vững chắc và đáp ứng được các thách thức và mối đe dọa đang tồn tại.

Để xây dựng "thế trận lòng dân" trong nền quốc phòng toàn dân, trước tiên cần nâng cao nhận thức và trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn dân về chủ trương này. Chỉ khi có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của "thế trận lòng dân" mới có thể đưa ra những hành động đúng đắn. Do đó, việc quán triệt sâu rộng về chủ trương xây dựng "thế trận lòng dân" là cần thiết, theo tinh thần của Đại hội XIII của Đảng. Ngoài ra, cần phát huy dân chủ rộng rãi, tạo đồng thuận, nhất trí cao trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp cần nắm chắc nội dung, yêu cầu xây dựng "thế trận lòng dân" của từng địa phương để có biện pháp giáo dục phù hợp.

Cần đổi mới nội dung và đa dạng hóa các hình thức, phương pháp giáo dục, tuyên truyền, kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục thường xuyên và giáo dục chuyên đề. Cần cũng cố vai trò của các tổ chức, lực lượng, phương tiện thông tin, truyền thông và thiết chế văn hóa để giáo dục, tuyên truyền. Đồng thời, cần đẩy mạnh các phong trào thi đua để xây dựng và nhân rộng các điển hình tiên tiến về xây dựng "thế trận lòng dân". Việc đẩy mạnh xây dựng và chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; củng cố mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân tộc cũng là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng "thế trận lòng dân".

11. Bài thu hoạch về nội dung an ninh mạng mới nhất năm  2024

Bài thu hoạch về nội dung an ninh mạng
Bài thu hoạch Phòng, chống vi phạm pháp luật trên không gian mạng

- Âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch nhằm vào an ninh mạng

Thời gian vừa qua, đã xuất hiện những cuộc tấn công mạng với quy mô lớn và cường độ cao nhằm đe dọa đến an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội. Lợi dụng triệt để những lỗ hổng còn tồn tại trên không gian mạng, các thế lực thù địch đã và đang tiến hành các hoạt động chống phá nhằm xâm phạm an ninh quốc gia, tuyên truyền chống phá chế độ, kích động biểu tình bạo loạn trong nhân dân, thực hiện các cuộc "cách mạng đường phố" ở nước ta.

Hiện nay, với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch ngày càng trở nên tinh vi, nhan hiểm và rất khó để nhận biết. Những đối tượng xấu thường tận dụng tối đa các phương tiện truyền thông và mạng Internet, phát triển lên nhiều trang mạng xã hội, blog, website,... khai thác tối đa các dịch vụ phát tán trực tuyến trên mạng xã hội; chủ động chuẩn bị lực lượng cũng như liên kết các tổ chức phản động, sẵn sàng tạp ra những "điểm nóng" khi Nhà nước can thiệp bằng các biện pháp mạnh. Chúng trực tiếp sử dụng các phương thức khác nhau như "thư ngỏ", "thơ ca", "tâm thư", "hiến kế", "bình luận" với những từ ngữ, lời lẽ núp bóng "tiến bộ, nhân văn", "vì dân, vì nước", "chống độc tài",... để đưa ra những đường hướng lệch lạc, gọi đó là những "đường lối mới", một "hiến pháp mới" và muốn đem ra thay thế cho đường lối của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước ta hiện nay.

Những đối tượng trên tuyên truyền, phát tán dày đặc những thông tin xấu, bôi nhọ, bịa đặt, trước, trong và sau các sự kiện chính trị quan trọng của nước ta, nhất là thời điểm chuẩn bị cho Đại hội Đảng các cấp, các sự kiện phức tạp, nhạy cảm; triệt để khai thác những thông tin "trái chiều" từ những lực lượng đối lập, các tổ chức phản động quốc tế; xuyên tạc, bịa đặt, thật giả bất phân, đội lốt những bình luận theo chiều hướng có vẻ là tích cực nhưng bản chất là nhằm lôi kéo dư luận và người dân để truy cứu trách nhiệm với các đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước cũng như các lực lượng chức năng.

Đối với lực lượng quân đội và những cơ quan thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, các đối tượng phản động đã, đang và sẽ tiếp tục khoét sâu vấn đề về quốc phòng, chức năng, nhiệm vụ lao động sản xuất, làm kinh tế và xử lý các vấn đề về chủ quyền quốc gia như vấn đề trên biển Đông có liên quan đến các nước khác để xuyên tạc, kích động làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào Đảng Cộng Sản Việt Nam, Nhà nước và Quân đội nhân dân Việt Nam.

