Bài thu hoạch học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh 2024

Bài thu hoạch học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh kèm theo liên hệ bản thân là bài văn mẫu dự thi kể chuyện tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Bài thu hoạch học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách hồ chí minh năm 2024 này được tổng hợp sau một thời gian vận động trong doanh nghiệp, nhà trường về việc thực hiện quản lý và lối sống theo tấm gương đạo đức của Bác Hồ.

Mời các bạn cùng đọc và tham khảo bài kế hoạch cá nhân học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách hồ chí minh rồi viết bài thu hoạch chủ đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo ý tưởng của mình.

Bài thu hoạch chuyên đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh 2024

Bài viết được Hoatieu cập nhật thêm các mẫu bài thu hoạch học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh năm 2024 hay nhất. Mời bạn đọc tham khảo.

1. Bài thu hoạch chuyên đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là gì?

Bài thu hoạch chuyên đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là mẫu được sử dụng cho cán bộ công nhân viên chức, viết ra để tổng kết, nhìn lại quá trình thực hiện cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của bản thân.

Chủ đề của chuyên đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh năm 2024 có nội dung khá đa dạng, do mỗi địa phương tự lựa chọn.

  • Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa, con người đáp ứng yêu cầu đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững.
  • Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, có đạo đức cách mạng trong sáng, bản lĩnh chính trị vững vàng, đủ năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ hiện nay.
  • Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ thời kỳ mới”...

Bài mẫu học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh với những mẫu mới nhất:

  • Bài thu hoạch đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong quân đội, cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp...
  • Bản thân học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác như thế nào? Liên hệ việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của bác trong giai đoạn hiện nay

Mời các bạn tham khảo mẫu bài thu hoạch dưới đây mà Hoatieu.vn sưu tầm được.

2. Anh/Chị đã vận dụng những chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh vào trong sinh hoạt, học tập, công tác của bản thân

Anh/Chị đã vận dụng những chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh vào trong sinh hoạt, học tập, công tác của bản thân là câu hỏi bài thi cuối kỳ môn tư tưởng Hồ Chí Minh của giáo viên năm 2024. Mời bạn đọc tham khảo bài viết chi tiết dưới đây:

BÀI THU HOẠCH

Vận dụng những chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh vào trong sinh hoạt, học tập, công tác của bản thân

– Họ và tên:............................................................................................................

– Sinh hoạt tại chi bộ:.............................................................................................

Sau khi được nghiên cứu, học tập, quán triệt bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh; việc vận dụng những chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh vào trong sinh hoạt, học tập, công tác của bản thân, tôi viết bản thu hoạch một số nội dung sau đây:

1. Những nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ngành giáo dục

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, từ một thầy giáo Nguyễn Tất Thành cho đến khi trở thành lãnh tụ của Đảng, Nhà nước - Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn rất quan tâm đến giáo dục và đào tạo, về đạo đức của người thầy giáo trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Chính vì vậy, việc học tập, nghiên cứu và vận dụng những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục, về vai trò người thầy để bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo của nước nhà càng có ý nghĩa quan trọng, cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh về vai trò của người giáo viên trong xã hội. Sinh thời, Người từng nói: "Những người thầy giáo tốt là những người vẻ vang nhất, là những anh hùng vô danh". Trong bài phát biểu tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (10/1964) Người cũng chia sẻ: "Có gì vẻ vang hơn là nghề đào tạo những thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vẻ vang nhất, dù tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương. Song những người thầy giáo tốt là những người anh hùng vô danh. Đây là một điều rất vẻ vang, nếu không có thầy giáo dạy dỗ cho con em nhân dân thì làm sao mà xây dựng chủ nghĩa xã hội được. Vì vậy, nghề thầy giáo rất quan trọng, rất vẻ vang". Những câu nói này cho thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò của người giáo viên trong xã hội, đặc biệt là trong giáo dục con người. Đồng thời, ẩn ý sâu xa trong đó là lời nhắc nhở mỗi giáo viên phải luôn có ý thức bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, trau dồi phẩm chất đạo đức sư phạm để luôn là những "kỹ sư tâm hồn" tận tâm, dìu dắt học sinh nên người.

Với tầm nhìn chiến lược của một vĩ nhân, một nhà chính trị, một hiền triết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò người thầy trong công cuộc kiến thiết nước nhà. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người thầy, người trí thức, người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng - văn hóa có sứ mệnh quan trọng là hun đúc nguyên khí quốc gia, đào tạo lớp người tài - đức kế tục sự nghiệp cách mạng của dân tộc và nhân dân ta. Và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giao phó nhiệm vụ quan trọng, khó khăn cho đội ngũ nhà giáo. Đây là nhiệm vụ rất vẻ vang nhưng rất nặng nề của những người theo đuổi sự nghiệp trồng người. “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.

Cũng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người thầy phải là những người lấy việc phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc làm mục tiêu phấn đấu suốt đời; người thầy phải có tinh thần đoàn kết, kỷ luật, phát huy dân chủ trong nhà trường. Phẩm chất đạo đức này được đề cập trong nhiều bài viết, bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong buổi nói chuyện với thầy giáo, cô giáo lớp nghiên cứu chính trị khóa 1, Trường Đại học Nhân dân, Người căn dặn: "Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không phải chân lý. Ra sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân- tức là phục chân lý”. "Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân". Thầy giáo, cô giáo phải học ở quần chúng nhân dân, "không học nhân dân là một thiếu sót lớn”.

Quan trọng hơn nữa, phẩm chất và năng lực của người thầy quyết định chất lượng đào tạo con người; Người thầy phải tâm huyết với nghề, giữ gìn về nhân cách đạo đức lối sống và thương yêu con người. Người cách mạng nói chung và nhà giáo nói riêng phải có phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Đó là những phẩm chất không thể thiếu được đối với người làm thầy. Biểu hiện rõ nhất những phẩm chất này của người thầy giáo là dù khó khăn gian khổ đến đâu cũng phải thi đua dạy tốt. Sự nghiệp trồng người không hề bằng phẳng dễ dàng mà đầy khó khăn, gian khổ. Vì vậy, không chỉ có quyết tâm, sự hy sinh mà phải có kế hoạch, biết tổ chức, có phương pháp làm việc khoa học mới hoàn thành được nhiệm vụ. Người thầy giáo phải là tấm gương sáng về rèn luyện đạo đức và tự học, đánh giá kết quả của người học phải khách quan, công bằng, không thiên vị, riêng tư.

Phẩm chất nhà giáo còn phải thể hiện ở tình yêu thương học trò và yêu nghề. Đối với nhà giáo, phẩm chất đạo đức thương yêu học trò và yêu nghề có mối quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ nhau. Thương yêu học trò sẽ dẫn đến yêu nghề và ngược lại, yêu người bao nhiêu, yêu nghề bấy nhiêu.

Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh chuyên môn, nghiệp vụ của người thầy: “Có tài mà không có đức là hỏng, có đức mà chỉ i tờ thì dạy thế nào”. Theo Người, người thầy phải có kiến thức vững vàng, sâu rộng về chuyên môn, trong đó kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý thuyết, thực tế và kinh nghiệm. Hơn nữa, người thầy không chỉ cần có vốn sống, vốn hiểu biết rộng rãi về con người, về tự nhiên và xã hội mà còn phải có óc sáng tạo, nhạy bén, luôn đi tìm cái mới thì hiệu quả giảng dạy, giáo dục mới được đảm bảo, mới thực sự trở thành người thầy giỏi. Vì thế, Người mong muốn “giáo viên cũng phải tiến bộ cho kịp thời đại thì mới làm được nhiệm vụ. Chớ tự túc, tự mãn, cho là giỏi rồi thì dừng lại. Mà dừng lại là lùi bước, là lạc hậu, mình tự đào thải trước. Cho nên phải cố gắng học tập để cải tạo mình, cải tạo tư tưởng của mình, cải tạo con em và giúp vào việc cải tạo xã hội”. Do vậy, người thầy phải chú ý rèn luyện cả đức và tài; đạo đức của người thầy, phải có chính trị trước rồi có chuyên môn, đức phải có trước tài, đạo đức nền tảng để tài năng phát huy, toả sáng. Việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của nhà giáo phải được thực hiện trong mọi lĩnh vực của cuộc sống như đối với công việc, quan hệ đồng nghiệp, học trò, cha mẹ học trò, các tổ chức đoàn thể và phải thường xuyên suốt đời.

2. Vận dụng những chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh vào trong sinh hoạt, học tập, công tác giáo dục tại nơi làm việc của bản thân

Là một giáo viên đang công tác tại Trường......................., được phân công giảng dạy môn................... tại các khối lớp...................., tôi cho rằng, những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nghề giáo, đạo đức đức sư phạm vẫn luôn có ý nghĩa thực tiễn ở mọi thời kỳ. Việc giáo viên vận dụng những chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh vào trong sinh hoạt, học tập, công tác là điều rất cần thiết, bởi người thầy không chỉ là "người lái đò" tri thức, mà còn là những "kỹ sư tâm hồn" dìu dắt học sinh học hành thành tài, trở thành những người vừa có đức vừa có tài, là nhân tố quan trọng xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa tương lai.

Để vận dụng những chuẩn mực đạo đức của Người vào trong lối sống, học tập và công tác tại nhà trường, bản thân tôi đã áp dụng những biện pháp như sau:

- Về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng, đạo đức sư phạm: Là giáo viên, đồng thời là đảng viên, tôi cho rằng việc nhận thức sâu sắc, bồi dưỡng về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin phải là việc làm thường xuyên. Bởi bản thân mỗi nhà giáo để "trồng người" tốt thì cũng phải được giáo dục. Người làm thầy cần thường xuyên tự tu dưỡng, rèn luyện bản lĩnh chính trị và đạo đức nhà giáo với những đức tính cơ bản là: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; học và làm theo Bác để xứng đáng với vai trò, sứ mệnh của một nhà giáo, một người đảng viên chân chính, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối với nghề giáo.

- Về năng lực chuyên môn: Có người lầm tưởng rằng giáo viên đi dạy người khác thì không cần quá chú trọng việc học thêm. Nhưng đây là suy nghĩ sai lầm, xã hội luôn vận động không ngừng, đòi hỏi người làm thầy cũng cần cập nhật kiến thức, kỹ năng mới thường xuyên, có phương pháp giáo dục hiệu quả giúp học sinh vừa nắm được nội dung kiến thức bài học, vừa xây dựng được tinh thần tự học, tự nghiên cứu ở các em, giúp các em trưởng thành cả đức và tài. Mỗi giáo viên cần có kế hoạch, mục tiêu học tập cụ thể cho bản thân, hoạch định rõ bản thân cần học thêm gì, học để làm gì và học để phục vụ ai; thầy giáo phải là tấm gương hiếu học để học sinh noi theo.

- Về tinh thần đoàn kết tập thể: Môi trường làm việc trong nhà trường có ý nghĩa quan trọng góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và phát triển mỗi cá nhân. Trong tập thể sư phạm, để có sự phát triển nhanh, bền vững cần phải có sự đồng tâm hiệp lực của tất cả mọi người. Trong đó, đặc biệt là vai trò của người quản lý giáo dục. Hành vi ứng xử, lời nói, việc làm của cán bộ quản lý giáo dục phải dân chủ, kỷ luật, xây dựng không khí dân chủ trong tập thể để mọi cá nhân được phát huy khả năng cũng như đề xuất ý kiến của mình. Bên cạnh đó, mối quan hệ giữa các giáo viên là mối quan hệ đồng nghiệp, hỗ trợ lẫn nhau, cần bài trừ thói tị nạnh, nhỏ nhen, giáo viên giúp đỡ nhau cùng tiến bộ về chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng sư phạm, hướng tới xây dựng môi trường sư phạm lành mạnh, thân thiện cho học sinh.

- Về nêu gương đối với nhà giáo: Người thầy giáo luôn là tấm gương mẫu mực về tinh thần tự học, tự nghiên cứu, phẩm chất đạo đức trong sáng cho quần chúng, nhất là thế hệ trẻ noi theo. Người thầy phải gương mẫu thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đi đầu trong mọi công việc của cơ quan, đơn vị, công tác được đoàn thể giao phó, làm việc hết sức mình, làm việc chất lượng, làm việc có hiệu quả, có năng suất. Bản thân mỗi người thầy giáo phải xây dựng cho mình một phong cách sống khiêm tốn, giản dị, điều độ, ngăn nắp, yêu lao động, không ham danh lợi, chức quyền.

Việc học tập bộ môn Tư tưởng Hồ Chí Minh và hưởng ứng của vận động về "Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" là dịp để các giáo viên tự nhìn nhận lại quá trình học tập, công tác của bản thân, đồng thời cũng là cơ hội để mỗi người thấm nhuần hơn tư tưởng đạo đức, phong cách sống giản dị, cao đẹp của Bác. Trong nền kinh tế hội nhập hiện nay đang đặt ra rất nhiều thách thức cho nền giáo dục, hơn bao giờ hết, bản thân mỗi người làm nghề giáo cần tự bồi dưỡng cho mình có đầy đủ phẩm chất, năng lực vừa "hồng" vừa "chuyên", hướng tới mục tiêu xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực, tiếp tục ghi tên đất nước trên bảng vàng thành tích học tập, không phụ lòng mong mỏi "sánh vai với các cường quốc năm châu" mà Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong mỏi.

 ............., ngày... tháng... năm...

Người viết bài thu hoạch

(Ký tên)

3. Bài thu hoạch chuyên đề năm 2024

Câu 1: Chủ trương, nhiệm vụ và giải pháp về xây dựng ý thức tôn trọng nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân dân trong giai đoạn hiện nay.

Thứ nhất: Chủ trương của Đảng về xây dựng ý thức tôn trọng nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân dân trong giai đoạn hiện nay. Xây dựng ý thức tôn trọng Nhân dân:

  • Quán triệt sâu sắc tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Lực lượng dân to việc dân vận quan trọng, dân vận việc dân khéo việc thành công”. Cách mạng nghiệp nhân dân, nhân dân, nhân dân; Nhân dân chủ, Nhân dân làm chủ; tin tưởng trí tuệ Nhân dân, tin vào sức mạnh lực lượng Nhân dân để làm cách mạng.
  • Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền đội ngũ cán bộ, đảng viên.
  • Xây dựng tổ chức thực hiện có hiệu quả, phát huy vai trò Nhân dân tham gia xây dựng Đảng.
  • Xây dựng đội ngũ đảng viên thật tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm cao trong công việc, có lĩnh trị, phẩm chất đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật lực hoàn thành nhiệm vụ, vững vàng trước khó khăn, thách thức, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng Đảng.
  • Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ mật thiết Đảng với Nhân dân; có kế hoạch thường xuyên tìm hiểu tình hình đời sống, tâm tư, nguyện vọng Nhân dân để có chủ trương, biện pháp xử lý đúng đắng, kịp thời.
  • Củng cố vững niềm tin Nhân dân Đảng, tăng cường khối đại đoạn kết toàn dân tộc mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân; tập hợp, vận động Nhân dân thực tốt chủ trương Đảng sách, pháp luật Nhà nước; phát huy sức mạnh to lớn Nhân dân, tạo thành phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng bảo vệ Tổ quốc.
  • Đổi phương thức lãnh đạo Đảng công tác dân vận điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hội nhập quốc tế.

Thứ hai: Phát huy dân chủ

  • Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương Đảng, sách, pháp luật Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền lợi ích chính đáng của nhân dân, nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội.
  • Thể chế hóa nâng cao chất lượng hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp dân chủ đại diện. Thực hiện quyền con người, quyền nghĩa vụ công dân, theo tinh thần Hiến pháp năm 2013; gắn quyền với trách nhiệm, nghĩa vụ, đề cao đạo đức xã hội. Tiếp tục thực hiện tốt dân chủ; hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền người, quyền nghĩa vụ công dân.
  • Để thực hiện dân chủ xã hội, trước hết phải bảo đảm phát huy dân chủ Đảng là hạt nhân để phát huy đầy đủ dân chủ xã hội. Đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội để phát huy quyền làm chủ nhân dân, vai trò chủ động, sáng tạo Mặt trận Tổ quốc đoàn thể nhân dân. Tổ chức thực hiện tốt quy chế giám sát phản biện xã hội; quy định việc Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị – xã hội nhân dân góp ý xây dựng Đảng, xây dựng quyền; quy định giám sát đảng viên cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý quy định, quy chế khác.
  • Các cấp, ngành, địa phương, đơn vị tập trung giải đáp những nguyện vọng chính đáng của nhân dân, vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống, việc làm, đền bù thu hồi đất đai, tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội. Quan tâm điều chỉnh hài hòa lợi ích giai cấp, tầng lớp xã hội, vùng miền, lĩnh vực; gắn nghĩa vụ với quyền lợi, cống hiến với hưởng thụ, lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể cộng đồng, xã hội. Xử lý nghiêm minh vụ việc tiêu cực, tham nhũng; giải quyết dứt điểm vụ việc khiếu nại đông người, phức tạp, kéo dài.
  • Phát huy dân chủ phải gắn liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương đề cao đạo đức xã hội. Phê phán biển dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý nghiêm hành vi lợi dụng dân chủ để làm an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội hành vi vi phạm quyền dân chủ quyền làm chủ của nhân dân.

Thứ ba: Chăm lo đời sống cho Nhân dân

  • Động lực thúc đẩy phong trào nhân dân phát huy quyền làm chủ, đáp ứng lợi ích thiết thực nhân dân; kết hợp hài hòa lợi ích; quyền lợi phải đi với nghĩa vụ công dân; trọng lợi ích trực tiếp người dân; huy động sức dân phải đi đôi với bồi dưỡng sức dân; có lợi cho dân làm, có hại cho dân tránh.
  • Tiếp tục hoàn thiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với trình độ phát triển kinh tế – xã hội. Mở rộng đối tượng nâng cao hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội đến người dân; tạo điều kiện để trợ giúp có hiệu quả cho tầng lớp yếu thế, dễ tổn thương người gặp rủi ro sống.

Câu 2: Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng phong cách, tác phong công tác của người đứng đầu, cán bộ, đảng viên.

Thứ nhất: Phong cách dân chủ, quần chúng

Phong cách dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh là dân chủ có định hướng, có lãnh đạo, dân chủ phải đi đến sự tập trung chứ không phải dân chủ quá trớn, dân chủ vô tổ chức. Một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và sinh hoạt Đảng là “tập trung dân chủ”. Nói về sức mạnh của dân chủ, Người từng nói: “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”. Nếu người cán bộ không có tác phong dân chủ hoặc “miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối quan chủ” là họ tự tước đi của mình vũ khí hữu hiệu nhất để hoàn thành nhiệm vụ. Khi đó, dù có “đầy túi quần thông báo, đầy túi áo chỉ thị” mà công việc vẫn không chạy”.

Phong cách dân chủ yêu cầu người cán bộ, đảng viên phải sâu sát quần chúng, chú ý tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của quần chúng, quan tâm đến mọi mặt đời sống nhân dân; tin yêu và tôn trọng con người, chú ý lắng nghe ý kiến và giải quyết những kiến nghị chính đáng của quần chúng, sẵn sàng tiếp thu phê bình của quần chúng và sửa chữa khuyết điểm của mình.

Phong cách quần chúng của cán bộ, đảng viên thể hiện rõ trong các thói quen sinh hoạt hàng ngày. Người cán bộ phải giản dị, hòa đồng với quần chúng, không cho phép mình hưởng điều gì có tính chất “đặc quyền, đặc lợi”. Người cảnh tỉnh những suy nghĩ lệch lạc trong cán bộ, rằng “phải ăn mặc bảnh mới giữ được oan tín, giữ được thể diện”. Khi người cán bộ thấm nhuần tác phong quần chúng, họ sẽ được quần chúng nhân dân yêu thương, tin cậy, ủng hộ và khi đó, việc gì họ làm cũng thành công”.

Thứ hai: Phong cách khoa học

Theo Người, phong cách làm việc khoa học đòi hỏi người cán bộ phải có cách đánh giá đúng người, đúng việc, sắp xếp công việc cho hợp lý; lại phải biết cách kiểm tra, giám sát công việc và cấp dưới một cách hiệu quả, qua đó thấy được việc thi hành đường lối, nghị quyết của Đảng như thế nào và cần điều chỉnh như thế nào,…

Phong cách làm việc khoa học là phải biết quý trọng thời gian, biết giờ nào làm việc ấy và có năng lực giải quyết công việc một cách tốt nhất trong một thời gian ngắn nhất. Bác từng nói: thời giờ cũng cần phải tiết kiệm như của cải, của cải hết còn có thể làm thêm khi thời gian đã qua rồi không bao giờ kéo lại được… Người cán bộ phải biết tiết kiệm thời gian của mình nhưng cũng phải biết tiết kiệm thời gian cho người khác. Cách tốt nhất là tập trung giải quyết dứt điểm từng công việc;”.

Thứ ba: Phong cách nêu gương

Theo Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên đều phải làm gương trong mọi công việc, từ nhỏ đến lớn, thể hiện thường xuyên về mọi mặt; phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, nói phải đi đôi với làm. Người yêu cầu tất cả cán bộ, đảng viên đều phải noi gương về đạo đức. Trước hết, mình phải tự làm gương, cán bộ “gắng làm gương cho anh em, và khi đi công tác, gắng làm gương cho dân”.

Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là một nội dung cơ bản không thể thiếu trong phong cách làm việc và nhân cách của những người lãnh đạo, quản lý. Trong bản Di chúc thiêng liêng, Người căn dặn tất cả cán bộ, đảng viên: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng. Thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.”

Cần nêu gương trên ba mối quan hệ với mình, với người, với việc. Đối với mình phải không tự đại, tự mãn, kiêu ngạo, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân; phải tự phê bình mình như rửa mặt hàng ngày. Đối với người, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc, khoan dung, độ lượng. Đối với việc dù trong hoàn cảnh nào cũng phải giữ nguyên tắc “dĩ công vi thượng”, đặt việc công lên trên, lên trước việc tư.

Trong các nội dung nêu gương, cán bộ, đảng viên phải luôn nêu gương về tinh thần phục vụ nhân dân. Người nhấn mạnh trách nhiệm phục vụ nhân dân từ một triết lý sâu xa rằng, cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc đều do mồ hôi, nước mắt của nhân dân mà ra, nên chúng ta phải đền bù xứng đáng cho dân. Vì vậy mà cán bộ, đảng viên phải luôn xông xáo, nhiệt tình, sâu sát nhân dân, gương mẫu và dám chịu trách nhiệm trước dân cả về lời nói và việc làm.

Câu 3: Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Thứ nhất: Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược quyết định thành công của cách mạng Việt Nam.

Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc đoàn kết không chỉ tạo nên sức mạnh mà còn là vấn đề có ý nghĩa quyết định tới việc sống còn, thành bại, được mất trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù. “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”; “đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”. Theo Bác, đoàn kết trong Đảng là tiền đề đại đoàn kết toàn dân tộc. Đại đoàn kết toàn dân tộc là cơ sở để đoàn kết quốc tế.

Thứ hai: Lực lượng và hình thức tổ chức đại đoàn kết toàn dân tộc

Với chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở thống nhất lợi ích quốc gia dân tộc với quyền lợi cơ bản của các giả cấp và tầng lớp; nòng cốt khối đại đoàn kết toàn dân tộc là liên minh công – nông – trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng, theo Bác cần giải quyết hài hòa lợi ích giữa các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo, dân cư ở các vùng miền khác nhau. Phát huy mặt tương đồng, hóa giải điểm khác biệt.

Thứ ba: Nguyên tắc đại đoàn kết toàn dân tộc

Khối đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng dựa trên nguyên tắc lấy lập trường giai cấo công nhân để giải quyết hài hòa các mối quan hệ giai cấp – dân tộc:

  • Tin vào dân, dựa vào dân vì lợi ích của dân để đoàn kết toàn dân, phát động các phong trào thi đua yêu nước trong lao động, học tập, sản xuất và chiến đấu.
  • Đoàn kết lâu dài, rộng rãi, chặt chẽ, tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo.
  • Đoàn kết trêm cơ sở hiệp thương, dân chủ, chân thành, thẳng thắn, thân ái; đoàn kết gắn với đấu tranh, tự phê bình và phê bình.
  • Đoàn kết trên cơ sở kế thừa truyền thống yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc. Phải có lòng khoan dung, độ lượng với con người, trân trọng “phần thiện”, dù nhỏ nhất ở mỗi con người để tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng.

Thứ tư: Phương pháp phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc

Nội dung tuyên truyền phải đáp ứng nguyện vọng, quyền lợi của nhân dân và yêu cầu của thực tiễn cách mạng. Tuyên truyền, vận động, quyền lợi của nhân dân và yêu cầu của thực tiễn cách mạng. Tuyên truyền, vận động phải phù hợp với từng đối tượng, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm theo.

Phải chăm lo xây dựng và xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đảng cộng sản là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị phát huy sức mạnh đại đoàn kết, thống nhất từ tư tưởng đến hành động, có kỷ luật, tự giác, nghiêm minh, thực hiện tốt các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng.

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội là cầu nối gắn kết Đảng, Nhà nước với nhân dân. Mặc trận và các đoàn thể phải có cương lĩnh, đường lối thiết thực, rõ ràng; hình thức tổ chức phong phú, đa dạng, phù hợp với từng giai cấp, tầng lớp, các ngành, các giới, các dân tộc, tôn giáo,… Để toàn dân tộc có thể tham gia xây dựng và thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Thứ năm: Đoàn kết là lẽ sống, đạo lý của Đảng, của dân tộc và là đức tính cơ bản của người cách mạng

Coi đoàn kết là lẽ sống, đạo lý của Đảng, của dân tộc ta trong dựng nước và giữ nước, theo Người: mỗi cán bộ, đảng viên phải coi đoàn kết là một đức tính cơ bản của người cách mạng. Ai không có khả năng tập hợp, đoàn kết quần chúng và các đồng chí của mình thì không thể làm cách mạng, không thể làm cán bộ.

Đối với toàn Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: ngày nay, sự đoàn kết trong Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo. Để đoàn kết nhất trí, cán bộ lãnh đạo phải cần kiệm, liêm, chính; kiên quyết chống quan liêu, tham ô, lãng phí; hết lòng hết dạ phục vụ nhân dân; chấp hành nghiêm chỉnh chính sách của Chính phủ và pháp luật của Nhà nước.

Đối với toàn thể nhân dân Việt Nam, Người kêu gọi “tất cả dân ta đều thi đua: cần, kiệm, liêm, chính” và giải thích: “chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn”.

Thứ sáu: Phong cách Hồ Chí Minh trong thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc

Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt đời kiên tâm thực hiện đại đoàn kết. Bản thân Người cũng chính là hình ảnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Theo Người, để thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc thì toàn Đảng cũng như mỗi cán bộ, đảng viên cần có phong cách lãnh đạo: “kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân.”

Đối với cán bộ lãnh đạo, đảng viên, cần học và làm theo phong cách làm việc quần chúng của Chủ tịch Hồ Chí Minh để tập hợp, đoàn kết toàn dân. Chú ý tìm hiểu tâm tư nguyện cọng của quần chúng, chăm lo đời sống của nhân dân. Tin vào dân, tôn trọng dân, chú ý lắng nghe và giải quyết những kiến nghị chính đáng của nhân dân sẵn sàng tiếp thu ý kiến dân phê bình và kịp thời sửa chữa những khuyết điểm, thiếu sót.

4. Bài thu hoạch đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong Quân đội 

Vận dụng “cách lãnh đạo đúng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là nội dung có ý nghĩa rất quan trọng, trực tiếp nâng cao phẩm chất, năng lực, phương pháp tác phong công tác, vị thế, uy tín của đội ngũ chính trị viên, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động công tác đảng, công tác chính trị, xây dựng đơn vị vững mạnh về chính trị, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.

Những năm qua, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị trong toàn quân đã quán triệt, thực hiện có hiệu quả việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; trong đó có nội dung vận dụng “cách lãnh đạo đúng” của Người vào đổi mới phong cách lãnh đạo của cấp ủy, cán bộ, đảng viên nói chung, chính trị viên nói riêng, góp phần nâng cao kết quả thực hiện nhiệm vụ, hiệu lực, hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị ở đơn vị cơ sở. Tuy nhiên, một số cấp ủy, chỉ huy, chính ủy, chính trị viên chưa thật quan tâm và thực hiện đầy đủ vấn đề này. Do vậy, “năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số cấp ủy, tổ chức đảng còn hạn chế”2; phong cách lãnh đạo của chính trị viên ở đơn vị cơ sở, nhất là việc nghiên cứu, quán triệt, triển khai thực hiện nghị quyết của các cấp ủy đảng, năng lực đề xuất và tiến hành công tác đảng, công tác chính trị có mặt chưa theo kịp yêu cầu, nhiệm vụ,… dẫn đến công tác giáo dục, quản lý tư tưởng ở một số cơ quan, đơn vị chưa tốt; công tác kiểm tra, giám sát và đấu tranh với biểu hiện sai trái có nơi, có thời điểm chưa kiên quyết, hiệu quả.

Khắc phục những hạn chế trên, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, đòi hỏi tất yếu khách quan phải không ngừng nghiên cứu, vận dụng linh hoạt, sáng tạo tư tưởng “cách lãnh đạo đúng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong đổi mới phong cách lãnh đạo của chính trị viên hiện nay với những nội dung, giải pháp cơ bản sau:

Trước hết, tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy và cán bộ chủ trì các cấp về “cách lãnh đạo đúng” theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên cơ sở thấu triệt ba trọng tâm về “cách lãnh đạo đúng” theo tư tưởng Hồ Chí Minh, ở từng cấp cần cụ thể hóa vào nghị quyết lãnh đạo của cấp ủy, kế hoạch công tác của người chỉ huy; tiến hành tốt công tác tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên về “cách lãnh đạo đúng” của Hồ Chí Minh và các nguyên tắc, quy chế, quy định trong công tác lãnh đạo của Đảng, gắn với cương vị chức trách, nhiệm vụ được giao. Nội dung tập trung vào quán triệt, thực hiện hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, Quân ủy Trung ương về công tác xây dựng Đảng, nhất là: Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XIII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, Nghị quyết Trung ương 6 (khóa XIII) về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới, Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị (khóa XIII) về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Nghị quyết số 847-NQ/QUTW, ngày 28/12/2021 của Quân ủy Trung ương về phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới, v.v. Để đạt hiệu quả, cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy các cấp cần lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức học tập, quán triệt các chuyên đề về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; kết hợp chặt chẽ giữa học tập và làm theo Bác gắn với các phong trào thi đua, cuộc vận động; coi trọng xây dựng những nhân tố mới, điển hình về “cách lãnh đạo đúng” của tập thể cấp ủy nói chung, người chính trị viên nói riêng. Đồng thời, động viên chính trị viên phát huy ý chí tự lực, tự cường, khát vọng cống hiến nhiều hơn cho sự nghiệp xây dựng Quân đội và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường các biệp pháp phòng, chống những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ quan trọng này...

Mời bạn đọc tải file đầy đủ về tham khảo

5. Bài thu hoạch chuyên đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh mới nhất 2024

TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ Ý CHÍ TỰ LỰC, TỰ CƯỜNG VÀ KHÁT VỌNG XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC PHỒN VINH, HẠNH PHÚC

Thứ nhất, về ý chí tự lực, tự cường.

Một là, ý chí tự lực, tự cường là không phụ thuộc vào lực lượng bên ngoài, có quan điểm độc lập trong quan hệ quốc tế. Nguyễn Ái Quốc cho rằng, cách mạng ở các nước thuộc địa (trong đó có Việt Nam) hoàn toàn có thể chủ động giành thắng lợi, không phụ thuộc việc cách mạng ở chính quốc có thắng lợi hay không. Nguyễn Ái Quốc nêu rõ quyết tâm, ý chí, phương pháp cách mạng, thể hiện sâu sắc quan điểm tự lực, tự cường trong đấu tranh cách mạng: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”(1).

Hai là, ý chí tự lực, tự cường là phải nhận thức rõ sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Hồ Chí Minh khẳng định, nhân tố mang tính quyết định của cách mạng giải phóng dân tộc chính là sức mạnh của toàn dân tộc.

Trong tác phẩm Đường Kách mệnh (năm 1927), Người viết: “Chỉ ước ao sao đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng lên đoàn kết nhau mà làm cách mệnh”(2). Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” nhưng “phải củng cố tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân ta và nhân dân các nước bạn, nhân dân Pháp, nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới”. Người nhấn mạnh vấn đề có tính nguyên tắc: “Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”(3).

Ba là, ý chí tự lực, tự cường là sự chủ động, chuẩn bị mọi mặt các điều kiện của cách mạng .
Theo Hồ Chí Minh, điều kiện trước hết là phải có một Đảng cách mệnh, “để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”(4).

Cương lĩnh chính trị đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh đấu tranh giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc thực dân và chế độ phong kiến đã suy tàn, thực hiện mục tiêu chiến lược: “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”, “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”(5).

Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, ngày 28/1/1941, lãnh tụ Hồ Chí Minh trở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng. Tại Hội nghị Trung ương 8, Người cùng Trung ương Đảng quyết định những vấn đề lớn của cách mạng như hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, xử lý đúng đắn đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, quyết tâm giành cho được độc lập dân tộc.

Bốn là, ý chí tự lực, tự cường là đặc biệt chú trọng phát huy vai trò, sức mạnh của nhân dân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, “nhân dân” là phạm trù cao quý nhất. Người nói: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”(6). Người khẳng định, dân khí mạnh thì binh lính nào, súng ống nào cũng không địch nổi. “Nếu lãnh đạo khéo thì việc gì khó khăn mấy và to lớn mấy, nhân dân cũng làm được”(7).

Trong Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa, Người nêu rõ: “Hỡi đồng bào yêu quý! Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta... Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!”(8). Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”(9).

Trong Lời kêu gọi “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” ngày 17/7/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã nêu rõ: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”(10).

Năm là, ý chí tự lực, tự cường là quyết tâm bảo vệ và giữ vững nền độc lập dân tộc.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyết tâm bảo vệ và giữ vững độc lập dân tộc, “nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, “không có gì quý hơn độc lập tự do”, thể hiện rất rõ khi Tổ quốc bị lâm nguy, khi dân tộc phải đương đầu với những kẻ thù có sức mạnh kinh tế - quân sự vào hàng cường quốc thế giới, chống lại âm mưu áp đặt chế độ áp bức, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc thực dân.

...

Mời bạn đọc tải file đầy đủ về tham khảo

6. Bài thu hoạch học tập đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa, con người 2024

Bài thu hoạch chuyên đề năm 2023:

  • Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa, con người đáp ứng yêu cầu đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững.

Đọc thêm: Bài thu hoạch học tập đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa, con người 2024

BẢN THU HOẠCH CHUYÊN ĐỀ 2023

Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam

Kính gửi: - Chi uỷ chi bộ............................................................

Tên tôi là: .............................................. Sinh ngày........ tháng.......... năm.............

Nơi ở hiện nay: .......................................................................................................

Vào Đảng ngày:.........................tại chi bộ:..............................................................

Chính thức ngày:........................tại chi bộ:.............................................................

Hiện đang công tác và sinh hoạt tại chi bộ:............................................................

Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng vĩ đại, nhà lý luận chính trị thiên tài của dân tộc Việt Nam. Toàn bộ di sản tư tưởng của Người là "kho báu" văn hóa của dân tộc, bao hàm rất nhiều lĩnh vực rộng lớn, phong phú và sáng tạo, thể hiện sự trí tuệ và đậm chất nhân văn. Trong đó, tư tưởng về văn hóa, con người chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng.

Qua học tập, nghiên cứu chuyên đề “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam”, bản thân tôi đã thu hoạch được những vấn đề tâm đắc, sâu sắc và tự liên hệ, rút ra những mặt ưu, khuyết điểm, đề ra nội dung tu dưỡng, rèn luyện để đăng ký làm theo tấm gương đạo đức của Bác như sau:

A - Những nội dung cơ bản, cốt lõi về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam.

I. TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA

1. Quan niệm về văn hóa

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra khái niệm văn hóa năm 1943: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.”

=> Khái niệm văn hóa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra đã khái quát nội dung rộng nhất của phạm trù văn hóa, bao hàm các hoạt động vật chất và tinh thần của con người cùng với các giá trị mà con người sáng tạo ra nhằm đáp ứng lẽ sinh tồn, đồng thời cũng là mục đích sống của loài người, là nguồn gốc, động lực sâu xa của văn hóa.

Cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phát triển, nâng tầm văn hóa Việt Nam còn thể hiện trong việc đưa ra 5 định hướng lớn để xây dựng nền văn hóa dân tộc:

“1. Xây dựng tâm lý: Tinh thần độc lập tự cường.

2. Xây dựng luân lý: Biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.

3. Xây dựng xã hội: Mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của ND trong XH

4. Xây dựng chính trị: Dân quyền.

5. Xây dựng kinh tế”.

2. Văn hóa là mục tiêu, động lực của sự phát triển

Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công. Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 03/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trong đó có 2 nhiệm vụ cấp bách thuộc về văn hóa:

  • Một là, cùng với diệt giặc đói phải diệt giặc dốt.
  • Hai là, phải giáo dục tinh thần cho Nhân dân. Người khẳng định: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nền văn hóa mới của nước nhà lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở”; “Văn hóa liên lạc mật thiết với chính trị”. “Phải làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lý của quốc dân”. “Văn hóa phải làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do”; phải làm thế nào cho mỗi người dân Việt Nam, từ già đến trẻ, cả đàn ông và đàn bà ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình và biết hạnh phúc của mình nên được hưởng.

Theo quan điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa là mục tiêu - nhìn một cách tổng quát - là quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc; là khát vọng của Nhân dân về các giá trị chân, thiện, mỹ. Đó là một xã hội dân là chủ và dân làm chủ, công bằng, văn minh, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành; một xã hội mà đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân luôn được quan tâm và không ngừng nâng cao, con người có điều kiện phát triển toàn diện.

Tiếp cận các lĩnh vực văn hóa cụ thể trong tư tưởng Hồ Chí Minh, động lực có thể nhận thức ở các phương diện sau:

- Văn hóa chính trị: Văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong chính trị, là một trong những động lực có ý nghĩa soi đường cho quốc dân đi, lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ.

- Văn hóa kinh tế: Văn hóa không thể đứng ngoài mà phải đứng trong kinh tế, nghĩa là văn hóa không hoàn toàn phụ thuộc vào kinh tế, mà có vai trò tác động tích cực trở lại kinh tế.

- Văn hóa xã hội: Giải phóng về chính trị thì văn hóa mới có điều kiện phát triển. Xã hội thế nào văn hóa thế ấy.

- Văn hóa văn nghệ: Góp phần nâng cao lòng yêu nước, lý tưởng, tình cảm cách mạng, sự lạc quan, ý chí, quyết tâm và niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng.

- Văn hóa giáo dục: Giúp con người hiểu biết quy luật phát triển của xã hội, đào tạo con người mới, cán bộ mới.

- Văn hóa đạo đức, lối sống: Nâng cao phẩm giá, phong cách lành mạnh cho con người, hướng con người vươn tới các giá trị “chân, thiện, mỹ”.

- Văn hóa pháp luật: Đảm bảo dân chủ, trật tự, kỷ cương, phép nước.

3. Văn hóa góp phần khẳng định bản sắc dân tộc gắn liền với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại

Nền văn hóa mới mà Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng là nền văn hóa có tính chất dân tộc. Đó là nền văn hóa gắn liền với dân tộc, có gốc rễ từ dân tộc, mang tâm hồn dân tộc và là diện mạo của dân tộc.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa Việt Nam có thể bị ảnh hưởng lẫn nhau của văn hóa Đông phương và Tây phương, nhưng Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt ta học lấy để tạo ra nền văn hóa Việt Nam. Vì vậy, cùng với bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, Người luôn chú trọng chắt lọc tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu cho văn hóa Việt Nam, xây dựng văn hóa Việt Nam hợp với tinh thần dân chủ.

4. Văn hóa là một mặt trận, người hoạt động văn hóa là chiến sĩ trên mặt trận ấy

Đây là một luận đề văn hóa Việt Nam độc đáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trước hết, cần nhấn mạnh tầm quan trọng và vai trò độc lập của văn hóa với tư cách là một mặt trận như các mặt trận chính trị, kinh tế, quân sự. Nhưng mặt khác phải thấy quan hệ và sự tác động lẫn nhau giữa các “mặt trận”. Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị. Nghĩa là, cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự Nhân dân, trước hết là công, nông, binh.

Văn hóa là một mặt trận nên có tính chất phức tạp của mặt trận, và những người làm công tác trên mặt trận đó phải có những đức tính của người chiến sĩ như lập trường đúng, tư tưởng đúng, hiểu thấu, liên hệ và đi vào đời sống của Nhân dân để bày tỏ tinh thần kiên quyết và anh dũng của quân ta, đồng thời để giúp phát triển và nâng cao tinh thần ấy. Chiến sĩ văn hóa phải là những người dũng cảm, kiên cường để chống lại những thế lực phản văn hóa.

5. Văn hóa phải phục vụ Nhân dân, quần chúng nhân dân phải được hưởng thụ các giá trị văn hóa

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa phải phục vụ Nhân dân, lấy hạnh phúc của Nhân dân, của dân tộc làm mục tiêu. Độc lập, tự do phải đi đến ấm no, hạnh phúc và sự phát triển, tức văn hóa phải nhằm mục tiêu phục vụ và nâng cao đời sống con người.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Không có Nhân dân thì không có Bác. Sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp văn hóa của Người là sự nghiệp vì dân. Theo Người, suy nghĩ, hành động, sáng tác đều phải xuất phát từ cái tâm: Vì Nhân dân phục vụ. Những người làm công tác văn hóa muốn tìm thấy sự thay đổi, sự ham mê thật “phải trở về với cuộc sống thực tại của con người”, tức là nghệ thuật phải gần với cuộc sống.

