SKKN: Biện pháp nâng cao chất lượng làm công tác chủ nhiệm tiểu học năm 2024

Hoatieu xin chia sẻ mẫu SKKN: Biện pháp nâng cao chất lượng làm công tác chủ nhiệm. Mời các bạn tham khảo.

Giáo viên chủ nhiệm lớp có vai trò vô cùng quan trọng. Giáo viên chủ nhiệm là cầu nối giữa nhà trường, phụ huynh và học sinh để trao đổi các kế hoạch dạy và học, tạo điều kiện thúc đẩy trong công việc học tập của học sinh. Nâng cao công tác chủ nhiệm lớp là một vấn đề mà giáo viên chủ nhiệm cần quan tâm và chú trọng. Cùng tham khảo một số mẫu sáng kiến kinh nghiệm biện pháp nâng cao công tác chủ nhiệm dưới đây nhé.

1. SKKN Giáo dục học sinh qua công tác chủ nhiệm lớp 3

Bậc học tiểu học là bậc học cơ sở đầu tiên xây dựng cho học sinh ý thức học tập, rèn luyện đạo đức căn bản, là nền tảng giúp các em phát triển cả đức, trí, thể, mỹ ở các cấp học tiếp theo. Tuy nhiên, ở bậc học này, đa số các em còn non nớt, việc giáo dục học sinh vào khuôn khổ là điều không đơn giản, nhất là đối với giáo viên làm công tác chủ nhiệm lớp. GVCN không chỉ biết ổ chức, bao quát, xử lí các tình huống sư phạm diễn ra hàng ngày; mà còn đóng vai trò là "người mẹ thứ hai" dẫn dắt các em vào con đường tìm hiểu tri thức, rèn luyện đạo đức, nhân cách, định hướng cho các em phát triển toàn diện. Các SKKN về một số giải pháp nâng cao công tác chủ nhiệm lớp ở bậc học tiểu học dưới đây được đúc kết từ kinh nghiệm công tác của các giáo viên có nhiều năm làm công tác chủ nhiệm. Mời bạn đọc tham khảo chi tiết tại file tải về.

1. Lời giới thiệu

...........

Học sinh Tiểu học là giai đoạn khởi đầu của quá trình học. Đó là giai đoạn mở đầu cho một con người đến với văn hóa. Cũng từ giai đoạn này nhân cách của học sinh được hình thành và dần dần phát triển, ví như trong xây dựng cơ bản, khi xây một tòa nhà cao tầng hiện đại thì việc xử lý nền móng là hết sức quan trọng mà nền móng của ngôi nhà lại nằm dưới đáy nhà và một phần sâu trong lòng đất nên những người bình thường thì không nhìn thấy được mà chỉ có những nhà chuyên môn mới quan tâm và nhìn thấy bản chất, tầm quan trọng, giá trị đích thực của nền móng đó. Giai đoạn ở bậc tiểu học với học sinh là hết sức quan trọng. Đây là giai đoạn nền móng của quá trình phát triển nhân cách của học sinh sau này.

Mặt khác, học sinh Tiểu học rất ngây thơ, tâm hồn các em như tờ giấy trắng, vẽ lên đó đẹp hay xấu phần lớn là động tác của thầy (cô) chủ nhiệm. Đặc biệt trong giai đoạn các em hầu hết là học hai buổi trên ngày thì phần lớn thời gian trong ngày các em được sống và giao tiếp với thầy (cô) chủ nhiệm, với bạn bè. Nhận thức được tầm quan trọng của một giáo viên chủ nhiệm lớp tôi luôn tự nhủ, trước tiên mình phải là một tấm gương cho học sinh về cách ăn nói mẫu mực, xử sự với học trò đúng mực “ nghiêm túc” nhưng “thân thiện” thực sự có lòng yêu thương thông cảm với các em sao cho các em cảm nhận thầy (cô) giáo như người mẹ hiền thứ hai của các em, là chỗ để các em tin cậy về mặt tinh thần nhưng không quá thân thiết để học sinh có thể bỡn cợt quên khoảng cách giữa giáo viên và học sinh.

Xuất phát từ những suy nghĩ trên mà tôi luôn cố gắng tìm tòi, suy nghĩ và tự đúc kết cho mình những cách thức, sáng kiến để làm sao giáo dục được học sinh không chỉ qua Toán học hay Tiếng Việt mà phải giáo dục học sinh phát triển tốt cả về “đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ” và các kĩ năng sống cơ bản khác thông qua công tác chủ nhiệm lớp, từ đó từng bước giúp học sinh ngày một tiến bộ hơn không chỉ trong học tập, rèn luyện đạo đức mà trong cả các hoạt động khác xứng đáng với danh hiệu "Con ngoan - Trò giỏi - Cháu ngoan Bác Hồ”.

Sau nhiều năm làm công tác chủ nhiệm lớp, tôi luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Lớp tôi chủ nhiệm luôn dẫn đầu toàn trường về chất lượng học tập cũng như các nề nếp khác do Đội và nhà trường đề ra. Đó cũng là lí do tôi chọn để viết sáng kiến kinh nghiệm “Giáo dục học sinh Tiểu học qua công tác chủ nhiệm lớp’’.

2. Tên sáng kiến:

“Giáo dục học sinh Tiểu học qua công tác chủ nhiệm lớp’’.

3. Tác giả sáng kiến:

- Họ và tên:.......................................................................................

- Địa chỉ tác giả sáng kiến: ..............................................................

- Số điện thoại: .................................................................................

- Email :.............................................................................................

4. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:

Lĩnh vực áp dụng: Lớp chủ nhiệm cấp Tiểu học

Phạm vi để nghiên cứu đề tài này là học sinh lớp 3.

Đối tượng để nghiên cứu và áp dụng đề tài này là học sinh lớp 3A1, 3A2, 3A3 trường Tiểu học..................................................

5. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử:

Sáng kiến này được triển khai áp dụng lần đầu từ 01/10/20... đến ngày 10/5/20... tại trường Tiểu học ........................................

6. Mô tả bản chất của sáng kiến:

6.1. Nội dung của sáng kiến

6.1.1. Thực trạng

a, Đối với giáo viên

- Công tác chủ nhiệm lớp ở Tiểu học là một công tác khó khăn, đòi hỏi giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian và công sức cho công tác này, nhưng thực tế giáo viên chủ nhiệm lớp ở Tiểu học còn phải lo cho công tác chuyên môn (dạy nhiều môn văn hóa cùng một lúc) nên chưa đầu tư nhiều cho công tác chủ nhiệm lớp. Chính vì vậy mà việc giáo dục học sinh qua công tác chủ nhiệm còn nhiều bỡ ngỡ và khó khăn, đòi hỏi nhiều thời gian thì mới đạt hiệu quả.

- Một số học sinh do gia đình có hoàn cảnh khó khăn về tình cảm (bố, mẹ không ở chung), kinh tế gia đình khó khăn phải đi làm xa, sự quan tâm đến việc học của con còn hạn chế nên giáo viên chủ nhiệm không thể liên hệ gia đình để phối hợp giáo dục.

- Tâm lý của giáo viên chủ nhiệm, ai cũng muốn học sinh lớp mình phụ trách phải ngoan, học giỏi, tập thể lớp hoạt động và luôn tiến bộ… Nhưng thực tế không như ta mong muốn. Cho nên khi tiếp nhận lớp, giáo viên chủ nhiệm phải sớm ổn định tổ chức lớp, điều tra nắm hai mặt chất lượng năm cũ, học sinh chậm tiến và cá biệt, gặp giáo viên chủ nhiệm cũ để thăm nắm được các đối tượng từ đó có biện pháp giáo dục và lên kết quả cụ thể để có phương pháp giáo dục.

- Chưa tìm hiểu và khám phá được điểm mạnh và điểm yếu, điểm còn hạn chế của từng học sinh. Đặc biệt là chưa tìm được giải pháp để phát huy hết khả năng sáng tạo và phát triển tư duy cho trẻ, chưa tìm được giải pháp khắc phục những nhược điểm về ý thức và nhận thức của trẻ.

b, Đối với học sinh

Học sinh Tiểu học còn rất non nớt, các em sống trong những gia đình có hoàn cảnh khác nhau, nếp sống khác nhau nên nhận thức và nếp sống cũng khác nhau. Đặc biệt tư duy của học sinh Tiểu học cũng rất cụ thể và cảm tính. Các em rất ham hiểu biết, thích bắt chước, hiếu động chưa biết tập chung lâu với việc chuyển hoạt động chủ đạo từ chơi sang học tập, đặc biệt rất dễ xúc động với các yêu cầu và quy tắc của trường học.