Không những thế, chúng còn liên kết các hội nhóm về chính trị, các tổ chức, hội nhóm phản động ở cả trong và ngoài nước, tận dụng triệt để nền tảng mạng internet, các đài phát thanh truyền hình nằm ngoài lãnh thổ Việt Nam như BBC, RTA, RFI, VOA để phát tán các thông tin, bài viết, tài liệu có nội dung chống đối, xuyên tạc trong các tầng lớp nhân dân, tăng cường hoạt động trên website dưới dạng "diễn đàn dân sự xã hội", phong trào "bảo vệ môi trường"... Đến giai đoạn nước ta tiến hành Đại hội Đảng tiếp theo, sự chống phá của các các thế lực thì địch sẽ tiếp tục có chiều hướng gia tăng.

- Nghĩa vụ bảo vệ an ninh mạng của Quân đội nhân dân Việt Nam

Một mặt, cần chủ động đấu tranh làm thất bại tất cả những âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực phản động, ngăn chặn, bác bỏ những thông tin và luận điệu sai trái, đẩy lùi các loại tội phạm và tệ nạn xã hội; luôn ở trong trạng thái sẵn sàng đối phó với các mối đe dạo an ninh phi truyền thống, bảo đảm an ninh, an toàn thông tin nói riêng và an ninh mạng nói chung. Trong đó, an ninh mạng là một lĩnh vực mới, đòi hỏi trang bị, sử dụng các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại cũng như hàm lượng trí tuệ cao, khi các sự kiện chống phá, đe dọa đến an ninh mạng diễn ra hết sức phức tạp, với nhiều kiểu loại, không giới hạn về quy mô và thường để lại hậu quả khó lường. Nếu xử lý không tốt các vấn đề trên, rất dễ dẫn đến khởi phát cho những cuộc chiến tranh bằng vũ lực trên thực tế. Do đó, các cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng quân đội, nhân dân Việt Nam cần nắm vững yêu cầu, nhiệm vụ của mình trong việc bảo vệ an ninh mạng.

Mặt khác, cần nhận thức một cách đầy đủ về những điểm mới trong phương châm bảo vệ Tổ quốc của Chiến lược Quốc phòng Việt Nam, Chiến lược Quân sự Việt Nam, chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng và Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia,...; thể hiện lập trường nhất quán, có tính mưu lược và có kế hoạch quy tụ và phát huy mọi nguồn lực ở trong và ngoài nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp của quốc gia để bảo vệ Tổ quốc.

Không những thế, phải quán triệt thực hiện đầy đủ những điểm mới liên quan đến mục tiêu bảo vệ Tổ quốc trong Chiến lược Quốc phòng Việt Nam, Chiến lược Quân sự Việt Nam, chiến lược bảo vệ tổ quốc trên không gian mạng và chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia,... Ngày nay, bảo vệ Tổ quốc không chỉ đơn thuần là hoạt động chăm lo cho việc phòng, chống địch đánh ta, chuẩn bị những kế hoạch đối phó với chiến tranh xâm lược, mà còn là hoạt động giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội và sự hòa bình của đất nước, phải tạo được cơ chế ngăn ngừa, đẩy lùi mọi nguy cơ, góp phần thúc đẩy hoạt động xây dựng đất nước ta mạnh lên về mọi mặt trong đời sống xã hội. Vì thế, việc thực hiện tốt hoạt động phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời âm mưu "diễn biến hòa bình", cổ súy hiện tượng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; phòng chống những âm mưu, thủ đoạn hướng đến phá hoại an ninh chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng. Tiếp tục xây dựng, củng cố vững chắc nền quốc phòng toàn dân, gắn bó chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân, tăng cường phát triển khoa học công nghệ hiện đại và nguồn nhân lực chất lượng cao, làm chủ các công nghệ mới, tự sản xuất các trang thiết bị thiết yếu, dành thế chủ động trong biệc thực hiện nhiệm vụ an ninh, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, mở rộng hợp tác quốc tế nhằm giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; chủ động ngăn chặn, sẵn sàng đối phó hiệu quả và dành thắng lợi trong đấu tranh và giải quyết các tình huống nảy sinh.

Cuối cùng, hiện nay, yêu cầu đặt ra cho vấn đề bảo vệ Tổ quốc đang đan xe cả thời cơ và thách thức. Điều này thể hiện mong muốn, quyết tâm của Đảng ta trong việc xây dựng nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chính vì thế, việc quán triệt thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc cần phải đặc biệt coi trọng nâng cao chất lượng hoạt động của lực lượng trang, đưa lực lượng vũ trang trở thành lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, giữ số lượng hợp lý, có sức chiến đấu mạnh mẽ; xây dựng lực lượng dự bị động viên trở nên hùng hậu, dân quân tự vệ có mạng lưới rộng khắp, chủ động chuẩn bị lực lượng và xây dựng kế hoạch và phương án tác chiến cụ thể, khoa học, đủ khả năng bảo vệ nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia trong mọi tình huống thực tế.