Người yêu cầu phải học cách nói, tiếng nói của quần chúng; “khi viết, khi nói phải làm sao cho quần chúng đều hiểu, đều tin, đều quyết tâm theo lời kêu gọi của mình. Bao giờ cũng phải tự hỏi: “Ta viết cho ai xem? Nói cho ai nghe?”, “Nếu các bạn viết mà quần chúng hiểu, quần chúng ham đọc, quần chúng khen hay, thế là các bạn tiến bộ. Trái lại, các bạn chưa thành công”.

Người khẳng định: “Chỉ có nhân dân mới nuôi dưỡng cho sáng tác của nhà văn bằng những nguồn nhựa sống. Còn nếu nhà văn quên điều đó - nhân dân cũng sẽ quên anh ta”[9]. Quần chúng còn là những người kiểm nghiệm sản phẩm. Vì vậy, viết xong đọc đi, sửa lại bốn, năm lần chưa đủ, mà “phải nhờ một số đồng chí công, nông, binh đọc lại. Chỗ nào ngúc ngoắc, chữ nào khó hiểu, họ nói ra cho thì phải sửa lại”[10]. Cuối cùng phải thấy rằng, đồng bào đang chờ đợi và phải được hưởng thụ các sản phẩm văn hóa.

II. TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI

1. Quan niệm về con người

Theo quan điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh, con người là một chỉnh thể thống nhất về trí lực, tâm lực, thể lực, vừa tồn tại tư cách cá nhân, vừa là thành viên của gia đình và của cộng đồng, có cuộc sống tập thể và cuộc sống cá nhân hài hòa, phong phú. Trong mỗi con người đều có tính tốt và tính xấu.

Mọi đường lối, chủ trương, chính sách, nhiệm vụ phải thực hiện ngay làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở, có học hành.

2. Xây dựng con người mới - vấn đề có ý nghĩa chiến lược

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, con người là vốn quý nhất, động lực, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, từ khi ra đi tìm đường cứu nước đến lời Di chúc cuối cùng, lúc là thầy giáo, khi là nhà báo, nhà vǎn, là Chủ tịch nước... Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn coi các vấn đề của con người, các công việc của con người, sự nghiệp trồng người là mục tiêu, là mối quan tâm thường trực, là trách nhiệm vẻ vang của mình.

Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, Người yêu cầu phải tích cực, chủ động xây dựng con người mới phát triển toàn diện. Đây là một nhiệm vụ chiến lược lâu dài, gian khổ, đầy chông gai nhưng cũng hết sức vẻ vang và tự hào.

3. Tiêu chuẩn con người mới

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người ta mới sinh ra đều tốt cả, nhưng về sau do ảnh hưởng của bố mẹ, bạn bè, xã hội mà dần dần mỗi người một khác. Đồng thời, ngay trong “mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng”; mỗi xã hội đều có thước đo cái thiện, cái ác của nó. Vì lẽ đó, khi kiến tạo một xã hội mới, trước hết phải tích cực, chủ động xây dựng những con người, những nhân cách cho xã hội đó.

Đối với những người có thói hư tật xấu, trừ hạng người phản bội lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác.

Xây dựng con người toàn diện bao gồm:

- Có ý thức làm chủ, tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa và tư tưởng “mình vì mọi người, mọi người vì mình”.

- Cần kiệm xây dựng đất nước, hăng hái bảo vệ Tổ quốc.

- Có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần quốc tế trong sáng.

- Có phương pháp làm việc khoa học, phong cách quần chúng, dân chủ, nêu gương.

4. Nhân cách văn hóa của người cán bộ, đảng viên

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân cách văn hóa của người cán bộ, đảng viên và những người lãnh đạo cách mạng phải gắn bó với Nhân dân, vừa phải làm gương mẫu cho Nhân dân noi theo. Người yêu cầu đội ngũ cán bộ, đảng viên và các nhà lãnh đạo cách mạng của Đảng phải “ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối chính trị của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của Nhân dân lao động lên trên lên trước lợi ích của cá nhân mình. Hết lòng, hết sức phục vụ Nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc. Ra sức học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, luôn luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ”.

Để giúp cán bộ, đảng viên và cán bộ lãnh đạo hoàn thiện được nhân cách văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh đến công tác chỉnh đốn Đảng. Tổ chức Đảng có vai trò đặc biệt trong việc rèn luyện, giáo dục, xây dựng nhân cách văn hóa cho từng cán bộ, đảng viên.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú trọng xây dựng tiêu chuẩn nhân cách văn hóa của người cán bộ, đảng viên và người lãnh đạo cách mạng. Người thường xuyên giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên thực hiện các tiêu chuẩn sau:

1. Suốt đời kiên quyết phấn đấu cho chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.

2. Rèn luyện tư tưởng vô sản, sửa chữa tư tưởng sai lầm. Kiên quyết đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, không đứng chân trong chân ngoài.

3. Đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, trước hết. Biết đem lợi ích riêng của cá nhân phục tùng lợi ích chung của cách mạng.

4. Tuyệt đối chấp hành nghị quyết và kỷ luật của Đảng.

5. Liên hệ chặt chẽ với quần chúng.

6. Luôn luôn cố gắng học tập, thật thà tự phê bình và thành khẩn phê bình đồng chí mình.

=> Một người cán bộ, đảng viên có nhân cách văn hóa là người phải luôn luôn phấn đấu để hoàn thiện không ngừng.

5. Xây dựng con người là cả “công trình” khoa học

Xây dựng con người mới là công việc không đơn giản, nhiều khó khăn hơn bất kỳ công việc nào, không thể một sớm một chiều mà thành công được. Xây dựng con người là cả một “công trình” khoa học. Trước hết, đây là quá trình con người tự xây dựng mình là chính, không chỉ về mặt thể lực mà cả đời sống vật chất và tinh thần trong sự phong phú đa dạng của nó.

III. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VỀ XÂY DỰNG VĂN HÓA, CON NGƯỜI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Xây dựng, phát triển văn hóa, con người có vai trò vô cùng quan trọng đối với mục tiêu phát triển và tiến bộ xã hội vì nó góp phần kiến tạo nền tảng tinh thần cho đất nước; tạo động lực, nguồn lực nội sinh cho sự phát triển bền vững đất nước và khẳng định tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Chính vì thế, Đảng ta luôn chú trọng công tác xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa hiện nay.

Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn luôn coi trọng vai trò của văn hóa và hết sức quan tâm đến công tác xây dựng văn hóa trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, nhất là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, Đảng ta khẳng định: Con người là chủ thể, giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp đổi mới.

Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24/11/2021 triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng là một sự kiện đặc biệt quan trọng, tiếp tục khẳng định, làm rõ quan điểm, đường lối nhất quán của Đảng về phát triển văn hóa, con người đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong giai đoạn mới. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ 06 nhiệm vụ:

(1) Khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của toàn dân tộc; phát huy cao độ những giá trị văn hóa, sức mạnh và tinh thần cống hiến của mọi người Việt Nam, tạo nguồn lực nội sinh và động lực đột phá để thực hiện thành công mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2025, 2030, tầm nhìn 2045 mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.

(2) Xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập với những giá trị chuẩn mực phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình Việt Nam, hệ giá trị văn hóa, giá trị của quốc gia - dân tộc; kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với giá trị thời đại: yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo...

(3) Phát triển toàn diện và đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, môi trường văn hóa, đời sống văn hóa: bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả sáng tạo các giá trị văn hóa mới.

Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh, gắn liền với đấu tranh không khoan nhượng với cái xấu, cái ác, phi văn hóa, phản văn hóa; bảo vệ những giá trị chân - thiện - mỹ. Nâng cao đời sống văn hóa của nhân dân; xây dựng đời sống văn hóa vui tươi, lành mạnh, hạnh phúc; khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển và hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền của đất nước.

(4) Phát huy vai trò chủ thể sáng tạo, chủ thể thụ hưởng văn hóa là nhân dân; tôn trọng và bảo vệ sự biểu đạt đa dạng của văn hóa, của người dân, các dân tộc, các vùng, miền; phát triển các phong trào văn hóa sâu rộng, thực chất; cải thiện điều kiện, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân, bảo đảm sự công bằng.

Đề cao, phát huy vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, của những người làm công tác văn hóa.

(5) Chú trọng xây dựng Đảng và hệ thống chính trị về văn hóa, về đạo đức; kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, để Đảng ta và hệ thống chính trị của nước ta thật sự là đạo đức, là văn minh, tiêu biểu cho lương tri và phẩm giá con người Việt Nam.

Xây dựng văn hóa trong lãnh đạo, quản lý; phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu theo tư tưởng, đạo đức, phong cách văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

(6) Xây dựng môi trường văn hóa số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số và công dân số, làm cho văn hóa thích nghi, điều tiết sự phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Khẩn trương phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh.

Về những giải pháp trong thời gian tới, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu tiếp tục nâng cao nhận thức và năng lực lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước nhằm bảo đảm sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong xây dựng, phát triển văn hóa từ trung ương đến cơ sở để đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

IV. MỘT SỐ NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP TRỌNG TÂM NHẰM PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HOÁ, SỨC MẠNH CON NGƯỜI BÌNH THUẬN TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN QUÊ HƯƠNG

1. Tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp uỷ đảng, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò của văn hoá, con người trong sự nghiệp xây dựng, phát triển quê hương BT

2. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về văn hoá; nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động văn hoá, văn học, nghệ thuật

3. Coi trọng xây dựng văn hoá trong Đảng và hệ thống chính trị

4. Tập trung xây dựng văn hoá, con người Bình Thuận phát triển toàn diện về trí tuệ, thể chất, phẩm chất đạo đức

5. Xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh; xây dựng và bồi dưỡng những điển hình tiêu biểu về văn hoá

Phần dưới đây do Hoatieu.vn sản xuất, KHÔNG sao chép, đăng tải lên các trang web khác. Mời bạn đọc tải về tham khảo và hoàn thành bài thu hoạch của mình

B.VỀ LIÊN HỆ BẢN THÂN :

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là biểu tượng sáng ngời đối với mỗi người dân Việt Nam, là ngọn đuốc soi đường chỉ lối cho Đảng trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập tự do, thống nhất đất nước, xây dựng xã hội chủ nghĩa, dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn mình. Những năm qua, việc học tập, nghiên cứu các chuyên đề học tập làm theo tấm gương, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã góp phần to lớn giúp nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân về những nội dung cốt lõi trong tư tưởng của Người. Từ đó, gắn tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh với tình hình thức tế tại đơn vị, địa phương công tác để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của nhân dân, tạo dựng niềm tin của quần chúng vào Đảng, chính quyền.

Tuy nhiên, dưới ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế thị trường, sự chống phá của các thế lực thù địch, vẫn còn không ít cán bộ, đảng viên, trong đó có cả lãnh đạo chủ chốt ở các ngành, địa phương có biểu hiện suy thoái về đạo đức chính trị, lý tưởng cách mạng. Ở nhiều nơi, việc học tập và làm theo Bác còn chưa trở thành việc làm thường xuyên, còn mang tính hình thức. Một số đảng viên có biểu hiện xa rời quần chúng, quan liêu, vị kỷ, không đặt lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân. Những biểu hiện này vô cùng nguy hại, khiến Đảng suy yếu về tổ chức, mất lòng tin trong quần chúng.

Do đó, việc cấp thiết hiện nay là cần phải đẩy mạnh chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; rèn luyện đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược có cả đức và tài, ngang tầm nhiệm vụ. Đồng thời, việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh phải là việc làm thường xuyên, được đưa vào chương trình, kế hoạch hành động cụ thể, gắn với các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước và thực hiện nhiệm vụ chính trị, giải quyết các vấn đề bức xúc, nổi cộm của từng địa phương, đơn vị.

Với chủ đề Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh năm 2023 ở tỉnh/thành phố........................... là Phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam, với vị trí công tác hiện tại là một giáo viên, tôi luôn tâm niệm rằng "Làm việc gì cũng phải có cái tâm và yêu nghề thì chúng ta mới thành công được" và "Chăm bón mầm non tương lai của đất nước là nhiệm vụ then chốt không chỉ của ngành giáo dục, mà là của toàn Đảng, toàn dân, toàn hệ thống chính trị".

Ở vị trí công tác trong môi trường giáo dục, theo lời dạy của Bác, thời gian qua, tôi đã làm được những việc như sau:

- Với nhận thức bản thân là người truyền đạt con chữ, tôi luôn có ý thức rèn luyện phẩn chất, tư cách nhà giáo, làm tròn nhiệm vụ mà nhà trường, chính quyền và Đảng giao phó.Luôn có ý thức sống khiêm tốn, hòa nhã với mọi người, hết lòng vì học sinh.

- Về ý thức trách nhiệm tâm huyết với công việc

+ Tôi luôn cố gắng lồng ghép chính sách của Đảng, Nhà nước, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài giảng cho các em học sinh. Chắt lọc thông tin, phân tích rõ tình hình thời sự đang diễn ra trong nước và quốc tế để phân tích rõ cho các em hiểu, tránh cho học sinh hiểu sai lệch về Đảng, chính quyền, chính sách nhà nước đang áp dụng do tiếp nhận nguồn thông tin không chính thống.

+ Tôi luôn không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn bằng cách học hỏi sách báo, thông tin đại chúng học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp thông qua dự giờ, trao đổi chuyên môn và thậm chí học ngay từ chính các em học sinh.

+ Hòa nhã, thường xuyên trao đổi nghiệp vụ với đồng nghiệp, tích cực giúp đỡ đồng nghiệp cùng nhau tiến bộ.

+ Có tinh thần trách nhiệm trong gìn giữ, bảo vệ những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, từ đó truyền lại cho các thế hệ học sinh, nuôi dưỡng tình yêu quê hương, đất nước, ý thức giữ gìn giá trị văn hóa truyền thống lâu đời của con người Việt Nam.

+ Không chạy theo thành tích, nói ít làm nhiều, đặt trọng tâm của giáo dục là học sinh, phấn đấu đào tạo, rèn luyện các em học sinh không chỉ là người giỏi về chuyên môn, có tri thức, mà còn phải có lý tưởng, đạo đức cách mạng, hướng đến xây dựng lớp thanh niên thời đại mới vừa hồng vừa chuyên.

+ Chú trọng vận dụng các quan điểm dạy học mới bằng các phương pháp dạy học tích cực trong điều kiện cho phép, phát huy tính sáng tạo của các học sinh.

+ Tăng cường mối quan hệ: Gia đình – Nhà trường – Xã hội, làm cho mối quan hệ này thực sự có ý nghĩa, có tác dụng thiết thực. Bởi việc "trồng người" không chỉ ở trường, phụ huynh học sinh, xã hội cũng là những môi trường thiết thực nhất của sự nghiệp "trồng người".

- Về ý thức tổ chức, kỷ luật, thực hiện tự phê bình và phê bình theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh:

+ Kiên quyết chống bệnh lười biếng, lối sống hưởng thụ, thẳng thắn góp ý về những hạn chế trong công tác giáo dục và quản lý học sinh ở nhà trường.

+ Bản thân tôi tự luôn đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, phải tôn trọng nguyên tắc, pháp luật, không kéo bè kéo cánh, sống chan hòa với đồng nghiệp.

+ Luôn có ý thức coi trọng tự phê bình và phê bình, thẳng thắn phê phán những biểu hiện xuất phát từ những động cơ cá nhân.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã làm được, bản thân tôi tự nhận thấy vẫn còn những khuyết điểm cần phải nhìn nhận thẳng thắn để kịp thời sửa chữa, như sau:

- Việc đấu tranh, tự rèn luyện, tu dưỡng của bản thân còn chưa khoa học, chưa hệ thống.

- Tinh thần học tập, làm việc còn đôi lúc chưa thật sự nghiêm túc, chưa sâu sát, tỉ mỉ

Phương hướng phấn đấu của bản thân.

- Chấp hành nghiêm các Chỉ thị Nghị quyết của Đảng và pháp luật của nhà nước. Hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, không ngưng tự học, tự nghiên cứu để nâng cao công tác quản lý và nghiệp vụ chuyên môn. Luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, tính tổ chức kỷ luật và tích cực tham gia các phong trào của cơ sở. Có mối liên hệ chặt chẽ với nhân dân nơi cư trú.

- Nêu cao tỉnh thần tự phê bình và phê bình, thẳng thắn,chân thành góp ý cho đồng nghiệp, đồng chí để cùng tiến bộ. Phân đấu giữ vững những kết quà đã đạt được. Luôn gương mẫu trong các hoạt phục vụ. Tự rèn luyện trau dồi phẩm chất đạo đức, lối sống, tác phong của một cán bộ công chức. Không ngừng học tập nâng cao trình độ về chuyên môn nghiệp vụ, trình đô chính trị để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

- Không ngừng rèn luyện về phẩm chất, đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường tư tưởng. Đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí và những biểu hiện tiêu cực trong đơn vị. Tích cực lao động. học tập, công tác với tinh thần lao động sáng tạo, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao; quý trọng công sức lao động và tài sản tập thể, của nhân dân, Thực hành tiết kiệm trong công tác trên cơ sở thực hiện tốt quy chế chi tiêu nội bộ của cơ quan.

- Thẳng thắn, trung thực, chân thành, khiêm tốn, không chạy theo chủ nghĩa thành tích, không bao che giấu khuyết điểm… Luôn có ý thức giữ gìn đoàn kết trong cơ quan, tích cực vận dụng sáng tạo trong giải quyết công việc, luôn nêu gương về phẩm chất, đạo đức và giữ vững lập trường của người cán bộ công chức.

Qua đợt thực hiện cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam đã trang bị thêm cho bản thân tôi sự hiểu biết sâu sắc hơn về tư tương, đạo đức, phong cách sống của Người.

Để thực hiện lời dạy của người về phát huy văn hóa, con người Việt Nam trong thời đại mới, tôi cho rằng, trước hết, chúng ta cần có ý thức giữ gìn bản sắc dân tộc. Một đất nước phát triển, hội nhập văn hóa nhưng không bị hòa tan, chúng ta phải giữ được những giá trị cốt lỗi về văn hóa đã truyền từ bao đời nay, bởi văn hóa cũng là một chiến trường quan trọng. Nếu văn hóa của chúng ta bị phai mờ, sẽ ảnh hưởng lớn đến tư tưởng, tình cảm, lối sống của con người thế hệ sau.

Bên cạnh đó, học tập tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thể hiện ở việc đấu tranh với chính mình trước những cám dỗ của cuộc sống thường nhật, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chiến thắng chủ nghĩa cá nhân, truyền lại tinh thần ấy cho thế hệ học sinh, lớp thanh niên trẻ ngày nay để đào tạo, xây dựng những con người mới vừa có phẩm chất cách mạng, có lý tưởng sống và tri thức vững vàng.

Thực hiện Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" mỗi chúng ta phải có một chương trình hành động cụ thể, gắn học những lời Bác dạy, với sửa chữa, tu dưỡng phẩm chất, hành động hằng ngày. Mỗi cán bộ, đảng viên, người giữ những chức vụ quan trọng càng cần phải thực hiện nghiêm túc hơn, chuyển biến rõ rệt hơn và thực sự là tấm gương sáng cho quần chúng noi theo.

7. Bài thu hoạch chuyên đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

"Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh"

- Họ và tên:..........................................................................................

- Chức vụ:............................................................................................

- Đảng viên: .....................................................................................…

- Tổ chuyên môn:................................................................................

- Đơn vị Công tác:................................................................................

Câu hỏi:

Đồng chí hãy nêu nội dung cơ bản của chuyên đề năm ............ về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Liên hệ với chức trách nhiệm vụ cơ bản của bản thân và đề ra phương hướng phấn đấu làm theo.

Bài làm

Nội dung cơ bản của chuyên đề năm ............:

- Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

- Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu giai đoạn cách mạng mới.

Liên hệ với chức trách nhiệm vụ cơ bản của bản thân và đề ra phương hướng phấn đấu làm theo.

Căn cứ vào nội dung chuyên đề năm ............: “Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” nhằm tiếp tục nâng cao nhận thức của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân về những nội dung cơ bản, giá trị to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tiếp tục đưa nội dung học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người trở thành nền nếp, gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Bản thân tôi là một đảng viên và là một người giáo viên đã làm được và đưa ra phương hướng như sau:

1. Những kết quả đã làm được:

- Về ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức thường xuyên: Tôi luôn luôn gương mẫu rèn luyện phẩm chất tư cách, làm tròn nhiệm vụ được Đảng và chính quyền giao phó. Sống cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, hòa nhã thân ái với mọi người, hết lòng vì nhân dân phục vụ. Tự rèn luyện trau dồi phẩm chất đạo đức, lối sống, tác phong của người Đảng viên.

- Về ý thức trách nhiệm tâm huyết với công việc nghề nghiệp. Luôn tham gia các hoạt động chuyên môn của nhà trường cũng như của Ngành. Thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.

+ Về ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức thường xuyên: Tôi luôn cập nhật thông tin trên mọi thông tin đại chúng để chắt lọc, tìm kiếm những tấm gương đạo đức tốt để học hỏi.

+ Thẳng thắn, trung thực bảo vệ công lý, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ người tốt; Chân thành, khiêm tốn, không chạy theo chủ nghĩa thành tích, không bao che, giấu khuyết điểm ….