Khả năng giao tiếp giữa học sinh với giáo viên, giữa học sinh với học sinh còn nhiều hạn chế, chỉ có một số học sinh khá giỏi mạnh dạn tham gia các hoạt động còn học sinh nhút nhát thì thu mình ngại tham gia.

Học sinh chưa mạnh dạn tự tin trong việc phân tích , xử lý tình huống… do khả năng đánh giá hành vi của bản thân và xung quanh còn thiên về cảm tính.

7.1.2. Một số biện pháp cụ thể thực hiện

Xuất phát từ khó khăn trên mà tôi đã có những giải biện pháp sau để tháo gỡ khó khăn đó làm cho công tác chủ nhiệm được dễ dàng hơn.

Thứ nhất: Là người giáo viên dạy Tiểu học, hầu như chịu hoàn toàn trách nhiệm về lớp mình phụ trách, trực tiếp giảng dạy các môn học, đồng thời tổ chức, hướng dẫn tất cả các hoạt động giáo dục. Trong những giờ tới trường giáo viên chủ nhiệm lúc nào cũng ở cạnh các em, là người “mẹ thứ hai” của các em, luôn gần gũi, dõi theo mọi hành động, hành vi của từng em trong lớp. Học sinh Tiểu học còn chưa biết hành động độc lập, giáo viên phải là người tổ chức các hoạt động, làm sao cho từng em học sinh có được công việc thích hợp và bộc lộ được khả năng của mình. Mở rộng và khơi sâu trí thức, rèn luyện kĩ năng, giáo dục ý thức tự giác và ứng xử, thỏa mãn nhu cầu, kích thích sự hứng thú, phát triển năng lực của học sinh. Trong mắt các em, giáo viên chủ nhiệm là “Thần tượng”, là người mà các em tin tưởng tuyệt đối nhất, thầy (cô) giáo nói gì các em cũng nghe, vâng lời thầy (cô) giáo là cái duy nhất có ở tất cả các em học sinh. Chính vì thế mà người giáo viên chủ nhiệm phải chú trọng từng lời nói, hành động, việc làm chuẩn mực nhất trước học sinh, là tấm gương sáng để các em noi theo. Qua công tác chủ nhiệm, người giáo viên Tiểu học góp phần to lớn trong việc hình thành và phát triển toàn diện cho các em, giúp các em trở thành người có ích cho xã hội, gia đình và bản thân, để các em trưởng thành, lớn lên, vững vàng bước vào đời.

Thứ hai: Trong công tác giáo dục không phải lúc nào cũng thuận lợi, trong giáo dục có những lúc đòi hỏi giáo viên phải dịu dàng, tế nhị, khéo léo và phải xác định rõ: giáo viên chủ nhiệm là một thầy (cô) phụ trách Đội, có “một phần” nghiệp vụ công tác Đội, tâm huyết với nghề dạy học, xem tập thể lớp như một “gia đình nhỏ” của mình mà giáo viên chủ nhiệm đóng vai trò như một người huynh trưởng, người cha, người mẹ vậy !

Thứ ba: Phải xác định được tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức, hình thành nhân cách, phát triển tư duy và nhận thức của học sinh. Giáo dục đạo đức, hình thành nhân cách, phát triển tư duy và nhận thức của học sinh là mục tiêu quan trọng hàng đầu của nhà trường. Giáo dục đạo đức phải làm ngay từ nhỏ, càng sớm càng tốt, nhưng phải phù hợp với trẻ. Tục ngữ có câu: “ Dạy con từ thuở còn thơ ”

Thứ tư: tôi cũng đã xác định được mục tiêu của công tác chủ nhiệm bởi: Công tác chủ nhiệm ở trường Tiểu học nhằm giúp học sinh:

- Có hiểu biết ban đầu về một số chuẩn mực hành vi đạo đức và pháp luật phù hợp với lứa tuổi trong các mối quan hệ của các em với bản thân, gia đình, nhà trường, cộng đồng, môi trường tự nhiên và ý nghĩa của việc thực hiện theo chuẩn mực đạo đức đó.

- Từng bước hình thành kỹ năng nhận xét, đánh giá hành vi của bản thân và những người xung quanh theo chuẩn mực đã học: kỹ năng lựa chọn và thực hiện các vi ứng xử phù hợp với chuẩn mực trong các quan hệ và tình huống đơn giản, cụ thể của cuộc sống, biết nhắc nhở bạn bè cùng thực hiện.

- Từng bước hình thành thái độ tự trọng, tự tin, yêu thương, tôn trọng con người; yêu cái thiện, cái đúng, cái tốt, không đồng tình với cái ác, cái sai, cái xấu,

7.1.3. Một số biện pháp giáo dục học sinh trong công tác chủ nhiệm lớp:

...................

a. Xây dựng, hình thành và giáo dục nhân cách cho trẻ

- Giáo dục đạo đức phải làm sớm, bởi lẽ: Tuổi thơ trong trắng dễ hấp thụ cái mới, để được cảm hóa, thuyết phục. Những điều răn dạy ban đầu đến với trẻ bao giờ cũng in dấu ấn sâu đậm nhất. Trong tâm trí trẻ nếu không có giáo dục sớm, trẻ cũng tiếp thu một cái gì đó ngoài dự kiến của chúng ta. Những cái đó nếu là điều sai trái, việc giáo dục lại khó khăn gấp bội. Kinh nghiệm của ông cha ta đúc kết: “ Bé không vin, cả gãy cành”. Học sinh Tiểu học cũng không phải quá bé, với vốn ngôn ngữ, kinh nghiệm đạo đức và kiến thức đã thu được ở gia đình, nhà trẻ, các lớp mẫu giáo các em có thể tiếp thu các chuẩn mực đạo đức và kiến thức ban đầu ở dạng hành vi cụ thể không khó khăn, từ đó làm nảy nở những tình cảm, thói quen đạo đức và những tư duy ban đầu của các em.

- Như chúng ta đã biết ngoài việc xây dựng, hình thành và giáo dục nhân cách cho trẻ thông qua các bài giảng ở trên lớp của tất cả các bộ môn được giảng dạy trong nhà trường thì việc xây dựng, hình thành và giáo dục nhân cách cho trẻ thông qua các giờ ra chơi, giờ hoạt động tập thể… là hết sức cần thiết và bổ ích. Vì vậy với khuôn khổ của đề tài này tôi chỉ đề cập đến vấn đề: Xây dựng, hình thành và giáo dục nhân cách cho học sinh thông qua giờ ra chơi, giờ hoạt động tập thể.

....................................

Mời các bạn tải file chi tiết đầy đủ

2. Mẫu SKKN: Một số biện pháp nâng cao công tác chủ nhiệm lớp 4

PHÒNG GD & ĐT ....

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TRƯỜNG TIỂU HỌC ....

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

....., ngày .... tháng .. năm 20...

BÁO CÁO
BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LÀM CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM

Đề tài: “Một số biện pháp làm tốt công tác chủ nhiệm để nâng cao năng lực cho học sinh ở lớp 4A3 trường Tiểu học Lê Quý Đôn

PHẦN I: Mở đầu

Lí do chọn đề tài:

Là một giáo viên thực hiện công tác giảng dạy trong ngành giáo dục đã lâu, tôi luôn nhận thức được việc học rất có ý nghĩa với học sinh và với toàn xã hội. Bởi giáo dục là thước đo cho mọi chuẩn mực xã hội. Bản thân đã xác định được vai trò của giáo dục như thế nên luôn coi trọng xứ mệnh nghề giáo của mình. Nhất là người giáo viên Tiểu học, bởi vì bậc Tiểu học là bậc nền tảng cho cả một thế hệ mới, thế hệ của tương lai. Nếu ngay từ khi còn nhỏ, trẻ được đào tạo một cách đầy đủ cả về kiến thức và nhân cách chuẩn mực thì khi lớn lên sẽ rất có ích cho xã hội. Với tầm quan trọng đó mà vai trò của người giáo viên Tiểu học luôn được chú trọng cả về chất và lượng. Nhất là những giáo viên làm công tác chủ nhiệm.

Thông thường giáo viên chủ nhiệm lớp thường dạy hầu hết các môn học ở Tiểu học, có rất nhiều thời gian trên lớp mình, có trách nhiệm trực tiếp tổ chức dạy học, giáo dục và tổ chức, hướng dẫn thực hiện mọi hoạt động giáo dục của lớp mình chủ nhiệm. Vì vậy giáo viên chủ nhiệm ở bậc tiểu học có một vị trí hết sức quan trọng trong việc hình thành và phát triển toàn diện nhân cách học sinh. Chính vì vậy, giáo viên chủ nhiệm phải là người có năng lực, kinh nghiệm và uy tín, có khả năng tổ chức tốt công tác dạy học và giáo dục học sinh của một lớp. Bên cạch đó rất cần sự nhiệt tình sâu sát, cần cù, trí nhớ tốt, tâm lý giỏi, có khả năng xây dựng đội ngũ cán bộ học sinh. Giáo viên chủ nhiệm vừa là người thầy vừa là người bạn của học trò. Để thực hiện được nhiệm vụ giáo dục toàn diện học sinh, đòi hỏi người giáo viên chủ nhiệm Bậc Tiểu học phải là một “Người thầy tổng thể” là người thầy mẫu mực, tấm gương đạo đức tự học và sáng tạo, là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.