12. Bài thu hoạch quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về quốc phòng, an ninh

Đã từ lâu, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm đến các hoạt động tôn giáo và ban hành những chủ trương, chính sách nhằm tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động đúng tôn chỉ mục đích và Hiến pháp, pháp luật. Quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền theo hoặc không theo tôn giáo của người dân, bảo đảm sự bình đẳng, không phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo, tín ngưỡng, bảo hộ hoạt động của các tổ chức tôn giáo bằng pháp luật. Những quan điểm nhất quán này đã được ghi nhận trong Hiến pháp, kể từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp 2013.

1. Trong các văn kiện của Đảng luôn nhất quán quan điểm: Tín ngưỡng, tôn giáo là một nhu cầu tinh thần của một bộ phận Nhân dân đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam (bổ sung, phát triển 2011) - một văn kiện có giá trị pháp lý cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng ghi rõ: “Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của Nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và Nhân dân”.

Trong các văn bản riêng về tôn giáo, tín ngưỡng có thể xem Nghị định số 69/NĐ-HĐBT ngày 21/3/1991 của Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam "Quy định về các hoạt động tôn giáo" là văn bản mở đầu. Ngày 4/6/1993, Chính phủ ban hành Nghị định số 37-CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Ban Tôn giáo của Chính phủ, cơ quan có chức năng quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo trong phạm vi cả nước. Sau đó, một loạt văn bản khác đã được ban hành như: Nghị định 26/1999/NĐ-CP ngày 19/4/1999 của Chính phủ về các hoạt động tôn giáo, Quyết định số 125/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày 18/6/2003 về việc phê duyệt chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (Khoá IX) về công tác tôn giáo…

Ngày 16/10/1990, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI ban hành Nghị quyết số 24/NQ-TW về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới. Đây được coi là dấu mốc mở đầu cho bước ngoặt phát triển nhận thức về tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghị quyết này có hai luận điểm mang "tính đột phá" là: Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận Nhân dân và tôn giáo có những giá trị văn hóa, đạo đức phù hợp với chế độ mới. Ngày 12/3/2004, Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW về công tác tôn giáo. Đến nay, Nghị quyết này vẫn được xem là “kim chỉ nam” cho công tác tôn giáo và đời sống tôn giáo ở Việt Nam. Nghị quyết 25-NQ/TW khẳng định những chủ trương nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với tôn giáo. Nghị quyết khẳng định tín ngưỡng và tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận Nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc. Đảng và Nhà nước Việt Nam thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật được bảo đảm. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật. Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Việc mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sắc và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo của mình theo đúng quy định của pháp luật được tạo điều kiện thuận lợi. Nghị quyết cũng chỉ rõ việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo và các cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của Hiến pháp và pháp luật v.v…

2. Một dấu mốc quan trọng phải kể tới nữa, đó là ngày 18/6/2004, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký ban hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Tiếp tục thực hiện quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước đối với tôn giáo, Luật Tín ngưỡng tôn giáo được Quốc hội khóa XIV nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ 2 ngày 18/11/2016 và được Chủ tịch nước ký Lệnh số: 12/2016/L-CTN ngày 01/12/2016 công bố Luật Tín ngưỡng, tôn giáo. Việc ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo là sự cụ thể hóa quan điểm và chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo, thể hiện nhất quán chủ trương tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo cũng cụ thể hóa những quy định của Hiến pháp 2013 về quyền con người, quyền công dân liên quan đến quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người. Những nội dung mới của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo cũng được bổ sung để tạo sự tương thích với luật pháp quốc tế trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu rộng với quốc tế, ký kết và thi hành nhiều hiệp định.

Từ những chủ trương nhất quán này, Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách nhằm đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của người dân. Tất cả những quyền của người dân về tôn giáo đều được Nhà nước Việt Nam quy định rõ từ việc quản đạo, hành đạo, truyền đạo… Nơi thờ tự của các tôn giáo được luật pháp Việt Nam bảo vệ. Tất nhiên, pháp luật Việt Nam cũng quy định việc thành lập tổ chức tôn giáo phải được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phải đúng quy định của pháp luật, phù hợp với đạo đức, văn hóa và thuần phong mỹ tục của dân tộc.