+ Luôn có ý thức giữ gìn đoàn kết cơ quan đơn vị. Luôn nêu gương trước đảng viên quần chúng. Nêu cao ý thức trách nhiệm công việc.

- Về ý thức tổ chức, kỷ luật, thực hiện tự phê bình và phê bình theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh:

+ Bản thân tôi tự luôn đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, phải tôn trọng nguyên tắc, pháp luật, không kéo bè kéo cánh để làm rối loạn gây mất đoàn kết nội bộ.

+ Luôn có ý thức coi trọng tự phê bình và phê bình. Luôn phê phán những biểu hiện xuất phát từ những động cơ cá nhân. Luôn động viên những người thân trong gia đình giữ gìn đạo đức, lối sống, xây dựng gia đình văn hoá.

2. Những mặt chưa làm được hoặc còn tồn tại, hạn chế.

Bên cạnh những ưu điểm, bản thân tôi nhận thấy mình cũng còn những nhược điểm như đôi lúc làm việc còn chưa khoa học, chưa hệ thống. Và tinh thần làm việc đôi lúc chưa thật sự sâu sát, tỉ mỉ. Làm việc còn nhiều lúc hình thức chưa lắng nghe ý kiến góp ý của đồng nghiệp. Trong công tác chuyên môn nhiều lúc phê bình đồng nghiệp còn nóng nảy, gay gắt chưa khéo léo.

3. Phương hướng phấn đấu, rèn luyện tu dưỡng đạo đức lối sống của bản thân theo gương chủ tịch Hồ Chí Minh:

Phấn đấu hoàn thành tốt và giữ vững những kết quả đã đạt được. Luôn là người gương mẫu xứng đáng với niềm tin. Luôn gương mẫu trong các hoạt động, tích cực vận dụng sáng tạo trong giải quyết công việc được giao, phải luôn nêu gương về mặt đạo đức, giữ vững lập trường.

Trong thâm tâm của bản thân cũng như trong mọi hành động, tôi luôn quán triệt tư tưởng sâu sắc trong việc đấu tranh với bản thân để noi theo tấm gương vĩ đại của Người. Song song với việc xây dựng Đảng tùy theo sức và vị trí của mình, bản thân tôi cũng luôn nâng cao tinh thần cảnh giác, chống những luận điệu xuyên tạc và cơ hội về Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Không ngừng nâng cao trình độ của bản thân để thích ứng với điều kiện xã hội mới, áp dụng triệt để và linh hoạt các nguyên tắc của Người tùy theo vị trí của mình như: Tập trung dân chủ, Tự phê bình và phê bình, kỷ luật nghiêm minh tự giác, trong cơ quan cũng như trong cuộc sống cộng đồng.

Đẩy mạnh công tác tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn của bản thân. Luôn nêu gương trước đồng nghiệp, học sinh. Tuyên truyền đường lối chính sách pháp luật của Đảng, của nhà nước đến quần chúng nhân dân. Không ngừng tự học để nâng cao chuyên môn nghiệp vụ. Chống các biểu hiện suy thoái về phẩm chất đạo đức. Luôn tu dưỡng đạo đức phẩm chất nhà giáo, không ngừng tự học suốt đời.

.............., ngày...... tháng ...... năm ............

Người viết thu hoạch

8. Bài thu hoạch học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

Qua học tập tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh chuyên đề năm 20... về "Trung thực, trách nhiệm, gắn bó với nhân dân, đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh", tôi xin trình bày những nhận thức của mình về "Trung thực, trách nhiệm, gắn bó với nhân dân, đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh"; tự liên hệ bản thân về chủ đề "Trung thực, trách nhiệm, gắn bó với nhân dân, đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh" theo tư tưởng Hồ Chí Minh như sau:

I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ "TRUNG THỰC, TRÁCH NHIỆM; GẮN BÓ VỚI NHÂN DÂN; ĐOÀN KẾT, XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH"

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về trung thực, trách nhiệm

1.1. Về trung thực,"nói thì phải làm"

Trung thực là một phẩm chất đạo đức, thể hiện sự thống nhất giữa tư tưởng và hành động, nhận thức và việc làm; giữa tư tưởng đạo đức và hành vi đạo đức của mỗi người. Trong quan hệ giữa người với người, Hồ Chí Minh coi trung thực là nói đi đôi với làm. Nói đi đôi với làm là nguyên tắc thực hành đạo đức, là phương châm hoạt động, là biểu hiện sinh động cụ thể của việc quán triệt sâu sắc nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, giữa suy nghĩ và hành động trong một con người.

Trung thực trước hết là với Đảng với cách mạng. Xây dựng, rèn luyện bản lĩnh vững vàng, có niềm tin vào mục tiêu lý tưởng cách mạng của Đảng, thì dù phải trải qua những tình huống phức tạp, những bước ngoặt hiểm nghèo, vẫn luôn luôn trung thực với mình, trung thành với Đảng, với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, vì tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Phải nói và làm đúng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, chống chủ nghĩa cá nhân, không được vì lợi ích cá nhân mà xuyên tạc, nói sai, làm sai. Nắm vững mục tiêu lý tưởng của Đảng và được cụ thể hóa thành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong từng giai đoạn để thực hiện cho đúng, để tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân làm theo cho đúng.

Trung thực, thống nhất giữa lời nói và việc làm, "không được nói một đàng, làm một nẻo" là sự thể hiện sự trung thực với chính mình. Nếu chính mình tham ô mà bảo người khác liêm khiết thì không được và là sự giả dối. Nếu kêu gọi mọi người cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư, mà bản thân mình lại lười biếng, không cần, kiệm, không hoàn thành những công việc được giao, luôn tìm cách tham ô tiền của Nhà nước và nhân dân, sống hoang phí, xa hoa..., là giả dối, không trung thực.

Đối với chính mình, phải đúng mực với người khác, không được "hứa mà không làm". Mỗi cán bộ, đảng viên "Nói ít, bắt đầu bằng hành động"; "tốt nhất là miệng nói, tay làm, làm gương cho người khác bắt chước". Cán bộ, đảng viên "cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh... phải thật thà nhúng tay vào việc".

Đối với Đảng, phải luôn luôn tự đổi mới, tự chỉnh đốn để hoàn thành trách nhiệm, lời hứa trước nhân dân. Khi mắc sai lầm, khuyết điểm thì dũng cảm nhận lỗi trước dân và kiên quyết dựa vào dân để sửa chữa khuyết điểm.

1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm

Trách nhiệm là việc phải làm không thể thoái thác, dù ở cương vị nào, to hay nhỏ, lớn hay bé, mỗi người đều có 'bổn phận". Ý thức trách nhiệm là tự ý thức được về các công việc phải làm, "nhận rõ phải, trái, đúng sai", tự mình xác định việc cần làm. Trên cơ sở có ý thức đúng đắn, tự giác, tích cực thực hiện trách nhiệm của mình là "có tinh thần trách nhiệm cao".

Trước hết là trách nhiệm với Tổ quốc. Theo Hồ Chí Minh, mọi cán bộ, đảng viên, công chức luôn có trách nhiệm thiêng liêng, cao cả đối với Tổ quốc, với sự sống còn của quốc gia, dân tộc. Trách nhiệm ấy được thể hiện ở tinh thần đấu tranh quên mình cho độc lập, tự do, thống nhất đất nước; phấn đấu cho đất nước giàu mạnh, phấn đấu cho CNXH.

Trách nhiệm đối với nhân dân. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, công chức với nhân dân được bắt nguồn từ nguyên lý: "Nước lấy dân làm gốc", "Sự nghiệp cách mạng là do nhân dân tiến hành", "Nhân dân là người làm ra lịch sử"... Cán bộ, đảng viên, công chức phải "hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân". Để làm được việc đó, cán bộ, đảng viên công chức còn phải thường xuyên tuyên truyền, giáo dục cho nhân dân nắm vững quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; lãnh đạo quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi các đường lối, chính sách ấy, Người chỉ rõ: "Mỗi đảng viên là một người thay mặt cho Đảng trước quần chúng, giải thích chính sách của Đảng và của Chính phủ cho quần chúng hiểu rõ và vui lòng thi hành". Cán bộ, đảng viên, công chức phải sâu sát, gần gũi quần chúng, chăm lo giúp đỡ quần chúng về mọi mặt; phải "trọng dân, sát dân, tin dân", phấn đấu sao cho "dân phục, dân tin, dân yêu"; phải "... lắng nghe ý kiến và nguyện vọng của nhân dân, học hỏi kinh nghiệm của nhân dân, "việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với dân chúng, giải thích cho dân chúng... Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết".

Trách nhiệm của cán bộ, đảng viên là phải nêu gương trước quần chúng về mọi mặt. Sự gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên có vai trò rất to lớn để biến đường lối, chủ trương của Đảng thành hiện thực. "Người đảng viên - dù công tác to hay nhỏ, địa vị cao hay thấp - ở đâu cũng phải làm gương mẫu cho quần chúng... Muốn cho quần chúng nghe lời mình, làm theo mình, thì người đảng viên, từ việc làm, lời nói đến cách ăn ở đều phải gương mẫu"; phải kính trọng dân, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, tuyệt đối không được có thái độ "vác mặt làm quan cách mạng", không được hách dịch, nhũng nhiễu nhân dân.

Trách nhiệm đối với Đảng. Tất cả đảng viên phải kiên định với tôn chỉ, mục đích, mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Đảng viên phải quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc đường lối, chủ trương, nghị quyết do Đảng đề ra; thực hiện tốt các nhiệm vụ của người đảng viên; chấp hành nghiêm Điều lệ, kỷ luật Đảng; tích cực tham gia xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh; luôn giữ vững tính tiền phong, gương mẫu của người đảng viên. Mỗi đảng viên phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác – Lênin để nâng cao trình độ giác ngộ, để hăng hái đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng, luôn đặt lợi ích của Đảng lên trên, lên trước lợi ích của cá nhân mình.

Trách nhiệm với bản thân, gia đình, quê hương

Là một thành viên của xã hội, của tổ chức, mỗi người giữ một vị trí xã hội nhất định, hoạt động trong một lĩnh vực nhất định và thực hiện một công việc nhất định. Do vậy, hoàn thành nhiệm vụ được giao là kết quả thực hiện tốt trách nhiệm với bản thân, gia đình, quê hương. Cán bộ, đảng viên, công chức phải chăm lo xây dựng gia đình, dòng họ, quê hương... Phải giáo dục cho các thế hệ trong gia đình, dòng họ về lòng yêu nước, về trách nhiệm xã hội, về ý chí vươn lên trong học tập và công tác, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Đặc biệt, tất cả đảng viên phải quan tâm giáo dục cho con cháu về đạo đức, lối sống lành mạnh, nhất là tinh thần cần kiệm, liêm chính, lòng nhân ái, tình đoàn kết cộng đồng; biết kế thừa, phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình, dòng họ, quê hương và của toàn dân tộc.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về gắn bó với nhân dân

Theo Hồ Chí Minh nhân dân là nguồn gốc của mọi sức mạnh. Người viết: "...Trong bầu trời không gì quí bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân". "Cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người". Khi nói về thắng lợi của Cách mạng tháng 8/1945, Hồ Chí Minh nói: "Nhất là vì lực lượng của cuộc toàn dân đoàn kết. Tất cả các dân tộc, các giai cấp, các địa phương, các tôn giáo đều nổi dậy theo lá cờ Việt Minh để tranh lại quyền độc lập cho Tổ quốc. Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết..., "Trong công cuộc kháng chiến kiến quốc, lực lượng chính là ở dân.

Để gắn bó với dân, giữ vững mối liên hệ giữa cán bộ, đảng viên và nhân dân, Người yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên, công chức phải:

- "Nhận rõ phải, trái. Giữ gìn lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân. Mọi việc thành hay bại là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay là không".

+ Cán bộ của Đảng, Nhà nước "cần phải xung phong, gương mẫu trong sản xuất và trong công tác, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, luôn luôn trau dồi đạo đức cách mạng, cần kiệm, liêm chính".

+ Với mỗi đảng viên "Bất kỳ khó khăn đến mức nào cũng kiên quyết làm đúng chính sách và nghị quyết của Đảng, làm gương cho quần chúng. Mọi đảng viên phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, trước Đảng, phải kiên quyết chống lại chủ nghĩa cá nhân";

"...Vô luận trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết. Nếu lợi ích của Đảng và lợi ích cá nhân mâu thuẫn với nhau, thì lợi ích cá nhân phải tuyệt đối phục tùng lợi ích Đảng".

+ "Cán bộ đảng viên phải nâng cao tinh thần phụ trách trước Đảng và trước quần chúng, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Phải kính yêu nhân dân. Phải tôn trọng thật sự quyền làm chủ của nhân dân. Tuyệt đối không được "kiêu ngạo, công thần, tự cao, tự đại"... Người dạy: "Cơm của chúng ta ăn, áo của chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng đều là mồ hôi, nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy chúng ta phải đền ơn xứng đáng cho nhân dân. Chớ vác mặt làm quan cách mạng để dân ghét, dân khinh, dân không ủng hộ".

3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh

3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết

Tư tưởng đoàn kết nổi bật của Người là: "Đoàn kết làm ra sức mạnh", "Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta"; "Đoàn kết là thắng lợi"; " Đoàn kết là then chốt của thành công". "Đoàn kết" là điểm mẹ, điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt. "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công".

Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng; phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ trương của của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong mọi giai đoạn cách mạng. Đại đoàn kết toàn dân là mục đích phấn đấu của Đảng Cộng sản, "Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm 8 chữ là " đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc". Khái niệm dân, nhân dân, đồng bào là một tập hợp đông đảo quần chúng, là "mọi con dân nước Việt","mỗi một người con Rồng cháu Tiên", không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, "già, trẻ, gái trai, giàu nghèo, quý tiện". Hồ Chí Minh nhiều lần nêu rõ: "Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ".

Đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc. Đại đoàn kết dân tộc dựa trên nền tảng của khối liên minh công nông, tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Hồ Chí Minh viết "Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất". Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng.

Đoàn kết toàn dân là đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Người nêu rõ: "Chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ các tầng lớp nhân dân.. .; phải đoàn kết tốt các đảng phái, các đoàn thể, các nhân sĩ trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện hợp tác lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tiến bộ; phải đoàn kết các dân tộc anh em, cùng nhau xây dựng Tổ quốc.. .; phải đoàn kết chặt chẽ đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hoà thuận, ấm no, xây dựng Tổ quốc". "Đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau, phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân".

Đảng Cộng sản vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận, có trách nhiệm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững chắc. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là của giai cấp công nhân, vừa là của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Vì vậy, "đại đoàn kết dân tộc.. . thành vấn đề máu thịt của Đảng". Muốn quy tụ được cả dân tộc, Đảng phải: "Vừa là đạo đức, vừa là văn minh"; "Đảng phải thực sự đoàn kết nhất trí"; "được nhân dân thừa nhận". Người viết: "Đảng không thể thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo".

3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh

3.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng

Theo Hồ Chí Minh, vai trò của Đảng chính trị không chỉ trong cuộc đấu tranh giai cấp mà cả trong đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, công tác xây dựng Đảng chiếm một vị trí quan trọng. Người luôn khẳng định, trong sự nghiệp đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước luôn luôn đòi hỏi một Đảng trong sạch, vững mạnh, có tầm cao trí tuệ, sức chiến đấu, gắn bó với nhân dân, đủ năng lực lãnh đạo nhân dân trong mọi giai đoạn của cách mạng.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng tập trung vào những điểm chủ yếu sau:

Một là, cách mạng cần có Đảng. Cách mạng Việt Nam muốn thắng lợi "trước hết phải có đảng cách mệnh". "Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt". "Chủ nghĩa" mà Người đề cập ở đây là chủ nghĩa Mác - Lênin.

Hai là, xây dựng Đảng là phải thực hiện tốt các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. Vận dụng và phát triển những nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng vô sản kiểu mới do V.I.Lênin đề ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu các nguyên tắc chủ yếu là: Nguyên tắc tập trung dân chủ; Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; Nguyên tắc tự phê bình và phê bình; Kỷ luật nghiêm minh, tự giác.

Ba là, quan tâm xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài để Đảng xứng đáng "là đạo đức, là văn minh".

Đây là sự phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh học thuyết của V.I.Lênin về đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Để đảng thực sự"là đạo đức, là văn minh" phải quan tâm xây dựng đội ngũ đảng viên của Đảng có phẩm chất, tư cách và năng lực hoạt động.

Bốn là, tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với dân, vì "Đảng là con nòi của dân tộc"; mục đích của Đảng là "Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc". Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Mỗi đảng viên phải bằng hành động thực tế của mình để có niềm tin yêu của nhân dân, chứ không phải "dán lên trán hai chữ cộng sản" là được dân tin, dân yêu, dân kính, dân phục. Đảng thường xuyên lắng nghe ý kiến của nhân dân, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; tổ chức và vận động nhân dân tham gia xây dựng Đảng. Đảng phải nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với dân; phải "...không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân".

Năm là, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn là yêu cầu của sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Trong điều kiện cách mạng chuyển sang giai đoạn mới càng cần quan tâm đến công tác xây dựng Đảng; "việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng..."

3.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết trong công tác xây dựng Đảng

Trong công tác xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của đoàn kết. Nội dung đoàn kết xây dựng Đảng trong tư tưởng Hồ Chí Minh tập trung lại gồm các điểm sau:

  • Vấn đề đoàn kết có tầm quan trọng hàng đầu của công tác xây dựng Đảng. Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam trước hết là do sự đoàn kết trong Đảng đem lại, bởi từ đoàn kết trong Đảng dẫn tới đại đoàn kết toàn dân. Người viết: "Nhờ đoàn kết chặt chẽ" mà "Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác".
  • Đoàn kết là là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân tộc ta. Khi đã trở thành truyền thống thì mọi thế hệ cách mạng đều phải có trách nhiệm duy trì và bảo vệ, Người nói "Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình".
  • Để thực hiện đoàn kết, thống nhất trong Đảng, Hồ Chí Minh yêu cầu phải thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng, đặc biệt là dân chủ và phê bình, tự phê bình, "Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình", đó là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng.
  • Để đoàn kết, không chỉ là thực hiện nguyên tắc, bản lĩnh, lý trí mà rất cần cả tình thương yêu, sự đồng cảm và chia sẻ với nhau, "trong Đảng phải có tình đồng chí, thương yêu lẫn nhau".
  • Trong điều kiện đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh yếu tố đạo đức của Đảng, chống lại các căn bệnh "quan liêu", "tham nhũng, lãng phí", "xa dân". Theo Người, đảng cầm quyền có nhiệm vụ to lớn là lãnh đạo Nhân dân xây dựng xã hội mới, một "cuộc chiến đấu khổng lồ, xóa đi những gì cũ kỹ hư hỏng, xây dựng những cái mới mẻ, tốt tươi". Để hoàn thành sứ mạng đó, Đảng ta phải "là đạo đức, là văn minh". Người nói "Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân".

II. NHẬN THỨC VỀ "TRUNG THỰC, TRÁCH NHIỆM; GẮN BÓ VỚI NHÂN DÂN; ĐOÀN KẾT, XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH" THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

1. Về trung thực, trách nhiệm

  • Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về "trung thực, trách nhiệm là yêu cầu chung trong các giai đoạn phát triển của cách mạng. Đó là sự phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đoàn kết gắn bó, có trách nhiệm với mình với quê hương, đất nước. Trong lịch sử dân tộc, các quan niệm "đói cho sạch, rách cho thơm", "thật thà, trung thực", "không tham của người khác", "cứu người như cứu mình"... đã chi phối đời sống cộng đồng các dân tộc trải qua hàng ngàn năm lịch sử, là cơ sở nuôi dưỡng khối đoàn kết, tình nhân ái trong xã hội.
  • Dưới ảnh hưởng của truyền thống dân tộc và những quan niệm tốt dẹp của Nho giáo, Phật giáo, người Việt Nam luôn có ý thức trách nhiệm với mình, với cộng đồng và xã hội. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về trung thực và trách nhiệm là giữ gìn, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc; là nhiệm vụ của tất cả mọi người dân Việt Nam. Phát huy truyền thống trung thực, trách nhiệm trong mỗi người Việt Nam hiện nay là để góp phần xây dựng nền tảng đạo đức, tinh thần, văn hóa của xã hội mới, nhắm tới mục tiêu xã hội "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng đã khẳng định vị trí vai trò của việc xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội bên cạnh xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội mới. Đảng đã xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt và phát triển văn hóa, xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội có vai trò quan trọng. Duy trì và phát huy truyền thống đạo đức trung thực, trách nhiệm là yêu cầu của việc xây dựng xã hội mới.
  • Trong quá trình xây dựng đất nước, chúng ta cần phải khắc phục sự tác động tiêu cực của nền kinh tế sản xuất nhỏ, tiểu tư hữu, cơ sở để nảy sinh sự gian dối, làm hàng giả ... ; trong lĩnh vực xã hội là sự thiếu trung thực, nói dối, nói một đằng, làm một nẻo, cơ hội chủ nghĩa... Những tệ nạn xã hội này càng dễ phát triển trong cơ chế thị trường chưa được hoàn thiện, khi quản lý nhà nước còn lỏng lẻo trên nhiều lĩnh vực... Chủ nghĩa cá nhân theo đó có cơ hội phát triển. Việc lợi dụng chức quyền, tham nhũng dễ nảy sinh; tệ nói dối, làm hàng giả, ăn cắp... "trở nên bình thường" và không còn cảm thấy xấu hổ... Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI đã xác định các nhiệm vụ xây dựng văn hóa, con người Việt Nam, xây dựng nhân cách con người, trong đó có phẩm chất trung thực và trách nhiệm.
  • Yêu cầu của việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về trung thực, trách nhiệm là mỗi người Việt Nam cần xây dựng lối sống trung thực, trước hết là trung thực với chính mình, với gia đình, người thân, trung thực với bạn bè, đồng chí, tổ chức và nhân dân. Khắc phục tệ nói dối trong tổ chức và xã hội đã đến mức như thói quen; loại trừ thói ích kỷ, tham lam, tranh cướp, hôi của khi người khác gặp hoạn nạn; tệ làm hàng giả, bằng giả, gian manh, lừa dối trên thương trường, trong quan hệ xã hội,... Đó là cơ sở để xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh, hạnh phúc, bởi không có xã hội hạnh phúc khi không có các gia đình hạnh phúc, con người hạnh phúc. Mà một gia đình không thể hạnh phúc khi mọi thành viên trong gia đình sống không trung thực...
  • Trung thực đi liền với trách nhiệm. Mỗi người trong xã hội đều có những trách nhiệm, với những biểu hiện cụ thể nhất định. Người có cương vị càng lớn càng có trách nhiệm cao. Đã trung thực với chính mình thì không bao giờ từ bỏ trách nhiệm của mình. Trung thực và trách nhiệm góp phần để khắc phục những suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong xã hội ta hiện nay.