Ngày nay đất nước đang trên đà phát triển, xã hội ngày càng hiện đại với sự quan tâm giúp đỡ của các cấp chính quyền địa phương, đời sống của người dân đã từng bước được nâng cao, việc học hành của con em cũng được chú trọng rất nhiều. Nhưng không phải là đã hết những tình trạng nghỉ học, tình trạng mất tập trung, hay tình trạng học sinh không hoàn thành chương trình lớp học... Đó là điều tôi luôn, trăn trở về mạch kiến thức của các em. Là người trưc tiếp giảng dạy các em tôi luôn suy nghĩ về điều này và cần phải có biện pháp phù hợp, nhanh chóng để thu hút sự yêu thích học tập của các em, để các em đến trường mà thấy vui như ở nhà. Vì vậy tôi đã đi đến chọn giải pháp : “Một số biện pháp làm tốt công tác chủ nhiệm để nâng cao năng lực cho học sinh ở lớp 4A3 trường Tiểu học Lê Quý Đôn

Phần II: Nội dung

1. Thực trạng:

Đầu năm nhận lớp qua quá trình tìm hiểu và thăm nắm tôi nhận thấy đây là một năm học với nhiều vất vả khó khăn. Do đó tôi bắt đầu nhận định những khó khăn, phân loại khó khăn mà đưa ra những giải pháp phù hợp, kịp thời.

Khó khăn về kinh tế gia đình.

Lớp của tôi có một số em là con của gia đình có hoàn cảnh khó khăn, bố mẹ làm thuê theo thời vụ, vì lo gánh nặng kinh tế gia đình, mà thờ ơ việc học tập của con em, giao phó cho giáo viên, điều đó một phần có ảnh hưởng đến sự phát triển một số năng lực của học sinh (tự phục vụ, tự quản, giao tiếp...)

Trong lớp còn có những em nhà ở xa, bố mẹ đi làm ở nơi khác, các bạn ấy phải ở nội trú, một tuần chỉ về nhà một lần, thậm trí là cả tháng mới về nhà cùng bố mẹ, mọi việc phó mặc cho thầy cô và nơi ở nội trú đây cũng là một nguyên nhân làm hạn chế sự phát triển năng lực của các em.

Khó khăn về thiếu sự chuyên cần

Trong lớp, các em có thói quen hay nghỉ học rải rác trong tuần từ ở lớp dưới nhất là vào những ngày cuối tuần, đầu tuần vì lí do nhà xa lên không kịp. Dẫn đến việc các em có chất lượng học tập không đồng đều ở các môn.

Năm học 20... - 20... lớp tôi chủ nhiệm có 40 em, thì có hơn một phần ba các em đều là con của gia đình tạm trú nên các em hay về thăm quê cùng bố mẹ, vì vậy việc duy trì sĩ số học sinh đảm bảo trong tháng rất khó thực hiện. Nhất là vào các dịp nghỉ lễ hoặc tết.

Bên cạnh đó trong lớp có 6 bạn (Đức Thịnh, Ngọc Nhi, Phương Anh, Như Anh, Duy Mạnh, Gia Huy) là chỉ ở với mẹ hoặc với bố, nhiều khi vì lí do khác nhau mà các bạn lại vắng học. Do đó mà việc học trên lớp của bạn cũng không ổn định, mất bài, thiếu chuyên cần... Tất cả đều ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển năng lực của các em

Khó khăn về chất lượng không đồng đều.

Tất cả những nguyên nhân trên đều làm cho năng lực của lớp không đồng đều, phần vì nhà xa, phần vì phải phụ bố mẹ đi làm, phần vì bố mẹ không quan tâm....đó đều là nguyên nhân làm cho năng lực của các em không đồng đều.

Trong lớp vẫn còn tình trạng một số học sinh chưa chăm ngoan, chưa có ý thức tự học, các em chán học, không thích đến lớp học. Nhiều em còn ham chơi chưa tập trung vào bài học, ngồi trong lớp còn hay nói chuyện và làm việc riêng. Các em thích bắt chước, hiếu động nhưng ít biết tập trung và rất dễ chán khi phải tập trung lâu, rất khó chịu khi phải gò ép vào khuôn mẫu. Do đó mà làm cho sự phát triển năng lực của các em là không đồng đều.

* Có rất nhiều nguyên nhân, trong đó có một phần do hạn chế trong giao tiếp, học lực yếu; khả năng tiếp thu bài của các em rất chậm nên không theo kịp nhóm. Các em chưa biết tự giải quyết những khó khăn, vướng mắc, chưa cố gắng tự làm trước khi nhờ người khác. Chưa kịp thời tìm kiếm sự trợ giúp của bạn bè, thầy cô giáo và bố mẹ,.... Và qua thăm nắm tình hình từ nhiều hướng tôi đã biết về tình hình của lớp như sau:

Nôi dung

Tốt

Đạt

Cần cố gắng

Số lượng

Tỉ lệ

%

Số lượng

Tỉ lệ

%

Số

lượng

Tỉ lệ

%

Năng

lực

Tự phục vụ, tự quản

10

25

23

57

7

18

Hợp tác

11

27

19

48

10

25

Tự học, giải quyết

9

23

20

50

11

27

2. Nội dung các giải pháp:

2.1.Biện pháp 1: Công tác tổ chức lớp học.

2.1.1. Nắm hoàn cảnh và đặc điểm gia đình từng học sinh

Một trong những yếu tố quan trọng của giáo viên chủ nhiệm lớp, trước hết giáo viên phải hiểu học sinh, phải nắm được đầy đủ các thông tin cần thiết về từng học sinh. Do vậy ngay từ ngày đầu nhận lớp, tôi thực hiện ngay công tác lấy thông tin học sinh. Tôi phát cho mỗi em một phiếu điều tra và yêu cầu các em điền đầy đủ các thông tin trong phiếu:

TỰ GIỚI THIỆU BẢN THÂN

1. Họ và Tên:…………sinh ngày………………

2. Sở thích: ........................................................

3. Địa chỉ gia đình: ..........…………………........

4. Họ tên cha.........nghề nghiệp.........số điện thoại........

5. Họ tên mẹ.............nghề nghiệp...........số điện thoại....

6. Hoàn cảnh gia đình (khá giả, đủ ăn, nghèo).........

7. Kết quả học tập năm lớp 3:.............................

8. Môn học yêu thích:......................................

9. Môn học cảm thấy khó:..............................

10. Góc học tập ở nhà: (Có, không)...............

11. Những người bạn thân nhất trongnhóm, lớp:.......

Qua phiếu điều tra này, tôi nắm được đầy đủ các thông tin cần thiết về từng học sinh, hiểu một phần về học sinh của mình, điều đó rất có lợi cho tôi trong công tác giảng dạy và giáo dục học sinh.

Từ phiếu điều tra đó tôi nhận biết được trong lớp còn có 2 học sinh là em Đức Thịnh, Duy Mạnh chỉ ở với mẹ nhà lại khó khăn, mẹ chưa có việc làm ổn định. Nhờ biết được những thông tin đó mà trong những lần họp hội đồng nhà trường, tôi thường hay đưa ra những kiến nghị lên Ban giám hiệu nhà trường, để có biện pháp giúp đỡ cho hai em này chẳng hạn như xin miễn giảm tiền bán trú hay các quỹ hỗ trợ hàng tháng, tuy không nhiều nhưng cũng một phần nào đó làm em đỡ vất vả hơn.

Đặc biệt là qua phiếu điều tra này mà tôi được biết trong lớp có hai em là, Thế Vinh, Quốc Anh là nhà xa lại phải ở nội trú hoàn cảnh gia đình rất khó khăn nhưng hai em này lại có học lực rất là tốt. Trong các tiết sinh hoạt lớp tôi thường hay lấy tấm gương này của hai em, để giáo dục các bạn trong lớp về sự chuyên cần và vươn lên trong học tập, phần là để tuyên dương hai em phần là khích lệ tinh thần học tập của các em khác. Đồng thời tôi liên lạc với phụ huynh để chia sẽ những khó khăn cũng như phối hợp với gia đình động viên các bạn trong học tập cũng như trong cuộc sống.