Cũng như tất cả các quốc gia trên thế giới, Nhà nước Việt Nam thực hiện quyền quản lý xã hội của mình trên lãnh thổ Việt Nam ở tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tôn giáo. Để quản lý Nhà nước về tôn giáo thật sự có hiệu quả, phát huy tác dụng, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo, sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, đương nhiên Nhà nước Việt Nam phải áp dụng các biện pháp nhằm ngăn chặn các hành vi vi phạm các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân và đặc biệt là các hành động lợi dụng tôn giáo vì các mục đích khác nhau trái với Hiến pháp và pháp luật Việt Nam.

3. Ở Việt Nam hiện nay, những ngày lễ lớn của các tôn giáo, nhất là lễ Phật đản, Vu Lan, Noel … không chỉ là của những người theo các tôn giáo mà trở thành ngày vui chung, ngày hội lớn của người dân. Có lẽ vì vậy mà trong những năm qua, số tín đồ của các tôn giáo ngày một tăng lên không ngừng, nhiều tôn giáo, hệ phái tôn giáo mới đã được Nhà nước Việt Nam tạo mọi điều kiện cấp phép hoạt động. Các tổ chức tôn giáo hoạt động đúng pháp luật, đúng tôn chỉ, mục đích luôn được Nhà nước và cấp chính quyền quan tâm, tôn trọng và tạo điều kiện hoạt động, phát triển.

Quyền con người, quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam được bảo đảm ngày một tốt hơn; các tôn giáo đã phát triển nhanh cả về số lượng tín đồ và cơ sở thờ tự. Nếu như năm 2006, cả nước mới có 6 tôn giáo và 16 tổ chức tôn giáo được công nhận và đăng ký hoạt động, thì đến nay đã có 38 tổ chức thuộc 16 tôn giáo khác nhau được công nhận (số liệu đến tháng 6/2020). Cả nước có khoảng trên 25 triệu tín đồ, trên 110 nghìn chức sắc, nhà tu hành (số liệu đến hết năm 2019). Các cơ sở thờ tự của các tôn giáo ngày càng được xây dựng khang trang cùng nhiều cơ sở xã hội, từ thiện đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện công tác xã hội. Các cơ sở đào tạo chức sắc tôn giáo với đủ các cấp học, như: Học viện Phật giáo, Chủng viện Thiên chúa giáo và các trường cao đẳng, trung cấp của các tôn giáo đã và đang hoạt động với sự giúp đỡ của các cấp chính quyền địa phương. Các ấn phẩm về tôn giáo được Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi trong in ấn và phát hành.

Mỗi năm ở Việt Nam có khoảng 8.500 lễ hội tôn giáo, tín ngưỡng được tổ chức. Trong hàng giáo phẩm của các tôn giáo hiện nay, rất nhiều vị được Nhà nước tạo điều kiện để đi đào tạo, bồi dưỡng ở các nước trên thế giới. Nhiều lễ hội tôn giáo lớn ở Việt Nam đã được tổ chức như Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc vào các năm 2008, 2014; Lễ Bế mạc Năm Thánh 2011 của Giáo hội Công giáo Việt Nam được tổ chức long trọng tại giáo xứ La Vang, tỉnh Quảng Trị; Đại lễ kỷ niệm 72 năm khai sáng đạo Phật giáo Hòa hảo; Đại lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam và đón nhận Huân chương Hồ Chí Minh; Hội nghị Thượng đỉnh Phật giáo thế giới vào năm 2010 v.v… Kể từ năm 2011, Vatican đã cử đại diện không thường trú tại Việt Nam và đặc phái viên không thường trú này đã thực hiện nhiều chuyến thăm tới hầu hết các tỉnh thành ở Việt Nam.

Có thể nói, hòa chung với sự hội nhập quốc tế sâu rộng và sự phát triển mọi mặt của đất nước, hoạt động tôn giáo ở Việt Nam ngày càng sôi động, những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về tôn giáo ngày càng cởi mở hơn, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các hoạt động tôn giáo./.

TS. Vũ Trung Kiên Học viện Chính trị Khu vực 3

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tài liệu của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
14 18.545
Bạn có thể tải về tập tin thích hợp cho bạn tại các liên kết dưới đây.
3 Bình luận
Sắp xếp theo
  • Hạt đậu nhỏ
    Hạt đậu nhỏ

    Hữu ích

    Thích Phản hồi 06/07/22
    • Khon9 c0n gj
      Khon9 c0n gj

      Thông tin hữu ích

      Thích Phản hồi 06/07/22
      • Trần Thị Quỳnh
        Trần Thị Quỳnh

        Phải lưu lại mới đc, cảm ơn ad.

        Thích Phản hồi 06/07/22