2. Về gắn bó với Nhân dân

  • Trách nhiệm gắn bó với Nhân dân trước hết thuộc về cán bộ, đảng viên của Đảng, công chức của Nhà nước, những người có nhiệm vụ phục vụ nhân dân. Khẳng định vai trò quyết định của quần chúng nhân dân đối với thắng lợi của cách mạng, Người thường nhắc câu "Dễ mười lần không dân cũng chịu, Khó trăm lần dân liệu cũng xong". Trách nhiệm gắn bó với nhân dân của cán bộ, đảng viên, công chức là để phục vụ nhân dân, huy động sức mạnh trong nhân dân thực hiện các nhiệm vụ cách mạng. Gắn bó với nhân dân còn là đạo lý của người cán bộ công chức, bởi "cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc" do nhân dân cung cấp; tiền lương chúng ta nhận, phương tiện chúng ta làm việc là từ tiền thuế của dân. Thực hiện gắn bó với nhân dân, bắt đầu từ mực tiêu phục vụ nhân dân là quay về những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị.
  • Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về gắn bó với nhân dân là phát huy bài học kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam, lấy dân làm gốc. Hồ Chí Minh từng dạy "Gốc có vững, cây mới bền, Xây lầu thắng lợi trên nền Nhân dân". Bài học có dân là có tất cả không chỉ đúng trong những năm "nếm mật nằm gai", dựa vào dân để xây dựng phong trào trong đấu tranh giành và bảo vệ chính quyền, mà ngày nay càng chứng minh sự đúng đắn của nó. Trong xây dựng kinh tế, không xuất phát từ lợi ích của dân, các chủ trương, chính sách mới không được dân thực hiện, không đi vào thực tiễn, chỉ nằm trên bàn giấy; các phong trào thi đua trở nên hình thức; các cuộc vận động, huy động sự đóng góp của dân bị phản ứng dưới nhiều hình thức, có khi lan rộng ra nhiều nơi. Người cán bộ lãnh đạo hết lòng vì dân, ở đâu, khi nào cũng được dân kính trọng, tôn vinh, như Bác Hồ - lãnh tụ vĩ đại của dân tộc – danh nhân văn hóa thế giới và gần đây là Đại tướng Võ Nguyên Giáp được tôn vinh là "Đại tướng của nhân dân"...
  • Gắn bó với nhân dân còn là yêu cầu của giai đoạn phát triển mới của đất nước. Đổi mới mô hình tăng trưởng, phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững đang yêu cầu cao về phát huy năng lực sáng tạo của quần chúng. Đó cũng là một trong những nguyên nhân của quan điểm đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo hiện nay. Gắn bó với dân để phát huy những sáng kiến, kinh nghiệm trong dân, huy động các nguồn lực phát triển trong các thành phần kinh tế, tạo động lực tăng trưởng mới cho nền kinh tế nước ta hiện nay.
  • Gắn bó với nhân dân là dựa vào dân để xây dựng Đảng. Đảng chỉ có một mục tiêu phấn đấu là vì nước, vì dân, ngoài ra Đảng không có lợi ích nào khác. Trong lịch sử đấu tranh oanh liệt, Đảng đã được nhân dân yêu mến, giúp đỡ, chở che, "lòng dân yêu Đảng như là yêu con", nhờ đó mà đạt được thắng lợi. Ngày nay, trong công tác xây dựng Đảng, đặc biệt là chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, Đảng không thể thành công nếu không dựa vào dân.
  • Nội dung gắn bó với nhân dân hiện nay bao gồm nhiều mặt, từ xây dựng chủ trương, đường lối, hoạch định chính sách đến tổ chức thực hiện. Có thể nêu một số điểm chính là: - Luôn luôn xuất phát từ lợi ích của đại đa số nhân dân để xây dựng chính sách. - Gần dân, luôn quan tâm đến đời sống thực tiễn của nhân dân, để nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, yêu cầu của dân sinh, dân trí... để cùng dân giải quyết. - Đảng và Nhà nước có các biện pháp để thực hành dân chủ thực sự trong dân, để nhân dân được tham gia, được nói, được bàn, được quyết định theo đa số những vấn đề thiết thân với dân ở cơ sở.
  • Tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế, văn hóa, xã hội, đảm bảo quyền lợi chính đáng của người dân chân chính, hạn chế tác hại của lợi ích nhóm, chống tham nhũng có hiệu quả. Xử lý kiên quyết, kịp thời những hành động tham ô, xâm hại đến lợi ích chính đáng của nhân dân, nhất là ở cơ sở hiện nay.
  • Tiếp tục thực hiện tốt các quy định trong sinh hoạt đảng, như sinh hoạt hai chiều, lấy phiếu tín nhiệm, điều tra dư luận xã hội, phục vụ cho công tác xây dựng Đảng hiện nay.

3. Về đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh

  • Đảng ta có truyền thống đoàn kết, vượt qua khó khăn, thử thách. Từ khủng bố trắng những năm 1930-1931, Đảng đã vươn mình đứng dậy. Trong điều kiện "ngàn cân treo sợi tóc" những năm 1945-1946, Đảng tự tuyên bố giải tán, trở thành "Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác" để tập hợp sức mạnh toàn dân tộc và thực hiện "dễ bất biến ứng vạn biến" để giữ vững nền độc lập còn non trẻ trước âm mưu xâm lược của bên ngoài. Trong những năm chiến tranh, kẻ thù muốn dùng bom đạn để biến chúng ta quay lại "thời kỳ đồ đá", nhưng chúng ta đã đứng vững và chiến thắng. Trong những năm 1989-1991, trong số 13 nước xã hội chủ nghĩa có 9 nước đảng cộng sản, công nhân cầm quyền mất vai trò lãnh đạo, chế độ xã hội chủ nghĩa sụp đổ, nhưng chúng ta đã vượt qua bao khó khăn, đổi mới để tiến lên. Nguyên nhân đầu tiên và bài học chung của các thắng lợi là đoàn kết toàn Đảng, toàn dân.
  • Tuy nhiên, trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, chúng ta cũng đang đứng trước những thử thách lớn. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay đã trở thành "vấn đề cấp bách", cần tập trung giải quyết. Lợi ích nhóm đang tác động lớn đến việc thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và đang là nguy cơ trở thành cơ sở kinh tế của sự chia rẽ, thiếu thống nhất trong nội bộ. Yêu cầu của cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc ngày càng trở nên trực tiếp và thường xuyên. Đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh đang trở nên quan trọng và cấp thiết hơn.

Tăng cường đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh cần tập trung vào những nội dung, công việc chính sau đây:

Một là, nâng cao phẩm chất trí tuệ của Đảng, xây dựng, hoàn thiện đường lối đổi mới, đề ra các chủ trương, giải pháp phù hợp cho giai đoạn phát triển mới

  • Đảng ta là cầm quyền. Năng lực cầm quyền của Đảng là sự tổng hoà trình độ, khả năng, bản lĩnh chính trị để giải quyết các yêu cầu, nhiệm vụ do tình hình đất nước và thế giới đặt ra, nhằm lãnh đạo toàn dân thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Muốn đề ra đường lối, chủ trương, quyết sách phù hợp, Đảng phải nâng cao tầm trí tuệ, nắm chắc yêu cầu thực tiễn, tình hình trong nước và quốc tế để tiếp tục hoàn thiện đường lối đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
  • Trong hoạch định đường lối phải tránh bảo thủ, trì trệ, đồng thời phải tránh hấp tấp, vội vàng, làm tốt công tác dự báo, chú ý đến những vấn đề mới nẩy sinh để kịp thời nghiên cứu, tổng kết, bổ sung, phát triển cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng. Việc xây dựng, hoàn thiện đường lối đổi mới phải quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh "đảng phải có chủ nghĩa làm cốt". Đảng phải kiên định nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm kim chỉ nam cho hành động, cơ sở quy tụ, xây dựng và phát huy sức mạnh đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân tộc.

Hai là, quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, thực sự coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt ở tất cả các cấp, các ngành.

  • Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, sự suy yếu, thoái hóa, biến chất của tổ chức đảng, làm cho vai trò cầm quyền của Đảng bị suy giảm, có thể dẫn đến mất ổn định chính trị - xã hội là một nguy cơ lớn. Chăm lo xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là điều kiện tối cần thiết và là điều kiện tiên quyết để giữ vững ổn định chính trị - xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính chất then chốt của nhiệm vụ xây dựng Đảng thể hiện trong các điểm sau:
  • Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, thu hút và phát huy tiềm năng trí tuệ của toàn dân tộc. Trong thực hiện nhiệm vụ này, cần quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh: Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải "động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân".
  • Cần đặc biệt coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong điều kiện cơ chế kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ đức và tài, đầy tinh thần trách nhiệm trước Đảng, trước dân tộc, năng động, dám nghĩ, dám làm... không chỉ là sự quan tâm, phát huy nhân tố con người trong Đảng, mà còn để phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, vấn đề có ý nghĩa quyết định đến thành bại của cả sự nghiệp cách mạng.
  • Kiên quyết đấu tranh, khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các tiêu cực khác ở trong Đảng và ngoài xã hội. Những tiêu cực trong xã hội đã xâm nhập vào cơ thể Đảng, vào bộ máy Nhà nước, thách thức nghiêm trọng uy tín của Đảng, Nhà nước trong Nhân dân, ảnh hưởng đến việc cầm quyền của Đảng, sự tồn vong của chế độ và con đường phát triển của đất nước. Do vậy, toàn Đảng và mỗi tổ chức Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên cần có nhận thức đúng đắn tư tưởng, tấm gương Hồ Chí Minh về nhiệm vụ xây dựng Đảng, để tham gia đấu tranh khắc phục tình trạng trên, xây dựng Đảng ta thực sự "là đạo đức, là văn minh".

Ba là, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng

  • Phương thức lãnh đạo của Đảng có vai trò quan trọng để đưa đường lối, chủ trương của Đảng vào thực tiễn cuộc sống. Đó cũng chính là yêu cầu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra trong trong tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc".
  • Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết và đặt trọng tâm đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội. Phát huy vai trò giám sát và phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đảng tiếp thu những ý kiến của các tổ chức, đoàn thể để bổ sung, phát triển, điều chỉnh đường lối, chủ trương; để đổi mới phương thức lãnh đạo đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội.

Bốn là, giải quyết tốt mối quan hệ với dân.

  • Giải quyết mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân hiện nay đang trở thành vấn đề cấp thiết, là bài học lớn rút ra từ 30 năm đổi mới. Sự phản ứng, đôi khi gay gắt, của nhân dân ở một số nơi đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, chính quyền các cấp, rõ nhất là cấp cơ sở; các "điểm nóng" liên quan đến nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề nhà, đất, quyền dân chủ, dân sinh... liên tiếp xuất hiện ở nhiều địa phương đã phản ánh sự không bình thường trong mối quan hệ máu thịt này.
  • Trong thời gian qua Đảng và Nhà nước đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế... để giải quyết mối quan hệ này, nhưng nói chung hiệu quả vẫn còn rất thấp. Điều đó phản ánh sự cố gắng, quyết tâm chính trị nhưng vấn đề cơ bản hiện nay là tổ chức thực hiện tích cực, kiên quyết, đồng bộ, có hiệu quả ở các cấp, các ngành. Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, của mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng, trước hết là các cấp ủy đảng.
  • Để giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng với dân, ở tất cả các cấp, các ngành phải quán triệt các chỉ dẫn của Bác: Các quyết định, chủ trương được thông qua phải lấy lợi ích của đa số nhân dân làm mục đích; các chính sách được ban hành phải có mục tiêu vì dân; cán bộ, đảng viên, công chức phải là công bộc của dân, "vì nhân dân phục vụ"; các biện pháp thực hiện phải dựa vào sức dân và mang lợi ích cho dân... Điều quan trọng là mọi hoạt động của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể phải thực sự lấy dân làm gốc.
  • Đoàn kết xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh "là đạo đức, là văn minh" hiện nay không chỉ là trách nhiệm của toàn Đảng, trước hết là của cấp ủy các cấp, từ Trung ương đến cơ sở; của mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng, mà còn là yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và là sự mong đợi của các tầng lớp nhân dân.

III. LIÊN HỆ

1. Đối với bản thân

Là đảng viên, Bí thư chi bộ, Trưởng phòng Chế độ BHXH, bản thân tôi nhận thấy học tập và làm theo tâm gương đạo đức Hồ Chí Minh về "Trung thực, trách nhiệm, gắn bó với nhân dân; đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh" là chuyên đề quan trọng về tính trung thực, tinh thần trách nhiệm; đoàn kết, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, một tài liệu học tập rất bổ ích, thiết thực của mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và lao động hợp đồng trong hệ thống BHXH tỉnh Gia Lai để tu dưỡng phẩm chất đạo đức, rèn luyện phương pháp và tác phong làm việc, nhằm thực hiện ngày càng tốt hơn nhiệm vụ công tác của mình.

  • Đối với tự mình: không được tự mãn, tự túc mà phải tìm tòi, học hỏi, cầu tiến bộ. Đừng kiêu ngạo mà phải học lấy điều hay của bạn bè, đồng nghiệp. Phải cần cù, siêng năng, chịu khó, nhiệt tình, trách nhiệm với công việc của mình. Thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, phẩm chất và năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phong cách, phương pháp công tác tốt, trong đó phẩm chất đạo đức được coi là yếu tố hàng đầu, là gốc, là nền tảng. Nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, các quy định của ngành và địa phương, nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị.
  • Đối với bạn bè, đồng nghiệp: phải thân ái, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau trong công việc và trong cuộc sống hàng ngày. Trước bạn bè, đồng nghiệp không nên che dấu khuyết điểm, không tranh giành ảnh hưởng của nhau, không ghen ghét, đố kỵ, khinh bỉ người khác, bỏ lối hiếu danh, hiếu vị...Cần học tập những điều hay từ bạn bè, đồng nghiệp, sửa chữa những khuyết điểm, sai lầm trước mọi người, đồng thời góp ý kiến phê bình để giúp nhau cùng tiến bộ. Không lợi dụng phê bình để trù dập lẫn nhau mà phải đoàn kết, thống nhất, phê bình trên tinh thần xây dựng cùng tiến bộ.
  • Đối với công việc: Là Trưởng phòng, tham mưu cho Giám đốc BHXH tỉnh thực hiện các chế độ BHXH trên địa bàn toàn tỉnh, bản thân phải tận tuỵ, hiểu rõ việc mình làm, trước khi bắt tay vào làm việc phải có kế hoạch cụ thể từng bước, xắp xếp theo thứ tự việc nào trước thì tiến hành làm trước, việc nào sau thì tiến hành làm sau. Khi tiến hành làm việc gì phải suy nghĩ cho kỹ cái lợi như thế nào, lợi cho ai; nếu thất bại thì hậu quả đến mức nào, ảnh hưởng trực tiếp đến ai để có cách giải quyết hợp lý nhất, tránh gây thiệt hại cho cá nhân hoặc tập thể. Mỗi ngày, lúc sang dậy tự hỏi mình ngày hôm nay phải làm gì? tối đi ngủ phải tự hỏi mình ngày hôm nay đã làm được gì? Phải cẩn thận khi làm việc, tuy nhiên cẩn thận không phải là nhút nhát, chậm chạp, do dự mà là nhanh nhẹn, chắc chắn và làm đúng quy định, đúng kế hoạch, tiến độ đặt ra. Đi làm việc phải đúng giờ, làm cho chóng vánh, chu đáo, việc hôm nay chớ để ngày mai và luôn tâm niệm rằng tiền lương mà ta hưởng là tiền của Chính phủ, mà tiền của Chính phủ chính là tiền do lao động của dân làm ra đóng góp vào. Đối với người làm công tác BHXH, tiền lương hàng tháng và các khoản chi phí phục vụ cho hoạt động của ngành được trích từ tiền sinh lời từ đầu tư bằng tiền thu BHXH, BHYT, BHTN tạm thời nhàn rỗi, nhưng suy cho cùng có nguồn gốc từ tiền BHXH, BHYT, BHTN do người lao động và nhân dân đóng góp. Cho nên ai lười biếng là lừa gạt dân. Do đó cần phải làm việc hăng say, nhiệt tình, hiệu quả và hết sức trách nhiệm với công việc.
  • Đối với nhân dân: phải kính trọng, lễ phép, lắng nghe ý kiến của dân, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của dân, hiểu sự khó khăn, khổ cực của dân và phải nắm được dân đang muốn gì ở Đảng, ở Nhà nước, ở chính sách BHXH, BHYT. Có những việc dân không muốn mà phải làm như di dời, tản cư, nộp thuế, tham gia BHXH, BHYT thì phải giải thích cho dân hiểu, dân tin, khi đã thông suốt rồi thì dân sẽ thực hiện. Muốn cho dân hiểu, dân tin, dân làm, thì cán bộ phải gương mẫu, phải cần, kiệm, liêm, chính, phải trung thực, trách nhiệm. Đối với cơ quan, đoàn thể: Mỗi cơ quan, đoàn thể đều vì dân vì nước, do vậy, khi vào đó làm việc thì phải bỏ tự do cá nhân, "chớ lên mặt làm quan cách mạng". Phải tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của cơ quan, đoàn thể, phải trung thành để bảo vệ quyền lợi, danh giá của cơ quan, đoàn thể và thực hiện nghiêm chế độ dân chủ tập trung, thiểu số phục tùng đa số, cá nhân phục tùng tập thể, cấp dưới chấp hành mệnh lệnh cấp trên. Không được báo cáo sai sự thật theo kiểu làm thành một việc thì phóng đại, thất bại thì giấu đi... Đối với Đảng: Phải tuyệt đối trung thành, phải thấm nhuần quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng cấp trên, Nghị quyết của Chi bộ và pháp luật của nhà nước, các quy định của ngành và địa phương, nội quy, quy chế của cơ quan. Khắc phục mọi khó khăn, cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng. Rèn luyện, học tập nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, năng lực quản lý, năng lực thực hiện, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác. Tích cực tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và Tổ chức Đảng, phục tùng kỷ luật Đảng, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng, với nhân dân; làm tốt công tác phát triển đảng viên, sinh hoạt đảng và đóng đảng phí đầy đủ, đúng kỳ.

2. Đối với tập thể đơn vị

Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn của Đảng và nhà nước, là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, bị thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc bị chết, góp phần giữ vững trật tự, an toàn xã hội và chính sách an sinh xã hội của Đảng và nhà nước. Với ý nghĩa mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc đó, ngành bảo hiểm xã hội nói chung, bảo hiểm xã hội tỉnh Gia Lai nói riêng đã khắc phục mọi khó khăn, đoàn kết, thống nhất, tích cực thực hiện các chế độ BHXH, BHYT đảm bảo kịp thời, đầy đủ, đúng quy định của pháp luật, đem lại niềm tin và đáp ứng được quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của người lao động tham gia BHXH, BHYT và người hưởng các chế độ BHXH, BHYT. Để thực hiện tốt nhiệm vụ có ý nghĩa lớn lao đó, trong những năm qua, Cấp uỷ Chi bộ, đảng viên, viên chức phòng Chế độ BHXH với tinh thần trách nhiệm cao đã lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng quy định các chế độ BHXH cho người lao động, góp phần thực hiện hiện thắng lợi nhiệm vụ của ngành và nhiệm vụ chính trị trên địa bàn tỉnh.