Cũng từ phiếu điều tra đó mà tôi biết được các em đều yêu thích văn nghê, thể dục thể thao, thích các hoạt động trải nghiệm và đa số các em không thích học hai môn Tiêng Việt và Toán. Đây là một thông tin rất giá trị với tôi. Từ đó tôi đã thay đổi cách lên lớp của mình, thay vì chỉ có học thôi thì nay tôi đưa trò chơi vào trong bài học, thay vì kiểm tra bài bằng hình thức phỏng vấn tôi thay bằng các hình thức khác như trò chuyện cởi mở hoặc là tổ chức các cuộc thi, đưa các kỹ thuật vào dạy học....tôi dành thời gian nhiều hơn để trò chuyện cùng các em, xóa bớt khoảngcác giữ cô và trò. Có lẽ vậy mà năng lực của lớp tôi ngày càng tiến bộ cả về học lực cũng như năng lực phẩm chất.

2.1.2 Tổ chức bầu Hội đồng tự quản của lớp:

Từ khi mô hình trường học mới VNEN được áp dụng vào trường tiểu học, thì cụm từ lớp Trưởng, lớp Phó được thay bằng Hội đồng tự quản. Sự thay thế đó đã mạng lại một hiệu quả tích cực, học sinh mạnh dạn tự tin năng nổ hơn nhiều. Học sinh có điều kiện hiểu rõ quyền và trách nhiệm trong môi trường giáo dục, được rèn các kĩ năng lãnh đạo, kĩ năng tham gia, hợp tác trong các hoạt động.Tôi muốn tạo dựng và rèn luyện cho các em thể hiện tinh thần dân chủ và ý thức trách nhiệm đối với tập thể, nên tôi tổ chức cho các em ứng cử và bầu cử để chọn lựa Hội đồng tự quản của lớp, nhóm trưởng, trưởng các ban. Các em được bỏ phiếu, được thể hiện quyền “dân chủ’ của mình, tôi thấy các em rất vui, rất hào hứng, và ba em được bầu chọn cũng cảm thấy “oai”, thấy tự hào.

Trong mỗi nhóm có một nhóm trưởng do chính học sinh trong nhóm lựa chọn ra để điều khiển nhóm mình. Ngay từ đầu năm, tôi đã tổ chức phổ biến cho các em trong Hội đồng tự quản và các nhóm trưởng biết cách hướng dẫn nhóm, lớp của mình thực hiện các hoạt động học và các em có thể thay phiên nhau làm nhóm trưởng. Vì thế trong một giờ học các em nhóm trưởng có thể như một giáo viên chỉ đạo, hướng dẫn các thành viên trong nhóm thực hiện, tự tiến hành tìm hiểu kiến thức từng nhiệm vụ của hoạt động.

HỘI ĐỒNG TỰ QUẢN
HỌC KÌ ...

Ban

Học tập+Thư viện

Ban

Đối ngoại-QLHS

Ban

Sức khỏe+VS

Ban

Văn nghệ+TDTT

Sau một thời gian xây dựng Hội đồng tự quản, tôi nhân thấy các em rất hứng thú và có trách nhiệm với nhiệm vụ mà cô giao phó, các em hoạt động một cách rất linh hoạt, các ban trong lớp có thể thay đổi vị trí cho nhau. Trước đây Ban văn nghệ chỉ là các nữ nhưng sau một thơi gian các bạn nam vẫn có thể làm được Ban văn nghệ của lớp.

Để phát huy được tính tích cực của tất cả các em trong lớp thì cứ hai tháng tôi lại thay đổi Hội đồng tự quan một lần, để các em có thể thử sức lãnh đạo của mình, tạo cơ hội cho các em thể hiện bản thân. Không chỉ có vậy tôi con vận động những bạn học sinh cá biệt của lớp vào trong Hội đồng tự quản để các em hòa nhập cùng các bạn trong lớp, từ đó mà hoàn thiện bản thân của mình. Có lẽ vậy mà trải qua một thời gian mọi động của lớp đều đạt kết quả tốt, cụ thể:

Công tác sệ sinh trường lớp cũng luôn được Đội đánh giá là sạch sẽ gọn gàng. Các em thực hiện một cách chủ động, tự giác.

Ví dụ: vào đầu giờ học, giờ ra chơi hay vào cuối buổi học Ban lao động của lớp thường điều hành các bạn trong nhóm làm trực nhật, vệ sinh lớp học, chăm sóc cây xanh...các em đều ý thức được công việc của mình nên lớp học luôn được sạch sẽ và gọn gàng.

Mọi hoạt động sáng tạo, hoạt động trải nghiệm do nhà trường phát động, lập thành tích trào mừng ngày lễ lớn , cũng được các bạn trong lớp hưởng ưng và thực hiện tốt, với thành tích đạt giải nhì toàn khối hội thi vẽ tranh trên nón, giải 3 hội thi làm thiệp chúc mừng, đã chứng mình cho phương pháp xây dựng hội đồng tự quản của tôi là đang đi dúng hướng, là đang phát huy được vai trò của các em trong lớp học.Và hơn ai hết tôi là người vui nhất, bởi tôi biết rằng các em học sinh của tôi đã biết phát huy những thế mạnh của mình, tôi đã xây dựng một tập thể đoàn kết. Mặc dù những biện pháp này chưa đồng bộ nhưng tôi tin rằng nó luôn có kết quả tốt cho tất cả các lớp trong toàn trường.

2. Biện pháp 2: Phối kết hợp tốt cùng phụ huynh học sinh:

Phụ huynh học sinh là chiếc cầu nối quan trọng để người giáo viên chở những chuyến đò kiến thức qua sông một cách tốt nhất. Bởi phụ huynh có ảnh hưởng một cách trực tiếp tới quá trình phát triển nhân cách và nhận thức của học sinh. Do đó người giáo viên chủ nhiệm thành công là người giáo viên đã khai thác thành công mối quan hệ này.

Trên lớp các em được tiếp xúc và lĩnh hội các kiến thức khác nhau nhưng để củng cố và biến nó thành kiến thức của bản thân lại diễn ra trong thời gian ở nhà và cuộc sống hằng ngày, nên phụ huynh là những thầy cô giáo ngoài trường học tốt nhất cho các em. Và để tìm biện pháp và phương pháp cho học tập ở nhà, nhắc nhở, kiểm tra kiến thức, chuẩn bị bài mới, học sinh tự kiểm tra đồ dùng, sách vở theo đúng thời khóa biểu hàng ngày. Chính bố mẹ học sinh đã đang giúp tôi thực hiện rất tốt.

Trong buổi họp phụ huynh đầu năm tôi đã nhẹ nhàng khéo léo để hướng phụ huynh giáo dục con em mình theo 5 cách sau trong việc hỗ trợ con cái học tập

  1. Hãy trở thành một tấm gương cho con
  2. Nói chuyện cùng con
  3. Tạo một bầu không khí dễ chịu
  4. Giúp con làm bài tập về nhà
  5. Trở thành một người bạn tốt

Với những cách này tôi đã hướng phụ huynh không chỉ là người cha người mẹ mà còn là người thầy, người bạn cho các em học sinh. Cứ như thế học sinh ngày càng lớn khôn và trưởng thành hơn về nhân cách. Đó là kết quả mà ai cũng hằng mong đợi. Nhưng không phải cha mẹ nào cũng làm được điều đó cho con của mình. Bên cạnh đó vẫn còn có những em vi phạm vào nội quy của lớp chẳng hạn như học sinh còn hay quên sách vở, dụng cụ học tập, học còn chậm thì giáo viên phải gặp phụ huynh trao đổi để cùng nhau phối kết hợp, giúp đỡ cho các em mau tiến bộ.

Ví dụ: Em Thiên An là một học sinh thường xuyên đi học trễ, chữ viết xấu trong lớp thì hay đùa giỡn không tập trung vào bài học.... Biết vậy tôi liền kết hợp với phụ huynh nắm thời khóa biểu cũng như giờ giấc đi về để kiểm tra. Gia đình và giáo viên chủ nhiệm thường xuyên gặp gỡ, trao đổi và thông báo cho nhau về tình hình học tập ở lớp cũng như ở nhà để có biện pháp khắc phục kịp thời. Đến lớp tôi gặp riêng em khuyên bảo, phân tích cái sai của em để cho em hiểu. Em hứa sẽ sửa đổi. Ở lớp luôn có lời khen em ấy dù là việc rất nhỏ để em cảm thấy mình không bị bỏ rơi, luôn được thầy cô và bạn bè quan tâm và tôn trọng. Qua thời gian uốn nắn cùng sự hỗ trợ nhiệt tình của gia đình tôi thấy em có sự tiến bộ rõ rệt. Đây cũng là niềm vui, là động lực để tôi phấn đấu nhiều hơn nữa cho sự nghiệp trồng người trong bao năm qua.