Tiếp tục thực hiện cuộc vận động "học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về trung thực, trách nhiệm, gắn bó với nhân dân; đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh'', Cấp uỷ chi bộ, cán bộ quản lý và toàn thể đảng viên, viên chức phòng chế độ BHXH xây dựng chương trình hành động, kế hoạch thực hiện tập trung vào một số vấn đề cơ bản sau:

  • Nâng cao bản lĩnh chính trị, tinh thần kỷ luật, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực thực hiện, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong đơn vị vững mạnh về mọi mặt. Thực hiện công tác BHXH, BHYT đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Chuyển mạnh và triệt để tác phong làm việc hành chính sang phục vụ người lao động tham gia BHXH, BHYT và người hưởng các chế độ BHXH, BHYT.
  • Tham mưu cho lãnh đạo BHXH tỉnh thực hiện xét duyệt các chế độ BHXH đảm bảo kịp thời, đầy đủ, đúng quy định. Lập danh sách chi trả và chuyển danh sách chi trả đúng thời gian quy định cho ngành Bưu điện tỉnh thực hiện chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng. Phối hợp với các phòng nghiệp vụ liên quan tổ chức kiểm tra tình hình xét duyệt các chế độ BHXH tại BHXH các huyện, thị xã, thành phố; tăng cường công tác hậu kiểm và công tác chi trả các chế độ BHXH cho người lao động tại các đơn vị sử dụng lao động, đảm bảo quyền lợi người lao động theo quy định của pháp luật, đồng thời tránh tình trạng lợi dụng, lạm dụng quỹ BHXH.
  • Phối hợp với các phòng nghiệp vụ thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền phổ biến chính sách, pháp luật nói chung, nhất là các chính sách liên quan đến người lao động trong các doanh nghiệp thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các ấn phẩm, tờ rơi, đối thoại trực tiếp...
  • Đẩy mạnh thực hiện cải cách thủ tục hành chính và giao dịch điện tử hồ sơ BHXH, BHYT. Tham mưu cho lãnh đạo thực hiện cắt giảm thủ tục, hồ sơ không cần thiết, phấn đấu rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính về BHXH, BHYT còn 49,5 giờ.
  • Xây dựng nội quy, quy chế hoạt động và phát động các phong trào thi đua hoàn thành tốt nhiệm vụ, kế hoạch được giao. Kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác trong cơ quan và trong nhân dân, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, viên chức của đơ vị.
  • Trong sinh hoạt phải cởi mở, gần gũi, thẳng thắn mà trung thực, chịu khó lắng nghe ý kiến đóng góp của mỗi cá nhân, nhằm phát huy trí tuệ tập thể, đồng thời chấn chỉnh những tư tưởng lệch lạc, sai trái, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật. Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của cán bộ, viên chức, khơi dây tính chủ động, sáng tạo của mọi người, góp ý phê bình trên tinh thần xây dựng và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
  • Đẩy mạnh các hoạt động phong trào thể dục, thể thao, văn hoá, văn nghệ, giao lưu kết nghĩa, giúp đỡ lẫn nhau trong đoàn viên của các đoàn thể và với các tổ chức đoàn thể ở cơ sở.
  • Kịp thời động viên, khuyến khích và đề nghị khen thưởng cán bộ, viên chức có thành tích xuất sắc trong công tác, học tập và trong hoạt động đoàn thể, thường xuyên nêu cao các tấm gương điển hình tiên tiến, tạo tâm lý lan truyền trong cán bộ, công chức, viên chức để mọi người học tập và tích cực tham gia xây dựng cơ quan đơn vị trong sạch, vững mạnh. Tích cực tham gia xây dựng Quỹ khuyến học để động viên, khích lệ tinh thần học tập của con cán bộ, công chức, viên chức trong toàn ngành.
  • Mỗi cán bộ, công chức, viên chức trong đơn vị phải thường xuyên nêu cao tinh thần trách nhiệm, vận động người thân và gia đình của mình chấp hành nghiêm chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, hương ước, quy ước của thôn, làng, tổ dân phố. Gia đình cán bộ, công chức, viên chức gương mẫu thực hiện kế hoạch hoá gia đình, nuôi con khoẻ, dạy con ngoan, tích cực hưởng ứng phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư, tham gia xây dựng tổ dân phố văn hoá, góp phần xây dựng khu dân cư văn minh, giàu đẹp.

III. MỘT SỐ NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CUỘC VẬN ĐỘNG HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VỀ "TRUNG THỰC, TRÁCH NHIỆM, GẮN BÓ VỚI NHÂN DÂN; ĐOÀN KẾT XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH"

1. Về trung thực, trách nhiệm, gắn bó với nhân dân

Thường xuyên giữ mối quan hệ chặt chẽ và tranh thủ sự quan tâm chỉ đạo của BHXH Việt Nam, Cấp ủy, Chính quyền địa phương; sự phối hợp của các Sở, Ban, Ngành liên quan từ tỉnh đến huyện. Xác định công tác BHXH có tính chất chính trị, kinh tế, xã hội tổng hợp nhằm phục vụ người lao động tham gia và người hưởng các chế độ BHXH.

Phải coi công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, chế độ BHXH là một trong những nhiệm vụ cơ bản, quan trọng hàng đầu trong công tác BHXH. Các chính sách, chế độ BHXH phải được tổ chức thực hiện đầy đủ, chính xác, kịp thời, đúng quy định. Tăng cường kiểm tra công tác giải quyết và chi trả các chế độ BHXH; quản lý chặt chẽ hồ sơ, theo dõi, quản lý dữ liệu người hưởng các chế độ BHXH.

Tập trung phát triển đối tượng tham gia BHXH, hướng đến mục tiêu mọi người lao động đều được tham gia BHXH theo Chương trình số 55-CTr/TU của Tỉnh ủy Gia Lai thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW của Bộ chính trị "về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012-............". Phấn đấu đến năm ............ có 15% lực lượng lao động tham gia BHXH.

Đảm bảo chi trả các chế độ BHXH cho các đối tượng thụ hưởng kịp thời, đầy đủ, chính xác. Tiếp tục ký hợp đồng dịch vụ chi trả và quản lý người hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng qua hệ thống Bưu Điện nhằm phục vụ người hưởng ngày càng tốt hơn.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT; đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, để mọi tầng lớp nhân dân nhận thức đầy đủ về quyền lợi khi tham gia BHXH, BHYT như tuyên truyền, phổ biến chính sách, chế độ BHXH, BHYT trên các phương tiện thông tin đại chúng, tờ rơi, pa-nô, áp-phích, nhất là tổ chức thực hiện đối thoại trực tiếp với đơn vị sử dụng lao động, người lao động và nhân dân.

Thẩm định, xét duyệt hồ sơ hưởng chế độ BHXH cho người lao động kịp thời, đúng quy trình, quy định. Tiếp tục rà soát đơn vị và người tham gia BHXH, hướng đến xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung đối tượng tham gia.

Tiếp công dân và giải quyết kịp thời đơn thư khiếu nại tố cáo của công dân theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo; hạn chế tình trạng khiếu kiện của công dân về giải quyết chế độ chính sách. Kiểm tra việc thực hiện luật BHXH tại các đơn vị theo kế hoạch kiểm tra hàng năm.

Đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng phần mềm công nghệ thông tin trong công tác tiếp nhận, giải quyết chế độ chính sách và các lĩnh vực công tác khác; Triển khai nhiều giải pháp để thực hiện chương trình cắt giảm số giờ giải quyết thủ tục hành chính về BHXH chỉ còn 49,5 giờ theo mục tiêu Chính phủ giao cho Ngành.

Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống; nâng cao trình độ nghiệp vụ, năng lực quản lý, năng lực thực hiện cho cán bộ, viên chức, nhất là đội ngũ cán bộ, viên chức quản lý; nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần phục vụ người lao động tham gia và người hưởng các chế độ BHXH.

Giữ vững sự đoàn kết, thống nhất trong tập thể cơ quan, đơn vị; thực hiện đầy đủ Quy chế dân chủ ở cơ sở; quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ, viên chức; thực hiện tốt công tác thi đua, khen thưởng và nêu gương, biểu dương các điển hình tiên tiến.

Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy, xây dựng quy hoạch cán bộ quản lý giai đoạn 2016 - ............. Thực hiện đầy đủ các chế độ đối với cán bộ, công chức, viên chức và lao động hợp đồng theo quy định. Đào tạo, đào tạo lại đội ngũ công chức, viên chức đáp ứng yêu cầu phát triển Ngành.

Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo tinh thần chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị, coi đây là nhiệm vụ quan trọng của ngành.

2. Về đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh

Xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng trên cơ sở quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng, Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng cấp trên.

Đoàn kết thống nhất trong Đảng dựa trên cơ sở tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ. Thường xuyên bồi dưỡng tình thân ái, tình đồng chí cho cán bộ, đảng viên. Thái độ chân thành, cởi mở, tôn trọng lẫn nhau, tính khiêm tốn, biết thông cảm, hết lòng giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ là những nét tiêu biểu của tình đoàn kết cộng sản. Việc thiết thực nhất để rèn luyện đạo đức cách mạng trong giai đoạn hiện nay là cấp ủy chi bộ và đảng viên, viên chức nghiêm túc thực hiện và thực hiện hiệu quả, chất lượng việc "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh".

Thường xuyên nghiêm túc tự phê bình và phê bình là một phương pháp rất căn bản để tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng nhằm giải quyết hài hòa những mâu thuẫn, tạo nên sự nhất trí cao trong Đảng. Xác định rõ mục đích của tự phê bình và phê bình là nhằm phát huy ưu điểm, tìm ra khuyết điểm để giúp nhau sửa chữa, nâng cao nhận thức, giải quyết những bất đồng nội bộ. Mặt khác, cần nghiêm khắc phê phán lợi dụng phê bình để đả kích lẫn nhau. Tự phê bình phải gắn với "tình đồng chí thương yêu lẫn nhau", nhưng càng yêu bao nhiêu lại càng phải "yêu cầu" bấy nhiêu.

Đổi mới và nâng cao chất lượng nội dung sinh hoạt chi bộ, tổ chức sinh hoạt chuyên đề mỗi quý một lần. Trong sinh hoạt chi bộ cần động viên, khuyến khích và tạo thuận lợi phát huy khả năng, trí tuệ, sáng tạo và tinh thần đóng góp ý kiến của mỗi đảng viên để giải quyết những vấn đề vướng mắc, bất cập, trên cơ sở đó xây dựng nghị quyết của chi bộ đảm bảo chất lượng, khả thi. Tích cực đào tạo, bồi dưỡng, giúp đỡ viên chức rèn luyện, phấn đấu trở thành quần chúng ưu tú để phát triển đảng viên. Đăng ký thi đua hàng năm làm cơ sở cho công tác đánh giá chất lượng đảng viên và xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh.

TÓM LẠI

Ngày nay đất nước ta đang đứng trước những thời cơ và những thách thức đan xen, việc xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh đủ sức lãnh đạo cách mạng giành thắng lợi mới là điều quan trọng. Muốn vậy phải tăng cường công tác giáo dục đạo đức trong Đảng về tính trung thực, tính trách nhiệm về sự gắn bó máu thịt với nhân dân, đoàn kết xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đẩy mạnh và thường xuyên thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng đảng", đặc biệt là đấu tranh chống suy thoái về chính tri, tư tưởng, đạo đức lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.

Việc xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh có vai trò quyết định đến việc bảo vệ chế độ Chính trị, con đường phát triển của đất nước lên Chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Để xây dựng Đảng vững mạnh, ngang tầm với đòi hỏi của dân tộc và thời đại, Đảng phải luôn tự chỉnh đốn mình, đoàn kết và có quan hệ máu thịt với nhân dân, phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, kiên quyết giải quyết dứt điểm hiện tượng gây mất đoàn kết trong nội bộ Đảng. Mỗi cán bộ đảng viên chúng ta - với tư cách là người lãnh đạo, thì người lãnh đạo ấy phải có trách nhiệm xây dựng Đảng, với tư cách là đảng viên, thì người đảng viên ấy phải gương mẫu tự mình rèn luyện phẩm chất, tư cách...

Trong giai đoạn cách mạng hiện nay chúng ta cần tiếp tục vận dụng và phát triển những quan điểm, tư tưởng về "trung thực, trách nhiệm, gắn bó với nhân dân; đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh" của Hồ Chí Minh để xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch vững mạnh, ngang tầm với nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng trong giai đoạn cách mạng mới. Đặc biệt là tổ chức thực hiện hiệu quả, chất lượng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần thứ XV và Nghị quyết Đại hội lần thứ VII Đảng bộ cơ sở BHXH tỉnh Gia Lai gắn với việc thực hiện chủ đề "Tăng cường kỷ cương, trách nhiệm, hiệu quả, thực hiện tốt chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế" và năm chuẩn mực đạo đức đối với cán bộ, công chức, viên chức, lao động hợp đồng của Ngành Bảo hiểm xã hội./.

9. Bài thu hoạch học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

Thấm nhuần tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Người luôn chăm lo giáo dục và rèn luyện cho cán bộ Đảng viên và mọi người dân về phẩm chất đạo đức cách mạng. Người là tấm gương sáng về đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính”. Người luôn luôn vận động mọi người dân chúng ta thi đua thực hành tiết kiệm để xây dựng tổ quốc!

Hồ Chủ tịch đã dạy chúng ta: “Tiết kiệm không phải là bủn xỉn, gặp việc đáng làm cũng không làm, đáng tiêu cũng không tiêu. Tiết kiệm không phải là ép bộ đội, cán bộ và nhân dân nhịn ăn, nhịn mặc. Trái lại, tiết kiệm cốt để giúp tăng gia sản xuất, mà tăng gia sản xuất mà để dần dần nâng cao mức sống của bồ đội, cán bộ và nhân dân. Nói theo lối khoa học, thì tiết kiệm là tích cực, chứ không phải là tiêu cực”

- Theo lời dạy của Bác Hồ, chúng ta phải hiểu rằng: Tiết kiệm không có nghĩa là không chi tiêu, nhịn ăn, nhịn mặc. Tiết kiệm là sử dụng các nguồn lực và chi tiêu một cách hợp lý, phù hợp với hoàn cảnh gia đình, không hoang phí.

Người dân Việt Nam đã có truyền thống tốt đẹp về cần cù, chịu thương, chịu khó và tiết kiệm.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cao 4 đức tính tốt đẹp “Cần, kiệm, liêm, chính” để thầy rằng “kiệm” đã trở thành 1 trong 4 đức tính tốt đẹp của con người, dù là khi đất nước còn khó khăn hay khi đất nước đã phồn thịnh. “Cần” và “Kiệm” phải đi đôi với nhau. Cần mà không kiệm thì làm chứng nào, xào chừng ấy. Kiệm mà không cần thì không tăng thên, không phát triển được.

Nền kinh tế nước ta qua 20 năm đổi mới đã có bước phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện. Tuy nhiên, cho đến nay, nước ta vẫn là một nước nghèo, đời sống một bộ phận người dân vẫn còn khó khăn, thiếu thốn. Để xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, đảm bảo đời sống người dân thì nền kinh tế của nước ta cần được phát triển. Muốn xây dựng và phát triển kinh tế, thì phải có tiền của để làm vốn. Muốn có vốn thì chúng ta phải vừa đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, vừa thực hành tiết kiệm để tăng thêm tích luỹ cho nền kinh tế quốc gia cũng như kinh tế gia đình. Vì vậy, việc thực hành tiết kiệm có một ý nghĩa to lớn nhằm góp phần tích luỹ để thúc đẩy và phát triển sản xuất.

Ông cha ta có câu: “Miệng ăn núi lở”, ý nói: Nếu một người có một núi của cải mà chỉ biết sử dụng, không lo làm ăn, không biết tiết kiệm đề bù đắp, tăng thêm thì dần dần cũng dẫn đến đói nghèo.

Đặc biệt, hiện nay tiết kiệm đã trở thành chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Luật chống tham nhũng và Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí đã được ban hành cho thấy vai trò to lớn của vấn đề TK, tiết kiệm được coi là quốc sách.

Chúng ta có thể thực hành tiết kiệm ở tất cả các lĩnh vực của cuộc sống hàng ngày, từ sản xuất đến tiêu dùng, từ gia đình đến cộng đồng, xã hội. Bất kể lĩnh vực nào cũng có thể thực hành tiết kiệm được.

Bản thân học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác như thế nào?

Để thực hành tiết kiệm theo tấm gương của Hồ Chí Minh và chủ trương của Đảng, Nhà nước, chúng ta phải:

  • Tự rà soát trong sản xuất, tiêu dùng của gia đình, cộng đồng, nơi mình sinh sống có những việc gì cần chưa tiết kiệm, lãng phí, để thay đổi, cải tiến sao cho tiết kiệm, hiệu quả.
  • Tiết kiệm sức lao động: Tổ chức sắp xếp công việc cho khéo để có những việc trước kia phải dùng nhiều người nay chỉ ít người hơn nhưng vẫn đảm bảo thời gian, chất lượng, hiệu quả; phân công lao động phù hợp cho các thành viên trong gia đình.
  • Tiết kiệm thời gian: Xây dựng tác phong làm việc đúng giờ cho bản thân và các thành viên trong gia đình, trong cộng đồng; không lãng phí thời gian lao động vào những việc không có ích; trong sinh hoạt hội, sinh hoạt cộng đồng không để người này chờ người kia gây lãng phí thời gian của nhau…
  • Tiết kiệm tiền, của: Có kế hoạch, tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng trước khi đầu tư cho sản xuất, trước khi mua sắm, tiêu dùng: thực hành tiết kiệm trước khi đâu tư, trước khi tiêu dùng.
  • Tiết kiệm năng lực: như điện, nước, xăng, dầu, củi… Tạo thói quen “Ra tắt vào bật” các thiết bị điện. Hạn chế sử dụng các thiết bị điện có công suất lớn vào giờ cao điểm (từ 18 giờ đến 22 giờ hàng ngày).
  • Tiết kiệm việc ma chay, cưới xin: Thực hiện tổ chức ma chay hoặc cưới xin theo nếp sống mới. Hình thức tổ chức đám cưới có thể tiết kiệm được tiền mà ở địa phương đang thực hiện, là tổ chức cưới tập thể, tổ chức tiệc ngọt, hoặc chỉ tổ chức ăn uống liên hoan trong họ hàng nội ngoại thân tộc. Trong cưới xin, ma chay chúng ta cần tránh những thủ tục lạc hậu, tránh đua đòi dẫn đến tiêu tiền một cách lãng phí, mang nợ nần, thiệt hại kinh tế gia đình và gây tốn kém cho người khác. Chúng ta phải ủng hộ và nghiêm chỉnh thực hiện chủ trương của cấp uỷ, chính quyền địa phương về thực hiện nếp sống văn minh trong việc tổ chức ma chay, cưới xin.

Liên hệ việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác trong giai đoạn hiện nay

Thấm nhuần đạo đức tư tưởng Hồ Chí Minh bản thân tôi đang sống và làm việc tại xí nghiệp may 3 Công ty 20. Tôi luôn luôn tự nhủ mình phải sống và rèn luyện cho bản thân mình theo tấm gương sáng của Hồ Chí Minh. Luôn xây dựng tinh thần đoàn kết nội bộ thi đua thực hành tiết kiệm, không xa hoa lãng phí, biết tiết kiệm vật chất cũng như thời gian làm việc, lao động sản xuất có hiệu quả có chất lượng cao đem lại nhiều lợi ích cho xí nghiệp. Không đi muộn về sớm, không né tránh “dễ làm, khó bỏ” hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được tổ chức giao phó. Luôn luôn học hỏi sáng tạo trong công việc để tiết kiệm được nhiều của cải vật chất cho xí nghiệp. Sẵn sàng giúp đỡ những đồng sự yếu kém cùng tiến bộ. Vận động mọi người thi đua thực hiện tốt mọi nội quy, quy chế của xí nghiệp và công ty đề ra. Lao động có kỹ thuật, kỷ luật và đạt năng suất cao.

Hoàn thành vượt mức kế hoạch được giao. Xây dựng Công ty may 3 trở thành xí nghiệp vững mạnh toàn diện, xứng đáng lá cờ đầu của công ty 20 đã và đang phát triển hùng mạnh trong thời kỳ đổi mới.

10. Bài thu hoạch chuyên đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh 

I. SỰ CẦN THIẾT HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

1. Đạo đức và vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội

Đạo đức, hiểu theo nghĩa chung nhất, là một hình thái của ý thức xã hội, bao gồm những nguyên tắc, chuẩn mực và thang bậc giá trị được xã hội thừa nhận.

Đạo đức có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của mỗi người, phù hợp với lợi ích của toàn xã hội.

Đối với mỗi cá nhân, ý thức và hành vi đạo đức mang tính bổn phận, diễn ra một cách tự giác, chủ yếu xuất phát từ nhu cầu tinh thần bên trong. Đạo đức của mỗi cá nhân chịu sự tác động của dư luận xã hội, sự kiểm tra của những người khác trong xã hội, cũng như sự "tự kiểm tra" bởi chính mình.

Đạo đức có chức năng giáo dục, chức năng điều chỉnh và chức năng phản ánh.

Với chức năng giáo dục, chuẩn mực đạo đức được tập thể và cộng đồng chấp nhận tác động vào ý thức và hành vi đạo đức của mỗi cá nhân, để mỗi cá nhân tự giáo dục rèn luyện, hoàn thiện nhân cách của mình theo chuẩn mực chung của xã hội. Mặt khác, khi nhận xét, đánh giá hành vi đạo đức của người khác, người nhận xét cũng tự điều chỉnh mình và qua đó làm cho chuẩn mực đạo đức chung trong xã hội ngày càng hoàn chỉnh.

Với chức năng điều chỉnh, chuẩn mực đạo đức điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân và mối quan hệ giữa người với người trong xã hội. Trong xã hội, quan niệm và hành vi đạo đức của người này có tác động đến quan niệm và hành vi đạo đức của người khác và ngược lại. Những chuẩn mực đạo đức được cộng đồng và toàn xã hội thừa nhận là công cụ quan trọng để điều khiển hoạt động chung của cả cộng đồng đồng thời với pháp luật và những quy định khác.

Với chức năng phản ánh, đạo đức phản ánh thực trạng xã hội, do tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Những mâu thuẫn đang tồn tại trong xã hội được thể hiện trong đạo đức xã hội. Một xã hội bị tha hoá về đạo đức thể hiện những mâu thuẫn đang tồn tại trong xã hội chưa được giải quyết.

2. Về sự suy thoái đạo đức, lối sống trong xã hội hiện nay

Qua 20 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Việc thực hiện dân chủ trong Đảng và trong xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân có nhiều tiến bộ... Đa số cán bộ, đảng viên phát huy được vai trò tiên phong, gương mẫu, năng động, sáng tạo trong công tác, rèn luyện phẩm chất, năng lực, đóng vai trò nòng cốt trong công cuộc đổi mới.

Tuy nhiên, trong Đảng và trong xã hội ta hiện nay đã xuất hiện tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống. Nghị quyết Đại hội X đã nhận định: "Thoái hoá, biến chất về chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng, kéo dài chưa được ngăn chặn, đẩy lùi..., làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Đó là nguy cơ lớn liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ''.

Sự suy thoái về đạo đức, lối sống biểu hiện ở các dạng chủ yếu sau đây:

Một là, chủ nghĩa cá nhân, lối sống vị kỷ, vụ lợi, buông thả, hưởng thụ, thiếu lý tưởng thiếu ý chí phấn đấu xuất hiện trong tất cả các tầng lớp xã hội.

Hai là, tệ tham nhũng, hối lộ, bòn rút của công, lãng phí diễn ra ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, đang "trở thành quốc nạn", gây bức xúc trong nhân dân.

Ba là, hành động cơ hội, ''chạy chọt'' vì lợi ích cá nhân khá phổ biến.

Bốn là, lời nói không đi đôi với việc làm, nói và làm trái với nghị quyết của Đảng; nói nhiều, làm ít; phát ngôn tuỳ tiện, vô nguyên tắc.

Năm là, tệ quan liêu, xa dân, lãnh đạm, vô cảm trước những khó khăn, bức xúc và yêu cầu, đòi hỏi chính đáng của nhân dân.

Sáu là, tình trạng suy thoái về đạo đức trong quan hệ gia đình và quan hệ giữa cá nhân với xã hội, như: gia trưởng, vũ phu, bất hiếu...

Bảy là, đạo đức nghề nghiệp sa sút, ngay cả trong những lĩnh vực được xã hội tôn vinh. Hiện tượng mê tín, dị đoan có chiều hướng lan rộng, ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục và trật tự, an toàn xã hội.

Nguyên nhân của tình trạng trên có cả khách quan và chủ quan.

Về khách quan, trước hết do tác động tiêu cực của cơ chế kinh tế thị trường, đặc biệt là khả năng kích thích lối sống thực dụng của cơ chế này. Sự tác động của đạo đức lối sống tư sản, hưởng thụ phương Tây vào nước ta trong điều kiện toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và bùng nổ mạng thông tin toàn cầu. Các thế lực thù địch, phản động đã chủ động khuyến khích lối sống ích kỷ, hưởng thụ, thực dụng trong cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo và gia đình họ, coi đó là một trong những biện pháp thực hiện "diễn biến hoà bình".

Về nguyên nhân chủ quan, do chúng ta chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc vai trò nền tảng của đạo đức trong ổn định, phát triển xã hội và tác động của cơ chế kinh tế thị trường đến đạo đức xã hội. Trên thực tế, chúng ta chưa coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống; thiếu sự tổ chức, phối hợp các ngành, các cấp. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, đảng viên và gia đình chưa nêu gương về đạo đức, lối sống.

Tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống nêu trên đã có tác động lớn đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Nó đang làm thay đổi, lệch lạc những chuẩn mực, thang bậc giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc và cách mạng, có tác hại đến sự trường tồn của dân tộc và sự phát triển của đất nước. Sự suy thoái về đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên làm cho nhân dân lo lắng, bất bình, ảnh hưởng xấu đến uy tín và vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng, đến việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thực trạng đó tiềm ẩn nhiều nguy cơ, cùng với các nguy cơ khác dẫn đến mất ổn định chính trị xã hội, liên quan đến "sự sống còn của Đảng, của chế độ".

Để nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội, Hội nghị Trung ương 3 khoá X của Đảng đã ban hành Nghị quyết "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí". Ngày 7-11-2006, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 05-CT/TW về tổ chức Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" trong toàn Đảng và toàn xã hội. Thực hiện tốt Cuộc vận động này sẽ góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi suy thoái về đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội.

II. HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH

1. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và tinh hoa văn hoá của nhân loại; là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và nhân dân ta

Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, ông cha ta luôn coi trọng đạo đức, hình thành nên các chuẩn mực giá trị đạo đức tốt đẹp trong quan hệ gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với yêu cầu tồn tại, phát triển của dân tộc. Đó là truyền thống yêu quê hương đất nước; gắn bó với thiên nhiên, với cộng đồng; đoàn kết, thuỷ chung nhân ái, quý trọng nghĩa tình; yêu lao dộng; dũng cảm, kiên cường, hiếu học, sáng tạo...

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, được Người kế thừa và phát triển, kết hợp với những tinh hoa văn hoá, đạo đức của nhân loại, cả phương Đông và phương Tây, mà Người đã tiếp thu được trong quá trình hoạt động cách mạng đầy gian lao, thử thách và vô cùng phong phú của mình. Tư tưởng đạo đức đó kết hợp với đạo đức tiên tiến nhất của thời đại là đạo đức cộng sản trong Hồ Chí Minh, từ đó Người đã xây dựng nên những giá trị đạo đức mới, đó là đạo đức cách mạng.

Trong quá trình đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc, xây dựng và bảo vệ đất nước, đạo đức mới - đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng và động lực tinh thần, là nguồn sức mạnh to lớn để Đảng và nhân dân ta vượt qua mọi thử thách, hy sinh, giành độc lập, tự do, thống nhất cho Tổ quốc, xây dựng đất nước theo mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Công cuộc đổi mới đất nước hiện nay đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao trong việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc, giải phóng mọi tiềm năng cho sự phát triển. Phát huy mạnh mẽ những chuẩn mực đạo đức mới, sự năng động, sáng tạo, ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, quyết tâm không chịu mãi đói nghèo, đưa đất nước tiến lên cùng nhân loại và thời đại, là động lực tinh thần to lớn để đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới.

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một trong những biện pháp để phát huy những mặt tích cực, khắc phục những tiêu cực về đạo đức, lối sống. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là niềm vinh dự và tự hào đối với mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi người Việt Nam chúng ta. Để xứng đáng là cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, tổ chức và rèn luyện, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người phải trở thành nhiệm vụ hằng ngày của mỗi đảng viên và những người đang phấn đấu vào Đảng.

2. Những nội dung chủ yếu của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh

a) Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí của đạo đức trong đời sống xã hội và của mỗi người

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định đạo đức là gốc của người cách mạng, muốn làm cách mạng phải lấy đạo đức làm gốc. Người viết: "Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang''.

Hồ Chí Minh coi đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông, suối, Người viết: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân".

Hồ Chí Minh quan niệm, đạo đức cách mạng là chỗ dựa giúp cho con người vững vàng trong mọi thử thách, Người viết: "Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước... khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ", lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hoá".

Đối với Đảng, đội tiên phong của giai cấp công nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu phải xây dựng Đảng ta thật trong sạch, Đảng phải "là đạo đức, là văn minh". Trong bản Di chúc bất hủ, Người viết: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân".

b) Quan điểm Hồ Chí Minh về những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam

Về những phẩm chất đạo đức của người Việt Nam, quan điểm đạo đức Hồ Chí Minh đã bao quát những mối quan hệ cơ bản của con người trong xã hội, bao gồm:

Một là, với đất nước, dân tộc phải "Trung với nước, hiếu với dân".

Trung, hiếu là phẩm chất đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam và phương Đông, được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển trong điều kiện mới. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trung với nước, hiếu với dân là điều chủ chốt của đạo đức cách mạng. Trung với nước là trung thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, đấu tranh giành độc lập dân tộc và làm cho đất nước "sánh vai với cường quốc năm châu". Nước là của dân, dân là chủ đất nước, cho nên "trung với nước" là trung với dân, trung thành với lợi ích của nhân dân, "bao nhiêu quyền hạn đều của dân"; "bao nhiêu lợi ích đều vì dân".

Hiếu với dân là Đảng, Chính phủ, cán bộ nhà nước phải là "đầy tớ trung thành của dân"; phải "tận trung với nước, tận hiếu với dân".

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trung với nước, hiếu với dân phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ trách nhiệm và quyền lợi của người làm chủ đất nước.

Hai là, với mọi người phải ''Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình".

Yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân loại, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Yêu thương con người thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân trong quan hệ xã hội, là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.

Yêu thương con người là phải quan tâm đến những người lao động bình thường, chiếm số đông trong xã hội. Yêu thương con người phải làm mọi việc để vì con người, vì mục tiêu "ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành"; dám hy sinh, dám dấn thân để đấu tranh giải phóng con người.

Yêu thương con người phải tin vào con người. Với mình thì chặt chẽ, nghiêm khắc; với người thì độ lượng, rộng rãi, nâng con người lên, kể cả với người lầm đường, lạc lối, mắc sai lầm, khuyết điểm.

Yêu thương con người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, sống cao đẹp hơn. Yêu thương con người phải thực hiện tự phê bình, phê bình chân thành, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm.

Ba là, với mình phải thực sự "Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư"

Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh là mối quan hệ "với tự mình".

Hồ Chí Minh quan niệm cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cần có của con người, mang một lẽ tự nhiên, như trời có bốn mùa, đất có bốn phương và Người giải thích cặn kẽ, cụ thể nội dung từng khái niệm.

- Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ "lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mỗi chúng ta".

- Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân, của nước, của bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ; "không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không phô trương, hình thức...".

- Liêm là "luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân", "không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân"; "không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung sướng, không tham tâng bốc mình...".

- Chính là không tà, là thẳng thắn, đúng đắn. Đối với mình không tự cao, tự đại; đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết. Đối với việc thì để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Được giao nhiệm vụ gì quyết làm cho kỳ được, "việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm; việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh".

- Chí công vô tư là đem lòng chí công vô tư đối với người, với việc. "Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau", "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ".

Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí công vô tư. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư. Ngược lại, đã chí công vô tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính.

Bốn là, mở rộng quan hệ yêu thương con người đối với toàn nhân loại, người cách mạng phải có ''Tinh thần quốc tế trong sáng''.

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về tình đoàn kết quốc tế trong sáng là sự mở rộng quan hệ đạo đức giữa người với người và với toàn nhân loại vì Người không chỉ là "người Việt Nam nhất" như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định, mà còn là "nhà văn hoá lớn của thế giới", "chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế".

Đoàn kết quốc tế trong sáng theo Hồ Chí Minh trước hết là đoàn kết với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu chung: đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột. Đó là tình đoàn kết quốc tế giữa những người vô sản toàn thế giới vì một mục tiêu chung, "bốn phương vô sản đều là anh em"; là đoàn kết với các dân tộc vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội.

Đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước chân chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng.

c) Quan niệm Hồ Chí Minh về những nguyên tắc xây dựng và thực hành đạo đức

Hồ Chí Minh nêu lên những nguyên tắc xây dựng và thực hành nền đạo đức mới trong xã hội, thể hiện ở ba điểm sau:

Một là, nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.

Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm.

Nói đi đôi với làm trước hết là sự nêu gương tốt. Sự nêu gương của thế hệ đi trước với thế hệ đi sau, lãnh đạo với nhân viên, đảng viên phải nêu gương trước quần chúng. Người nói: "Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ "cộng sản" mà ta được họ yêu mến.

Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước".

Hai là, xây đi đôi với chống.

Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết phải chống những biểu hiện đạo đức sai trái, xấu xa, không phù hợp với những chuẩn mực của đạo đức mới. Xây đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây.

Xây dựng đạo đức mới trước hết phải tác động vào nhận thức, đẩy mạnh việc giáo dục, từ trong gia đình đến nhà trường, tập thể và toàn xã hội. Những phẩm chất đạo đức chung phải được cụ thể hoá, sát hợp với từng tầng lớp, đối tượng. Trong các bài viết của mình, Hồ Chí Minh đã nêu rất cụ thể các phẩm chất đạo đức cơ bản đối với từng giai cấp, tầng lớp, lứa tuổi và nhóm xã hội.

Trong giáo dục, vấn đề quan trọng là phải khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh trong mỗi người, để mỗi người nhận thức được và tự giác thực hiện. Trong đấu tranh chống lại cái tiêu cực, lạc hậu phải phát hiện sớm, phải chú ý phòng ngừa, ngăn chặn.

Để xây và chống cần phát huy vai trò của dư luận xã hội, tạo ra phong trào quần chúng rộng rãi, biểu dương cái tốt, phê phán cái xấu. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm để biểu dương người tốt việc tốt. Người đã phát động cuộc thi đua "3 xây, 3 chống", viết sách "người tốt việc tốt" để tuyên truyền, giáo dục về đạo đức, lối sống.

Ba là phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.

Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn luyện bền bỉ mới thành. Người viết: "Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong". Người dạy: một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi; nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân".

Trong rèn luyện đạo đức, Hồ Chí Minh coi tự rèn luyện có vai trò rất quan trọng. Người khẳng định, đã là người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai cũng có thiện, có ác ở trong mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào con người mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc, thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác để khắc phục. Tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong mọi mối quan hệ của mình, trong đời tư cũng như trong sinh hoạt cộng đồng.

3. Noi theo tấm gương đạo đức trong sáng, mẫu mực của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương đạo đức của một vĩ nhân, một lãnh tụ cách mạng vĩ đại, một người cộng sản vĩ đại, nhưng đồng thời cũng là tấm gương đạo đức của một người Việt Nam chân chính, bình thường, gần gũi, ai cũng có thể học theo, làm theo, để trở thành một người cách mạng, người công dân tốt hơn trong xã hội. Điều ấy thể hiện trong các điểm sau:

Một là, đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương trọn đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

Ngay từ thuở thiếu thời, Hồ Chí Minh đã lựa chọn một cách rõ ràng mục tiêu phấn đấu là vì nước, vì dân. Trong cả cuộc đời hoạt động cách mạng lâu dài và gian khổ, Người đã chấp nhận mọi sự hy sinh, không quản gian nguy, kiên định, dũng cảm và sáng suốt để vượt mục tiêu đó.

Hai là đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương của ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, vượt qua mọi thử thách, khó khăn để đạt mục đích.

Cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh là một chuỗi năm tháng đấu tranh vô cùng gian khổ. Vượt qua bao khó khăn, Người kiên trì mục đích của cuộc sống, bảo vệ chân lý, giữ vững quan điểm, khí phách, bình tĩnh, chủ động vượt qua mọi thử thách. Người tự răn mình: "Muốn nên sự nghiệp lớn, tinh thần càng phải cao".

Ba là, đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương tuyệt đối tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân
Hồ Chí Minh luôn luôn tin ở con người, tin tưởng vào trí tuệ và sức mạnh của nhân dân; dựa vào dân, lấy dân làm gốc, nguyện làm "người đầy tớ thật trung thành của nhân dân", "người lính vâng lệnh quốc dân, đồng bào ra mặt trận".

Bốn là, đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương của lòng nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu, hết mực vì con người.

Hồ Chí Minh có tình thương yêu bao la với tất cả mọi kiếp người, chia sẻ với mỗi người những nỗi đau. Người nói "Mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi"

Năm là đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường.

Hồ Chí Minh sống thật sự cần, kiệm, giản dị, coi khinh sự xa hoa, không ưa chuộng những nghi thức trang trọng. Suốt đời Người sống trong sạch, vì dân, vì nước, vì con người, không gợn chút riêng tư. Người đã đề ra tư cách người cách mạng cho cán bộ, đảng viên phấn đấu và tự mình gương mẫu thực hiện.

Bấy nhiêu đức tính cao cả chung đúc lại trong một con người làm cho tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trở nên siêu việt, vô song "khó ai có thể vượt hơn". Nhưng cũng chính từ sự kết hợp của những đức tính đó, Người là tấm gương cụ thể, gần gũi mà mọi người đều có thể noi theo.

4. Nội dung học tập và làm theo tấn gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, mỗi cán bộ, đảng viên cần làm tốt các mặt sau đây:

Một là, thực hiện "trung với nước, hiếu với dân", mỗi cán bộ, đảng viên phải trung thành vô hạn với mục tiêu lý tưởng của Đảng, của dân tộc, tham gia tích cực vào việc đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Suốt đời hy sinh phấn đấu vì nước, vì dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có một mong muốn, mong muốn tột bậc là đất nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hưởng tự do, "đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành". Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh chúng ta cần:

- Trung thành vô hạn với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nền văn hoá, bảo vệ Đảng, chế độ và sự nghiệp đổi mới, bảo vệ lợi ích của đất nước, dân tộc.

- Luôn luôn quan tâm đến lợi ích của nhân dân, tôn trọng dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, giải quyết kịp thời những yêu cầu, kiến nghị của dân, biết tập hợp nhân dân, phát huy sức mạnh của dân, tổ chức, động viên cho nhân dân phấn đấu thoát khỏi đói nghèo, "làm giàu cho mình, cho đất nước".

- Có ý chí vươn lên, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng nước kém phát triển, phấn đấu đến năm ............ nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

- Có ý thức giữ gìn đoàn kết dân tộc, đoàn kết trong Đảng, trong nhân dân; kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng trước mọi mưu đồ chia rẽ dân tộc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, chia rẽ Đảng với nhân dân của các thế lực thù địch, cơ hội.

- Có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc, có lương tâm nghề nghiệp trong sáng; ham học hỏi, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

- Giải quyết đúng đắn mối quan hệ cá nhân - gia đình - tập thể - xã hội; quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi theo lời dạy của Bác: "Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh".

Hai là, thực hiện đúng lời dạy: ''Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư", nêu cao phẩm giá con người Việt Nam trong thời kỳ mới.

- Tích cực lao động, học tập, công tác với tinh thần lao động sáng tạo có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao; sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn của Nhà nước, của tập thể, của chính mình một cách có hiệu quả.

- Quý trọng công sức lao động và tài sản của tập thể, của nhân dân; không xa hoa, lãng phí, không phô trương, hình thức.

- Kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, không để cho lợi ích cá nhân chi phối. Chống thói chạy theo danh vọng, địa vị, giành giật lợi ích các mình, lạm dụng quyền hạn, chức vụ để chiếm đoạt của công; cục bộ địa phương, thu vén cho gia đình, cá nhân.

- Thẳng thắn, trung thực, bảo vệ chân lý, bảo vệ đường lối quan điểm của Đảng, bảo vệ người tốt; chân thành, khiêm tốn; không chạy theo chủ nghĩa thành tích, bao che, giấu giếm khuyết điểm...

- Kiên quyết chống bệnh lười biếng, chạy theo lối sống hưởng thụ, vị kỷ, nói không đi đôi với làm, nói nhiều, làm ít, làm dối, làm ẩu. Có thái độ rõ ràng, lên án và quyết đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, loại trừ mọi biểu hiện vô liêm, bất chính ra khỏi đời sống xã hội.

Ba là nâng cao ý thức dân chủ và kỷ luật, gắn bó với nhân dân, vì nhân dân phục vụ

- Mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, phải tôn trọng nguyên tắc, pháp luật, kỷ cương.

- Gần dân, học dân, có trách nhiệm với dân, khắc phục cho được thói vô cảm, lãnh đạm, thờ ơ trước khó khăn, thắc mắc, những đau khổ của nhân dân.

- Coi trọng tự phê bình và phê bình, "phải nghiêm khắc với chính mình". Phê bình có mục đích trong sáng, có lý, có tình. Khắc phục bệnh chuộng hình thức, thích nghe lời khen (thậm chí xu nịnh), tâng bốc nhau, không dám nói thẳng, nói thật... để giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, đồng thời, cần phê phán những biểu hiện xuất phát từ những động cơ cá nhân, vụ lợi mà "đấu đá"; nhân danh phê bình để đả kích, lôi kéo, chia rẽ, làm rối nội bộ.