Trong thời gian qua bản thân luôn quan tâm tới vai trò của phụ huynh học sinh. Bằng những cuộc trao đổi ngắn trên điện thoại hay trao đổi một cách trực tiếp mà tôi đã tạo ra được mối quan hệ khăng khít, phần để phát huy vai trò của phụ huynh học sinh, phần để nắm được các thông tin về học sinh từ nhà. Với mối quan hệ mật thiết đó, nhiều phụ huynh cũng tình nguyện giúp đỡ lớp trong các phong trao thi đua, nhiều phụ huynh đã giúp đỡ lớp học nhiều hoạt động hoặc là trồng cây xanh để trang trí lớp học thân thiệt. Đây chính là một sự thành công lớn mà tôi hằng mong muốn.

3. Biện pháp 3: Áp dụng các phương pháp dạy học tích cực vào các hoạt động học để từng bước nâng cao chất lượng của lớp.

Phương pháp dạy học chính là cách thức, sự tương tác chung giữa giáo viên và học sinh ở trong điều kiện dạy học nhất định, nhằm đạt được các mục tiêu của việc dạy học. Nó là một vũ khi vô cùng hiệu quả cho bất cứ thầy cô giáo nào, bởi khi áp dụng các phương pháp giảng dạy tích cực, giờ giảng của tôi trở nên sinh động, hấp dẫn và có ý nghĩa. Người học là trung tâm nhưng vai trò, uy tín của người thầy được đề cao hơn. Tôi xin nêu một số biện pháp sau.

Phương pháp vấn đáp

Vấn đáp:Là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra câu hỏi để học sinh trả lời, hoặc học sinh có thể tranh luận với nhau và với cả giáo viên; qua đó học sinh lĩnh hội được nội dung bài học.

Ví dụ khi ôn lại một dạng toán đã học, tôi nêu yêu cầu đề bài và mời các em xác định được đó là dạng toán gì? Lúc đó các em xung phong trả lời theo nhiều cách khác nhau, các bạn khác nhận xét, chia sẻ ý kiến và tranh luận để đưa ra đáp án đúng. Và lúc đó tôi sẽ là người công nhận đáp án nào là chính xác. Và đây là hình ảnh minh họa

Phương pháp đóng vai

Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Đây là phương pháp mà tôi hay sử dụng trong các tiết học của môn Tiếng Việt hoặc là Đạo đức, các em rất hào hứng và thích thú

Ví dụ khi kể lại câu chuyện “ Chú linh cứu hỏa” tôi đã chía đoạn và cho các em tự đóng vai các nhân vật mình thích, thông qua nhừng cử chỉ vag hành động của bản thân để hoàn thành nội dung của đoạn chuyện đó.

Với phương pháp này tôi đã rèn kỹ năng cho học sinh mình biết hòa mình vào các nhân vật. Lâu dần các em quen dần với các tình huống và mạnh dạn hơn trong giao tiếp. Ứng xử một cách chuẩn mực hơn. Đây cũng là một thành công mà tôi thấy rất mừng.

Phương pháp động não

Động não là phương pháp giúp học sinh trong một thời gian ngắn nảy sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó. Thực hiện phương pháp này, giáo viên cần đưa ra một hệ thống các thông tin làm tiền đề cho buổi thảo luận.

Ví dụ khi học bài nêu tác dụng của ánh sáng trong môn Khoa học, tôi đã tổ chức cho các nhóm tham gia xây dựng ý kiến để nêu được vai trò của ánh sang trong cuộc sống.

.* Trên đây là một số phương pháp dạy học đã đem lại nhiều hiệu quả trong quá trình dạy học mà tôi thường hay áp dụng tuy nhiên để áp dụng một cách thành công thì bản thân tôi phải là người nắm vững về kiến thức chuyên môn, có kỹ năng sư phạm, khéo léo trong cách ứng xử, sử dụng thành thạo công nghệ thông tin để ứng dụng vào việc giảng dạy, biết cách định hướng học sinh theo đúng mục tiêu giáo dục đã đề ra. Bên cạnh đó cũng cần phải đảm bảo được sự tự do nhận thức của học sinh.

2.4. Biện pháp 4: Thực hiện tốt tiết sinh hoạt lớp:

Sinh Hoạt lớp là một tiết học có thời lượng như bao môn khác nhưng hiệu quả mà nó mang lại là vô cùng to lớn, sau một tuần học dài các em lại được tập làm người lớn, biết tự nhận xét bản thân mình, cũng biết phê bình góp ý cho bạn…nói chung tiết sinh hoạt cuối tuần của lớp tôi rất là vui và luôn được các bạn ấy mong đợi. Còn riêng phần tôi thì tôi nhận thấy cứ sau một tuần đó các con lại lớn lên một chút, lớn lên về nhận cách và lớn lên cả về năng lực. Đó là niềm vui mà mỗi khi tôi nghĩ lại.

Tiến hành một tiết sinh hoạt lớp tôi thường thực hiện như sau:

Họp ban cán sự lớp

Xác định mục tiêu tiết sinh hoạt

Lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức

Các bước tiến hành tiết sinh hoạt lớp

Dù có lựa chọn hình thức tổ chức tiết sinh hoạt như thế nào, chúng ta cũng cần tiến hành theo các bước sau:

1. Ổn định lớp.

2. Nêu mục đích lí do.

3. Phân công, chuẩn bị các nội dung cần thực hiện, những công việc này đã được tôi củng Ban cán sự lớp tư vấn, thống nhất trong cuộc họp Ban cán sự.

4. Thảo luận tổ, nhóm. Thời gian thảo luận tùy vào nội dung cần trao đổi. Để nhanh gọn và hiệu quả có thể khuyến khích HS thảo luận trước trong giờ chơi hay trước buổi học.

Tùy vào điều kiện cũng như tình hình thực tế, từng thời điểm mà tôi có thể lựa chọn các nội dung thảo luận cho học sinh:

Chẳng hạn: Khắc phục những hạn chế tuần qua; điều chỉnh nội quy lớp học; biện pháp thực hiện kế hoạch tuần tới…

5. Tổ chức trình bày – sinh hoạt lớp (học sinh tự thực hiện theo hình thức tự quản có sự tiếp sức của tôi)

6. Tôi nhận xét, tổ chức bình chọn những thành viên ưu tú trong tuần, những tiến bộ vượt bậc của các cá nhân, để khen ngợi, khích lệ đồng thời nhắc nhở, chỉnh sửa, đôn đốc khắc phục những khuyết điểm (nếu có). Mỗi tiết sinh hoạt cần lồng ghép nội dung sinh hoạt theo chủ điểm tháng. Nội dung này cần ngắn gọn, có thể chuyển thể thành văn nghệ để thay đổi không khí tiết sinh hoạt,…

Tiết sinh hoạt lớp được tôi chú trọng, quan tâm và thực hiện nên hiệu quả sẽ mang lại là rất lớn trong quá trình dạy và học; nó mang lại giá trị rất cao trong quá trình giáo dục, rèn luyện và hoàn thiện nhân cách cho các em, cũng từ đó mà các em chú ý hơn vào các hành động cũng như lời ăn tiếng nói của mình, các em biết mình đúng, biết mình sai, và sữa sai cho bản thân. Đây chính là một biện pháp các em biết hoàn thiện bản thân.

Bằng những biện pháp trên tôi đã từng bước xây dựng một tập thể lớp 4A3 vững mạnh về các phong trào của trường. Cải thiện chất lượng theo chiều hướng tích cực. Các em say sưa với môn học, nghiêm túc trong giờ học hơn, đặc biệt là trong giờ học các em tập trung hơn, không làm việc riêng. Các em học sinh ngày càng ngoan ngoãn hơn, nề nếp hơn, các em biết tự phục vụ và tự giải quyết được các vấn đề của mình. Tất cả những thành tựu đó luôn là động lực cho cô trò chúng tôi hoàn thành mực tiêu năm học đã đề ra.

3. Kết quả thực hiện.

Một giáo viên chủ nhiệm tốt sẽ góp phần xây dựng nên một tập thể lớp tốt, nhiều giáo viên chủ nhiệm tốt sẽ xây dựng nên một nhà trường vững mạnh. Trong những tuần qua lớp tôi luôn là một trong những lớp có nhiều tiến bộ của trường. Về mặt kết quả học tập của học sinh lớp luôn đặt được nhiều kết quả tốt theo chuẩn kiến thức, kĩ năng từng môn học và hoạt động giáo dục; đến chất lượng mũi nhọn học sinh.

Với những biện pháp nêu trên trong quá trình thực hiện công tác chủ nhiệm. Trong lớp đã có nhiều chuyển biến tốt, sĩ số của lớp tiếp tục giữ vững, tỷ lệ chuyên cần hàng ngày luôn đạt, cả tháng không có học sinh vắng học. Tỷ lệ chuyên cần lớp theo chiều hướng tiến bộ. Công tác chủ nhiệm ngày một nâng lên, nề nếp lớp tốt hơn. Lớp học chan hòa cởi mở hơn nhiều, bởi do mối quan hệ cô trò đã bị rút ngăn khoàng cách, học sinh không còn áp lực trong học tập, học mà chơi, chơi mà học. Bởi vậy chất lượng học tập cũng như các hoạt động khác của lớp đã tiến bộ rất nhiều.

Từ những biện pháp làm tốt công tác chủ nhiệm, thực hiện trong thời gian gần đây đã đạt kết quả cao. Trong giai đoạn cuôi học kì 1 năm học 2020 -2021 tập thể lớp 4A3 đã đạt được kết quả cụ thể như :

Nôi dung

Tốt

Đạt

Cần cố gắng

Số lượng

Tỉ lệ

%

Số lượng

Tỉ lệ

%

Số

lượng

Tỉ lệ

%

Năng

lực

Tự phục vụ, tự quản

15

37

Tăng 12

25

63

Tăng 6

0

18

Giảm 18

Hợp tác

15

37

Tăng 10

23

57

Tăng 9

2

6

Giảm 19

Tự học, giải quyết

16

40

Tăng 13

21

52

Tăng 2

3

8

Giảm 15

Với những giải pháp cụ thể nêu trên đã đem lại cho tập thể lớp 4A3 đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ so với đầu năm học. Giải pháp đã đem lại hiệu quả trong việc phát triển kỉ năng, cũng như các hoạt động giáo dục khác mà nhiệm vụ năm học đã đề ra . Mặc dù những biện pháp này chưa đồng bộ nhưng tôi tin rằng nó luôn có kết quả tốt cho tất cả các lớp trong toàn trường.

4. Kết luận

Ở bậc tiểu học giáo viên chủ nhiệm là người đóng vai trò quyết định, người giữ vai trò then chốt trong việc tổ chức phát triển nhân cách, năng lực, trí tuệ của học sinh. Nếu giáo viên chủ nhiệm là người có kinh nghiệm dạy học, giàu đức tận tuỵ hy sinh cho" Tất cả vì học sinh thân yêu" thì sản phẩm của họ là những em học sinh tốt cả về phẩm chất, năng lực cũng như học lực.

Lao động của một giáo viên chủ nhiệm lớp ở Tiểu học là lao động sáng tạo không ngừng, sự sáng tạo đó đòi hỏi phải toàn diện: sáng tạo trong tổ chức các hoạt động học tập, vui chơi, trong sinh hoạt tập thể và đặc biệt là trong các biện pháp giáo dục đạo đức và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. Vì vậy chỉ có những giáo viên thực sự tâm huyết với nghề, thực sự thương yêu học sinh của mình thì mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Mỗi giáo viên muốn làm tốt công tác chủ nhiệm thì phải vừa là một giáo viên giỏi về chuyên môn, vừa phải là một nhà tâm lí giỏi để hiểu học sinh, để xử lí các tình huống rắc rối sao cho khéo léo, tế nhị và đạt hiệu quả giáo dục cao. Nếu giáo viên không tâm huyết với nghề, không có tinh thần trách nhiệm cao thì khó mà hoàn thành nhiệm vụ. Chất lượng học tập của học sinh, nhân cách, đạo đức, lối sống…của học sinh rồi sẽ ra sao? Chính vì hiểu rõ điều đó nên trong những năm học qua, song song với việc giảng dạy tốt các môn học theo qui định, tôi luôn cố gắng phấn đấu làm tốt vai trò, nhiệm vụ của một giáo viên chủ nhiệm lớp.

Trên đây là một số kinh nghiệm trong quá trình làm công tác chủ nhiệm lớp của tôi. Kính mong các quý cấp có ý kiến xây dựng để tôi hoàn thiện bản thân minh hơn.Tôi xin trân trọng cảm ơn!

Tôi xin chân thành cảm ơn./.

......, ngày .... tháng ... năm 20....

3. Mẫu SKKN: Một số biện pháp làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 4

Là người giáo viên dạy Tiểu học, không những truyền đạt cho học sinh về nội dung kiến thức các môn học, mà còn phải làm tốt công tác chủ nhiệm lớp. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên không chỉ có trình độ chuyên môn mà còn phải biết tổ chức, quản lý học sinh trong các hoạt động giáo dục.

LỜI GIỚI THIỆU
Là người giáo viên dạy Tiểu học, không những truyền đạt cho học sinh về nội dung kiến thức các môn học, mà còn phải làm tốt công tác chủ nhiệm lớp. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên không chỉ có trình độ chuyên môn mà còn phải biết tổ chức, quản lý học sinh trong các hoạt động giáo dục, đó là nhiệm vụ vô cùng quan trọng của người giáo viên. Muốn giáo dục cho một đứa trẻ được hoàn thiện quả không đơn giản, người giáo viên phải bao quát tất cả các kĩ năng, kiến thức, nội dung lẫn phương pháp khi đứng trên bục giảng. Để nhận thấy được tầm quan trọng đó, bản thân tôi luôn cần phải trang bị cho mình một số biện pháp, phương pháp và linh hoạt xử lí mọi tình huống diễn ra trong quá trình giảng dạy. Tôi đã 13 năm làm công tác chủ nhiệm và đặc biệt là 11 năm được chủ nhiệm lớp 4, tôi đúc rút cho mình một số biện pháp về làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 4. Năm nay tôi mạnh dạn viết Sáng kiến kinh nghiệm, với đề tài: “Một số biện pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 4” giới thiệu cùng với bạn bè đồng nghiệp gần, xa. Góp một phần nhỏ vào công tác chủ nhiệm học sinh Tiểu học nói chung và chủ nhiệm lớp 4 nói riêng, nhằm đưa ra một số biện pháp tốt nhất để giáo dục học sinh nói chung và mỗi học sinh mình chủ nhiệm nói riêng một cách hoàn thiện nhất. Rất mong được sự quan tâm, giúp đỡ, góp ý chân thành từ quý cấp lãnh đạo và bạn bè đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn!

A – PHẦN MỞ ĐẦU

I – LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

Đất nước ta đang trong thời kì phát triển và hội nhập với các nước trên thế giới, nhất là phát triển kinh tế trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, thì ngành giáo dục là ngành đầu tiên khai trương mở lối. Vì vậy, ngành giáo dục chúng ta luôn chú trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Trong những năm gần đây, bản thân tôi nhận thấy rằng đạo đức, lối sống bị suy thoái ngày một gia tăng, lứa tuổi vị thành niên vi phạm Pháp luật rất nhiều. Trong nhà trường phổ thông nói chung và Tiểu học nói riêng, các em còn rất nhỏ, vốn hiểu biết chưa nhiều, các em như “Tờ giấy trắng” viết như thế nào thì nó in đậm, in sâu khó xóa mờ. Các em rất thơ ngây, hiếu động, dễ bị dụ dỗ, nghe theo. Mặt khác trong học tập có một số em còn ham chơi, ít chú ý, học hay quên, ý thức tự giác chưa cao. Xét thấy nhiệm vụ của mình cũng rất lớn trong việc giáo dục và hoàn thiện nhân cách cho mỗi con người trong xã hội, bắt đầu là những em học sinh mà mình đang chủ nhiệm. Hằng ngày, hằng giờ đau đáu, trăn trở, làm thế nào để có kết quả tốt nhất cho việc hoàn thiện một đứa trẻ, trở thành một người công dân tốt của gia đình và xã hội? Xuất phát từ những lý do trên, mà bao nhiêu năm làm công tác chủ nhiệm, tôi luôn tìm cho mình những biện pháp tối ưu nhất để áp dụng vào công tác chủ nhiệm của mình sao cho đạt được kết quả như mong muốn, sao cho từng “Mầm non của đất nước” phát triển tươi tốt, đơm hoa kết trái cho đời. Đó cũng là lý do tôi chọn viết Sáng kiến kinh nghiệm, đề tài: “Một số biện pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 4”

II. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI.

1- Mục tiêu:

– Tìm hiểu thực trạng và nguyên nhân học sinh còn hạn chế về các nề nếp trong khi đi học, việc thực hiện nhiệm vụ của người học sinh, phẩm chất đạo đức chuẩn mực và các kĩ năng sống.

– Đề xuất “Một số biện pháp về làm tốt công tác chủ nhiệm” để giúp các em học sinh trở thành một người có năng lực, có phẩm chất đạo đức, lối sống chuẩn mực, nhân cách tốt trong xã hội.