Bốn là học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần phát huy chủ nghĩa yêu nước gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.

Thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá với tinh thần Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.

- Tôn trọng độc lập, chủ quyền của các nước khác, mở rộng hợp tác cùng có lợi, cùng nhau phấn đấu vì hoà bình, phát triển, hợp tác, chống chiến tranh, đói nghèo, bất công, cường quyền, áp đặt trong quan hệ quốc tế. Với những vấn đề của quá khứ, lịch sử cần xoá bỏ mặc cảm, hận thù, nhìn về tương lai, xây dựng tình hữu nghị giữa các dân tộc.

- Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nguồn lực bên trong với nguồn lực bên ngoài để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phấn đấu đến năm ............ nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

- Nâng cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, tự hào, tự tôn dân tộc; đấu tranh chống biểu hiện của dân tộc hẹp hòi, tự ti; đồng thời phê phán tư chủ nghĩa tư tưởng ngoại lai, vong bản, vọng ngoại, ảo tưởng trước chủ nghĩa tư bản.

11. Bài báo cáo thực hiện việc học và làm theo Bác về đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh 2024

HUYỆN ỦY..............................

CHI BỘ.................................

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

.................., ngày... tháng... năm.....

BÁO CÁO TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CHUYÊN ĐỀ

“Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” năm 2023

Kính thưa! Đồng chí .........................., Bí thư Chi bộ - Chủ trì buổi sinh hoạt.

Kính thưa! Các đồng chí đảng viên tham dự buổi sinh hoạt học tập chuyên đề ngày hôm nay.

Thực hiện phân công triển khai chuyên đề “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” tháng ....... năm 2023 của Chi bộ trường THPT ........................... Sau đây tôi xin được báo cáo chuyên đề “Bài học lịch sử của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh” với những nội dung, cụ thể như sau:

Kính thưa các đồng chí!

Đại đoàn kết toàn dân tộc được xem là một trong những bài học hàng đầu bởi đó vừa là mục tiêu, nhiệm vụ vừa là phương thức và là động lực chủ yếu làm nên chiến thắng của dân tộc Việt Nam. Bài học đại đoàn kết toàn dân tộc có nhiều nội dung, chiều cạnh phong phú, đa dạng. Nhưng cốt lõi và chiều sâu của bài học lịch sử này là sự kiên định, sáng tạo trong thực hiện độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, bởi đây chính là nhu cầu, mục tiêu, nhiệm vụ bao trùm, xuyên suốt, nhất quán có tính sống còn của dân tộc Việt Nam. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, cần kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, trong đó sức mạnh dân tộc - sức mạnh nội lực vẫn phải là chủ yếu.

Kính thưa các đồng chí!

Lịch sử dân tộc Việt Nam đã trải qua biết bao thăng trầm kể từ sau khi các vua Hùng dựng nước: Hơn 1000 năm Bắc thuộc, phong kiến phương Bắc cũng không thể đồng hóa được dân tộc Việt Nam, không thể sáp nhật nước ta thành một quận, huyện của họ. bởi vì ở đó, mỗi làng quê Việt Nam vẫn giữ được văn hóa truyền thống của dân tộc là tiếng nói, là phong tục, tập quán, tín ngưỡng,..ở đó luôn có những anh hùng dân tộc sẵn sàng đứng lên để chống ngoại xâm, để rồi khi dân tộc Việt Nam giành được độc lập tự chủ, tinh thần ấy lại được tiếp tục phát huy để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, vì vậy, có ý kiến cho rằng: “dân tộc Việt Nam tuy mất nước nhưng không mất làng” là hoàn toàn đúng đắn. Bước vào thời kỳ độc lập tự chủ, các triều đại phong kiến phương Bắc đã rất nhiều lần đưa quân sang xâm lược nước ta, nhưng chúng đều thất bại. Có nhiều yếu tố thắng lợi của ta như tài lãnh đạo của vua, quan, tướng lĩnh, nhưng quan trọng đó là tinh thần đại đoàn kết của dân tộc được thể hiện bởi tinh thần “Hào khí Đông A” thời nhà Trần, đó là Hội thề Lũng Nhai thời nhà Lê với lời thề “Chung sức đồng lòng chống giặc, giữ địa phương để xóm làng được an cư, sống chết cùng nhau, không quên lời thề son sắt”. Tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, không những tạo nên sức mạnh đấu tranh bảo vệ biên cương lãnh thổ mà còn giúp nước ta mở cõi về phía Nam.

Kính thưa các đồng chí!

Ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930. Đảng ta đã lãnh đạo cao trào cách mạng 1930-1931 và dành được nhiều thắng lợi. Tuy nhiên, bài học được rút ra là cần phải thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất để đoàn kết, tập hợp đông đảo quần chúng đấu tranh.

Trong phong trào dân chủ 1936 -1939 Đảng ta đã kịp thời thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương và đặc biệt mặt trận Việt Minh được thành lập năm 1941. Mặt trận Việt Minh là biểu tượng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong những năm kháng chiến chống Pháp. Mặt trận Việt Minh đã đánh thức tinh thần dân tộc, tập hợp và đoàn kết rộng rãi các giai cấp, các dân tộc, tôn giáo, các giới vào thực hiện nhiệm vụ giải phóng quốc gia, dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Việt Minh đã góp phần to lớn vào thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Việc thành lập Mặt trận Việt Minh là một bài học sáng tạo của Trung ương Đảng và Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Mặt trận Việt Minh đã đoàn kết toàn dân tộc trong một mặt trận đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhờ có Mặt trận Việt Minh, sau này là Mặt trận Liên Việt, Nhân dân ta đã kháng chiến thắng lợi, làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc được giải phóng hoàn toàn, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu phương vững chắc cho tiền tuyến lớn miền Nam ruột thịt.

Kính thưa các đồng chí!

Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, có quan điểm cho rằng đế quốc Mỹ đã dùng sức mạnh vật chất, vũ khí bạo lực, đôla để hòng khuất phục dân tộc Việt Nam. Thực ra, họ đã dùng tất cả mọi thứ chứ không chỉ dùng sức mạnh vật chất, bạo lực. Trước khó khăn và thử thách mới, bài học thứ hai về đại đoàn kết đó là: Đảng Lao động Việt Nam vẫn kiên định kịp thời tập hợp quần chúng rộng rãi bằng các hình thức mặt trận dân tộc thống nhất phù hợp với tình hình cụ thể. Đó là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được thành lập; và sau đó, Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam được thành lập. Tuy mục tiêu, cương lĩnh, thành phần, cơ cấu tổ chức có nhiều điểm khác nhau nhưng hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, dân sinh là mẫu số chung để quy tụ, tập hợp, đoàn kết toàn dân thành một khối thống nhất theo tinh thần “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định tại Đại hội hợp nhất Việt Minh - Liên Việt năm 1951. Đoàn kết còn là đường lối cách mạng của cả nước được Đảng ta xác định tại Đại hội lần thứ III năm 1960 là: “tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh...”

Kính thưa các đồng chí!

Trong khó khăn, trước kẻ thù mạnh hơn ta về nhiều phương diện, nhưng chính bằng tình yêu Tổ quốc, lòng yêu nước đã gắn kết toàn thể dân tộc Việt Nam thành một khối, tạo thành sức mạnh có thể đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược. Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc từ hơn 20 năm trường kỳ kháng chiến được dồn lại cho thời khắc lịch sử vinh quang. Dân tộc ta đã giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc và cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó cũng là minh chứng rõ ràng nhất cho sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết dân tộc thời đại Hồ Chí Minh.

Trong quá trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và đổi mới, phát triển và hội nhập quốc tế chúng ta luôn phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thì đại đoàn kết toàn dân tộc vẫn là động lực to lớn, chủ yếu và luôn là bài học có tính thời sự với cách mạng Việt Nam, trong cuộc chiến chống dịch bệnh COVID-19, với việc toàn Đảng, toàn dân, toàn quân “chống dịch như chống giặc” chúng ta lại thấy sức sống mạnh mẽ của tinh thần khí thế “mùa Xuân năm 1975” và chúng ta lại thấy được vai trò và vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã kế thừa và phát huy tiềm năng to lớn đó.

Kính thưa các đồng chí!

Chi bộ trường THPT ........................... là tổ chức lãnh đạo toàn diện hoạt động Nhà trường, Đoàn thể và các tổ chức chính trị, xã hội, trong thời gian vừa qua mọi Nghị quyết đều phát huy dân chủ, tập trung trí tuệ của tập thể để mỗi cán bộ, giáo viên và nhân viên đều phải có trách nhiệm “ghé vai gánh vác một phần” nhằm nâng tầm vị thế của trường THPT ............................... Là một đảng viên, được Nhà trường giao kiêm nhiệm Tổ trưởng Tổ Lịch sử - Giáo dục Kinh tế và Pháp luật, tôi luôn nhận thức được rằng, để tập thể Nhà trường hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thì mỗi cá nhân, mỗi tổ phải hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Trong hoạt động của tổ chuyên môn: Mọi vấn đề đều được thông tin và họp bàn, các thành viên phải tham gia ý kiến, sau đó mới thống nhất, điều này nhằm phát huy tính dân chủ, tạo được sự đồng thuận và đoàn kết nội bộ, không rơi vào tình trạng đoàn kết ảo (nghĩa là trong cuộc họp thì giờ tay đồng ý, nhưng ngoài cuộc họp lại nói khác hoặc làm khác,...) tránh cục bộ, bè phái. Trong các hoạt động giảng dạy, bồi dưỡng học sinh giỏi ở các cấp học , các thành viên trong tổ đều được thể hiện và phát huy năng lực của mình. Trong những nhiệm vụ chung của tổ có sự phân công công việc cụ thể, mỗi người đều có trách nhiệm chung. Sự rạch ròi trong công việc sẽ khiến mỗi người có trách nhiệm hơn trong công việc của mình. Khi đó, họ phải đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ, chịu trách nhiệm cho nhiệm vụ ấy. Dù cá nhân hay tập thể đều phải biết lắng nghe ý kiến đóng góp để tìm ra cái đúng, cái hay mà sửa chữa để hoàn thiện mình.

Trong công tác giảng dạy trên tinh thần phát huy sự sáng tạo, năng động và sự tích cực của học sinh. Đặc biệt đối với nghề giáo, phải luôn ý thức trách nhiệm và tâm huyết với nghề từ đó tôi thấy càng gắn bó và yêu nghề hơn. Học tập đạo đức của Bác Hồ, chúng ta còn có thể học tập qua chính những tấm gương đồng nghiệp, bè bạn xung quanh. Mỗi tấm gương tốt cần được động viên, tuyên dương để thấy được giá trị và ý nghĩa của hành động thực tiễn. Và hãy để việc học tập đó đi vào chính cuộc sống hàng ngày của mỗi chúng ta chứ không phải là những hoạt động có tính chất phong trào. Bởi học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là để giúp chúng ta sống tốt hơn, đẹp hơn.

Trong công tác chủ nhiệm lớp, bản thân tôi luôn ý thức được rằng để một tập thể lớp tốt thì quan trọng nhất là phải tạo nên được một tập thể đoàn kết, đoàn kết trong tư tưởng và trong mọi hành động. Bản thân người giáo viên chủ nhiệm phải là tấm gương để các em noi theo. Phải luôn cởi mở, gần gũi học sinh, thương yêu và nắm bắt hoàn cảnh, tâm lý các em. Chính tình thương đã gắn kết các em lại, tạo nên một tập thể đoàn kết.
Kính thưa các đồng chí! Trên đây là bài báo cáo chuyên đề của bản thân tôi, chân thành cảm ơn các đồng chí đã lắng nghe.

Người thực hiện

(Ký tên)

12. Bài thu hoạch học tập chuyên đề đạo đức Hồ Chí Minh về đổi mới sáng tạo, phát huy ý chí tự lực tự cường 2024

BÀI THU HOẠCH

Học tập, quán triệt chuyên đề năm 2023: “Đổi mới sáng tạo, phát huy ý chí tự lực tự cường, khơi dậy khát vọng phát triển tỉnh ................... theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.

– Họ và tên:............................................................................................................

– Sinh hoạt tại chi bộ:.............................................................................................

Sau khi được nghiên cứu, học tập, quán triệt chuyên đề năm 2023: “Đổi mới sáng tạo, phát huy ý chí tự lực tự cường, khơi dậy khát vọng phát triển tỉnh Quảng Nam theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, tôi viết bản thu hoạch một số nội dung sau đây:

1. Những nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về đổi mới sáng tạo.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “đổi mới” là bản chất của cách mạng, của phát triển. Trong “Đường Kách mệnh”, Người chỉ rõ: “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”. Nói về công cuộc kiến thiết đất nước sau khi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước thắng lợi, Người nhấn mạnh: “Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”.

Triết lý đổi mới, chân lý đổi mới trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là ích nước, lợi dân. Người luôn căn dặn: “Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho Nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của Nhân dân tức là không phải chân lý”; “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”. Người quan niệm, “đổi mới” phải xuất phát từ nhu cầu khách quan của thực tiễn, phù hợp với điều kiện thực tiễn và giải quyết hiệu quả những đòi hỏi của thực tiễn.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng xác định rõ, “đổi mới” là sự nghiệp lâu dài, phức tạp, gian khổ, phải kiên định, kiên quyết, kiên trì, lựa chọn những bước đi thích hợp. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “đổi mới” không phải là phủ định sạch trơn mà là sự kế thừa và phát triển; cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ, cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi cho hợp lý, cái gì cũ mà tốt thì phát triển thêm, cái gì mới mà hay thì phải làm.

Với phong cách làm việc, ứng xử, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thể hiện sự đổi mới sáng tạo, linh hoạt và biến hóa. Người nói: “Tư tưởng bảo thủ như là sợi dây cột chân, cột tay người ta… Muốn tiến bộ thì phải có tinh thần mạnh dạn, dám nghĩ, dám làm”. Tóm lại, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “tư tưởng đổi mới sáng tạo” là tư tưởng cách mạng, khoa học trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, kết hợp với tinh hoa văn hóa dân tộc, nhân loại, phản ánh và giải quyết những nhu cầu khách quan của thực tiễn đất nước; “đạo đức đổi mới sáng tạo” là phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, đặt lợi ích của dân tộc, Tổ quốc lên trên hết, trước hết, đổi mới sáng tạo vì một nước Việt Nam độc lập, hòa bình, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh; “phong cách đổi mới” là kiên định, sáng tạo, dân chủ, thực tiễn, hiệu quả, nói đi đôi với làm, làm thiết thực, mang lại kết quả thực tế cho Nhân dân, cho đất nước. Đó chính là những giá trị bền vững của tư tưởng, đạo đức, phong cách đổi mới sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

2. Những nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Một là, tự lực tự cường là không trông chờ, ỷ lại, phụ thuộc vào bên ngoài; phát huy vai trò, sức mạnh của Nhân dân

Hai là, tự lực tự cường phải có sự tổ chức chặt chẽ, có phương pháp cách mạng đúng đắn dưới sự lãnh đạo của Đảng; kết hợp nội lực và ngoại lực, sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại; quyết tâm bảo vệ, giữ vững nền độc lập; phát huy tinh thần lao động sáng tạo, xây dựng, phát triển đất nước

Ba là, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc phải trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền tảng kinh tế – xã hội vững chắc; giữ vững quốc phòng an ninh

Bốn là, phát triển văn hóa – giáo dục, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, phục vụ công cuộc xây dựng đất nước giàu mạnh, vì mục tiêu đem lại hạnh phúc, ấm no cho Nhân dân.

Năm là, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trên cơ sở phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế, giá trị chung của nhân loại.

3. Học tập và làm theo tư tưởng, phong cách đạo đức Hồ Chí Minh về đổi mới sáng tạo, phát huy ý chí tự lực, tự cường, khơi dậy phát triển tỉnh................

Trải qua 93 năm xây dựng và trưởng thành (1930 – 2023), hơn 36 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng (1986 – 2023), đặc biệt hơn 25 năm tái lập tỉnh (1997 – 2023), Đảng bộ tỉnh....................... luôn khắc ghi lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh và từng bước thực hiện lời dạy của Người về “đổi mới sáng tạo”, về phát huy “ý chí tự lực tự cường” vào tình hình thực tiễn của tỉnh nhà.

Hơn 36 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nhất là hơn 25 năm tái lập, từ một tỉnh nghèo, nông nghiệp thuần tuý, nhưng với tinh thần quyết tâm đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy chủ động, sáng tạo, tập trung trí tuệ tháo gỡ khó khăn, phát huy lợi thế, huy động nội lực, thu hút đầu tư, tranh thủ sự giúp đỡ của Trung ương, sự hỗ trợ của các tỉnh, thành phố trong cả nước, của bạn bè quốc tế, nhất là chung sức, đồng lòng của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh, đến nay, ..........................đã tạo nên sự chuyển biến tích cực trên tất cả các lĩnh vực.

Dấu ấn nổi bật nhất phải kể đến là sự bứt phá ngoạn mục về thu ngân sách. Từ số thu 120 tỷ đồng năm 1996, đến năm 2022 đạt 33.338 tỷ đồng, đạt 141% dự toán, trong đó, thu nội địa đạt 26.485 tỷ đồng. Từ một địa phương phải nhận trợ cấp hơn 70% ngân sách Trung ương, năm 2017 ....................đã tự cân đối được thu chi ngân sách và có đóng góp về Trung ương. Đến năm 2022, quy mô nền kinh tế trên 116 nghìn tỷ đồng, tăng hơn 45 lần so với năm 1997, xếp thứ 2/5 tỉnh, thành phố Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung; xếp thứ 4/14 tỉnh Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung; thu nhập bình quân đầu người năm 2022 đạt 76,6 triệu đồng, gấp hơn 43 lần so với năm 1997.

4. Nhiệm vụ và giải pháp đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về đổi mới sáng tạo, phát huy ý chí tự lực tự cường, khơi dậy khát vọng phát triển....................

Thứ nhất, cần nhận thức sâu sắc, thấm nhuần tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Coi đây là công việc thường xuyên, không thể thiếu đối với mỗi cán bộ, đảng viên

Thứ hai, các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể đưa nội dung làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về đổi mới sáng tạo, phát huy ý chí tự lực tự cường, khơi dậy khát vọng phát triển Quảng Nam vào chương trình, kế hoạch hành động thực hiện nghị quyết của đảng bộ cấp mình, gắn với nhiệm vụ chính trị.

Thứ ba, đẩy mạnh tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, lôi cuốn sự vào cuộc của toàn xã hội

Thứ tư, nêu cao trách nhiệm nêu gương trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về đổi mới sáng tạo, phát huy ý chí tự lực tự cường, khơi dậy khát vọng phát triển...................... trong cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu

Thứ năm, coi trọng công tác kiểm tra, giám sát.

5. Đăng ký thực hiện của bản thân theo chuyên đề năm 2023: Đổi mới sáng tạo, phát huy ý chí tự lực tự cường, khơi dậy khát vọng phát triển tỉnh................... theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

Với vị trí công tác của mình trong năm 2023 tôi sẽ đăng ký thực hiện một số nội dung sau:

+ Đối với nhiệm vụ tại cơ quan, đơn vị: Trong công việc luôn có kế hoạch rõ ràng, có tiến độ thời gian thực hiện từng nhiệm vụ cụ thể. Đối với những vấn đề mới, khó thì cùng thảo luận, bàn bạc tập thể, xin ý kiến cấp trên, tham vấn ý kiến của chuyên gia, người am hiểu…để từ đó có cơ sở đưa ra các quyết định phù hợp nhất.

Phát huy càng nguồn lực tại địa phương, cơ quan, đơn vị, nhất là động viên, khuyến khích cán bộ, công chức, người lao động làm việc, đề xuất những nội dung mới, những cách làm mới để giải quyết các vướng mắc tại địa phương, đơn vị.

Khơi dậy khát vọng cống hiến của mỗi cán bộ, đảng viên, đề ra các chỉ tiêu cụ thể cho từng bộ phận, có phần thưởng khuyến khích cũng như hình thức kỷ luật.

+ Đối với nơi cư trú: Tham gia góp ý các nhiệm vụ tại địa phương, cùng với nhân dân địa phương thực hiện tốt nghĩa vụ công dân, tham gia các phong trào xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh.

Qua đợt thực hiện cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đã trang bị thêm cho bản thân hiểu biết sâu sắc hơn về tư tương, đạo đức,phong cách và tấm gương của Người. Xuất phát từ sự hiểu biết đó, hơn lúc nào hết, chúng ta phải không ngừng nâng cao học tập và làm theo tấm gương đạo đúc Hồ Chí Minh để tạo nên những nguồn động lực mạnh mẽ, nhất là nguồn lực về con người để đi theo con đường mà Đảng và Bác đã chọn.

.................., ngày... tháng..... năm.......

Người viết bài thu hoạch

(Ký tên)

Mời bạn đọc cùng tham khảo thêm tại mục giáo dục đào tạo trong mục biểu mẫu nhé.

Đánh giá bài viết
177 548.528
0 Bình luận
Sắp xếp theo