2- Nhiệm vụ: Do thời gian nghiên cứu còn hạn chế nên tôi chỉ hướng tới giải quyết các nhiệm vụ sau:

– Tìm hiểu nguyên nhân học sinh còn hạn chế về các nề nếp trong khi đi học, việc thực hiện nhiệm vụ của người học sinh, phẩm chất đạo đức chuẩn mực và các kĩ năng sống.

– Từ thực trạng và kết quả nghiên cứu tìm ra những nguyên nhân ảnh hưởng đến việc làm công tác chủ nhiệm lớp 4 của giáo viên trong quá trình dạy- học trên lớp.

– Đề xuất một số biện pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm, nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng về mọi mặt của lớp mình chủ nhiệm.

III. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU.

1. Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu đề tài này là một số biện pháp, mức độ hạn chế của học sinh về các nề nếp trong khi đi học, việc thực hiện nhiệm vụ của người học sinh, phẩm chất đạo đức chuẩn mực và các kĩ năng sống của từng đối tượng học sinh trong tập thể lớp 4B trường TH ...........

2. Khách thể nghiên cứu:

Đề tài này tôi tiến hành nghiên cứu 22 em học sinh lớp 4B, trường TH .......... – Huyện ......... – Tỉnh ..........

IV. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU.

– Phạm vi đề tài chỉ nghiên cứu thực trạng hạn chế của học sinh về các nề nếp trong khi đi học, việc thực hiện nhiệm vụ của người học sinh, phẩm chất đạo đức chuẩn mực và các kĩ năng sống. Cụ thể là 22 em học sinh lớp 4B tôi chủ nhiệm. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế của học sinh về các nề nếp trong khi đi học, việc thực hiện nhiệm vụ của người học sinh, phẩm chất đạo đức chuẩn mực và các kĩ năng sống là do nhận thức, ý thức tự giác, giao tiếp còn kém và những đề xuất nhằm hoàn thiện năng lực, phẩm chất, nhân cách đạo đức chuẩn mực của từng học sinh lớp 4B trường TH .......... – Huyện ..........

– Rút ra bài học kinh nghiệm cùng với kết quả nghiên cứu của đề tài.

– Thời gian thực hiện nghiên cứu và áp dụng từ đầu tháng 8/20.... đến cuối tháng 3/20......

V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.

– Phương pháp quan sát

– Phương pháp điều tra, trò chuyện.

– Phương pháp nêu gương.

– Phương pháp tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh TH.

– Phương pháp phân tích, tổng hợp, xử lý số liệu.

– Phương pháp đọc sách tham khảo và tài liệu.

B. PHẦN NỘI DUNG

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:

1. Lý luận khoa học:

Trong lịch sử nhân loại, giáo dục đã không ngừng phát triển và là động lực để phát triển kinh tế xã hội; giáo dục đã phục vụ đắc lực cho xã hội, kịp thời điều chỉnh qui mô, thích ứng nhanh với những yêu cầu biến đổi nguồn nhân lực. Ngược lại, sự phát triển nhanh của kinh tế xã hội, của khoa học kỹ thuật cũng đã tác động trở lại để phát triển giáo dục. Hiện nay các nước phát triển, cũng như các nước đang phát triển đều quan tâm cải cách giáo dục nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập hóa, quốc tế hóa. Đây là thời cơ và cũng là thách thức đối với quốc gia đang phát triển (trong đó có Việt Nam). Một mặt nó tạo ra cơ hội cho giáo dục phát triển do nhu cầu về nguồn nhân lực có trí tuệ ngày càng tăng. Mặt khác, kinh tế đòi hỏi giáo dục đáp ứng nhu cầu trước mắt và đón đầu, định hướng đúng cho tương lai. Một ngôi nhà vững chắc thì cần có một nền móng vững chắc. Bởi thế ngay từ trường Tiểu học, học sinh phải được học đầy đủ các môn học để phát triển toàn diện. Ngoài việc lĩnh hội các kiến thức môn học, các em còn cần được trang bị cho mình nhiều kĩ năng khác như: giao tiếp, kĩ năng sống, xử lý tình huống, biết phân biệt đúng sai,…thì mới tạo tiền đề cho các em bước tiếp lên các cấp học cao hơn, tiến đến hoàn thiện nhân cách cho các em sau này.

2. Lý luận thực tiễn:

Là người giáo viên dạy Tiểu học, hầu như chịu hoàn toàn trách nhiệm về lớp mình phụ trách, trực tiếp giảng dạy các môn học, đồng thời tổ chức, hướng dẫn tất cả các hoạt động giáo dục. Trong những giờ tới trường giáo viên chủ nhiệm lúc nào cũng ở cạnh các em, là người “mẹ thứ hai” của các em, luôn gần gũi, dõi theo mọi hành động, hành vi của từng em trong lớp. Học sinh tiểu học còn chưa biết hành động độc lập, giáo viên phải là người tổ chức các hoạt động, làm sao cho từng em học sinh có được công việc thích hợp và bộc lộ được khả năng của mình. Mở rộng và khơi sâu trí thức, rèn luyện kĩ năng, giáo dục ý thức tự giác và ứng xử, thỏa mãn nhu cầu, kích thích sự hứng thú, phát triển năng lực của học sinh. Trong mắt các em, giáo viên chủ nhiệm là “Thần tượng”, là người mà các em tin tưởng tuyệt đối nhất, cô giáo nói gì các em cũng nghe, vâng lời cô giáo là cái duy nhất có ở tất cả các em học sinh. Chính vì thế mà người giáo viên chủ nhiệm phải chú trọng từng lời nói, hành động, việc làm chuẩn mực nhất trước học sinh, là tấm gương sáng để các em noi theo. Qua công tác chủ nhiệm, người giáo viên tiểu học góp phần to lớn trong việc hình thành và phát triển toàn diện cho các em, giúp các em trở thành người có ích cho xã hội, gia đình và bản thân, để các em trưởng thành, lớn lên, vững vàng bước vào đời.
II. THỰC TRẠNG:

1.Thuận lợi, khó khăn:

1.1. Thuận lợi:

– Năm học 20....-20..... tôi được phân công chủ nhiệm lớp 4B. Với tổng số: 22; nữ: 14; Dân tộc: 1; Khuyết tật:1. Số lượng học sinh không đông, dân tộc chiếm ít, việc quản lý, giáo dục các em tương đối thuận lợi.

– Lớp được học 2 buổi/ngày, Toán được ôn tập 3 tiết/tuần, tiếng Việt 2 tiết/tuần. Nên có thời gian ổn định để kèm cặp các em yếu.

– Các em phần đông được gia đình quan tâm, trang bị tương đối đầy đủ về trang phục, đồ dùng học tập, sách giáo khoa,….

– Mặt khác phòng học khang trang, thoáng mát, cơ sở vật chất đầy đủ.

– Hầu hết các em đều cố gắng học tập, biết vâng lời, lễ phép với cô giáo.

1.2. Khó khăn:

– Địa bàn thuần nông, thời gian đi làm là nhiều, ít có thời gian dành cho sự dạy dỗ, chỉ bảo cho con cái.

– Lớp có 3 em thuộc hộ cận nghèo và một số em gia đình kinh tế còn khó khăn nên ảnh hưởng đến cuộc sống của các em, sự chăm lo về mọi mặt không được đầy đủ, chu đáo. Có 6 em nhà ở xa trường, việc đi lại tốn nhiều thời gian, đi suốt đoạn đường xa, mệt mỏi nên ảnh hưởng tới sức khỏe khi các em đến lớp.

– Mặt khác trí tuệ các em không đồng đều, khả năng nhận thức (tiếp thu) cũng không đồng đều. Có một số em không chú ý, không có thái độ tích cực học, mà đến lớp như một thói quen, với thái độ lơ đễnh. Khi cô giáo giảng xong, hỏi lại là không biết gì, chính vì vậy những em đó thường hay tự ti, mặc cảm, sợ sệt, nhút nhát, chưa biết thể hiện mình.

– Đa số vốn giao tiếp của các em rất hạn chế, lời nói chưa được to, rõ ràng, hay có kiểu nói rất nhỏ, nói lắp bắp, không thể nghe được.

* Điều tra thực trạng

Tiến hành nghiên cứu tìm hiểu về quá trình tiếp thu bài, học bài và những hành vi ứng xử, giao tiếp, kĩ năng sống, sự hiểu biết,…trong lớp học của 22 em học sinh lớp 4B, trường Tiểu học ...........

Vào đầu năm, qua tìm hiểu, trao đổi, kiểm tra về tình hình chung của tất cả các em học sinh trong lớp, tôi nhận thấy: Lớp có một số em chưa tự giác học tập, trong giờ học còn lơ là, ít chú ý, tiếp thu chậm, tự ti, mặc cảm, trầm tính, không năng động,…; Một số em còn mang tính là quậy phá, hay chọc bạn, đánh bạn; Một số em chưa thực sự ngoan, nói năng còn trống không, chưa lễ phép; Rất nhiều em viết chữ còn sai lỗi nhiều, chưa đẹp; Trang phục chưa mua sắm đầy đủ;… Đó là thực trạng mà bản thân tôi luôn lo lắng, băn khoăn khi làm công tác chủ nhiệm lớp 4B trong năm học này. Do thực hiện áp dụng đề tài, nên sau hai tuần đầu năm học, qua trao đổi, tìm hiểu, tôi hướng tới một vài số liệu có nội dung chủ yếu sau:

Tổng số HSNội dung tìm hiểuSố lượngTỉ lệ
22
(1 KT)
1) Học sinh chưa tự giác học bài cũ.
2) Học sinh viết chữ sai lỗi nhiều, chưa đẹp.
3) Học sinh học chưa chú ý, tiếp thu chậm.
4) Học sinh nói trống không, chưa lễ phép.
5) Học sinh còn quậy phá, chọc bạn, đánh bạn.
6) Học sinh cá biệt.
7) Học sinh chưa có trang phục đầy đủ.
8) Học sinh còn trầm, tự ti, rụt rè.
9) Học sinh có vốn kĩ năng sống hạn chế.
10) Học sinh hay quên vở, sách, đồ dùng,…
10
7
8
12
5
2
4
6
9
7
47,6
33,3
38,0
57,1
23,8
9,5
19,0
28,5
42,9
33,3
Kết quả trên cho thấy, tỉ lệ học sinh thuộc các nội dung trên chiếm nhiều so với tổng số học sinh của lớp.

2. Thành công- hạn chế

2.1. Thành công: Khi có ý tưởng và thực hiện đề tài này, tôi thấy đối với đối tượng học sinh của lớp 4B sẽ có hiệu quả cao hơn, dựa vào những thuận lợi trên và sự quan tâm của giáo viên cũng như một số biện pháp, giải pháp và xử lý linh hoạt phù hợp với đối tượng của học sinh, nắm bắt được tâm sinh lý của học sinh. Chắc chắn cuối năm, lớp sẽ đạt kết quả cao trong học tập, các em sẽ ngoan, đi vào nề nếp tốt, bước lên các lớp tiếp theo, sẽ đem lại thành công như mong muốn.

2.2. Hạn chế: Trong quá trình dạy học trên lớp, hằng ngày cô trực tiếp tổ chức và hướng dẫn các em về mọi mặt tôi thấy một số em khả năng giao tiếp kém, tiếp thu bài còn chậm, có thái độ thờ ơ. Các em chưa tự tin, mạnh dạn trong tŕnh bày ư kiến của ḿnh. Ngược lại trốn tránh, mặc cảm, nhút nhát, sợ sệt. Cha mẹ các em hay đi làm trên nương rẫy, nên có việc gì muốn gặp để trao đổi, liên lạc sẽ không được kịp thời. Một số hạn chế trên, tôi cảm thấy việc áp dụng đề tài cũng gặp ít, nhiều hạn chế.

3. Mặt mạnh, mặt yếu của vấn đề.

3.1. Mặt mạnh:

Tôi là một giáo viên đã làm công tác chủ nhiệm liên tục 13 năm, chủ nhiệm lớp 4 được 11 năm, do đó tôi cũng có nhiều cơ hội trau dồi, học hỏi, để đúc rút kinh nghiệm, nhiều biện pháp tốt trong công tác chủ nhiệm của mình.

Ngay từ đầu năm tôi đã nhận thấy đa số các em học sinh của lớp ngoan, vâng lời luôn có sự phấn đấu. Khi các em phạm lỗi sai là biết nhận lỗi và sửa lỗi ngay. Các em biết lắng nghe, chia sẻ, đoàn kết, giúp đỡ bạn bè trong lớp và trong trường. Các em ham học, muốn tiến bộ, muốn cô chỉ bảo, làm mẫu. Rất thích thú khi làm được điều đúng, được cô giáo khen.

Bản thân luôn được các em yêu quý, kính trọng, vâng lời. Cô phân công, giao việc các em đều nghe và chấp hành tốt. Mặt khác được cha mẹ các em tin tưởng, sẵn sàng hỗ trợ, kết hợp chặt chẽ với cô để giáo dục con em họ, tạo điều kiện tốt nhất để giúp đỡ cô trong công tác chủ nhiệm lớp.

3.2. Mặt yếu:

– Một số em ham chơi, không chăm học, không tích cực, không biết, không hiểu là các em càng không chịu học, không để ý gì đến những lời giảng giải phân tích của cô.

– Một số em tâm trạng không được tốt, vốn giao tiếp không có, năng lực hạn chế, sức khỏe không đảm bảo, thể trạng gầy, nhỏ so với các bạn đồng trang lứa.

– Gia đình các em đa số đi làm về, là nghỉ ngơi một lúc rồi đi ngủ, không còn thời gian bảo ban các em xem ti vi, đọc báo, đọc sách,…để mở rộng tầm hiểu biết, tầm nhìn.

4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động

Từ thực trạng mà học sinh còn hạn chế về sự tiếp thu bài, ít học bài, ít chú ý trong giờ học.

Kĩ năng sống, hành vi ứng xử, giao tiếp còn hạn chế,… là do các nguyên nhân, các yếu tố tác động sau:

4.1. Về tâm sinh lí:

Với lứa tuổi lớp 4, các em đang chuẩn bị bước sang tuổi dậy thì, nên có sự thay đổi về thể chất lẫn tâm sinh lý,…Các em mới vừa bước lên lớp 4, có những thay đổi về môn học, kiến thức, các hoạt động khác cũng được nâng cao, dẫn đến các em cũng có phần lo sợ, hoang mang. Mặt khác kiến thức lớp dưới các em học xong rồi quên, không nắm chắc để áp dụng, có nhiều em không còn nhớ một nội dung gì ở dưới lớp 1,2,3 mà mình đã học. Một số em hiếu động, hay bắt nạt bạn, chọc bạn, ít chịu ngồi im. Ở lứa tuổi các em đa số là ham chơi, ít chú ý, thói quen là để cô cùng các bạn giải quyết vấn đề xong, rồi có sẵn để ghi vào. Cách giao tiếp bằng ngôn ngữ của các em chưa hoàn chỉnh, nói năng còn cộc lốc. Việc thực hiện đi vào nề nếp các em vẫn chưa coi trọng, cứ làm những gì mình thích, không quan tâm gì đến nội quy của trường, lớp.

4.2. Về hoàn cảnh gia đình của học sinh:

Hầu hết học sinh của lớp tôi chủ nhiệm sống trong môi trường là vùng nông thôn, nên suy nghĩ và nhận thức của các em còn hạn hẹp. Điều kiện học ở nhà của các em còn thiếu thốn: Thiếu sự hướng dẫn bảo ban của cha mẹ, vì phần lớn cha mẹ các em trình độ còn thấp, chỉ biết việc trên nương rẫy, ít có thời gian giáo dục, dạy dỗ con cái hay đôn đốc việc học hành của con; Thiếu thốn về vật chất, góc học tập chưa phù hợp hoặc có em không có. Có em, mẹ bị mất, sống với bố, nên bị thiệt thòi rất nhiều về tình cảm, tinh thần và sự chăm sóc.

Cha mẹ các em chưa chú trọng đến việc rèn cho con mình nói năng, xưng hô như thế nào cho lễ phép, cho lịch sự. Con cái giao tiếp với ông bà, cha mẹ, anh chị em của mình đa số trả lời cụt ngủn chưa thành câu, lâu dần thành thói quen.

4.3. Về phía giáo viên:

Về phía giáo viên thì chưa nắm bắt được tâm lý của học sinh, khi hỏi các em điều gì là yêu cầu các em trả lời được, mà các em không có khả năng hình dung, suy nghĩ như mình mong muốn, cứ đặt ra những câu hỏi khuôn mẫu, áp đặt học sinh yêu cầu học sinh phải trả lời theo ý của mình. Phương pháp truyền thụ chưa phù hợp. Đôi khi các em trả lời chưa đúng thì bỏ qua, gọi em khác trả lời là xong, chưa thực sự quan tâm đến việc tại sao các em trả lời chưa đúng ? Chưa đặt những câu hỏi để phát huy tính tự giác tích cực của học sinh. Đôi khi giáo viên chưa thực sự gần gũi, thân mật với các em, nên các em phần thì sợ, phần thì chây lì. Kiến thức lớp 4 thì hơi nặng và nhiều, nên việc truyền thụ cho các em chiếm hết thời gian, dẫn đến không còn thời gian dành cho các em. Vì vậy mà đôi khi việc xử lý một số tình huống chưa kịp thời, học sinh phạm lỗi thì cho qua, chưa có sự bảo ban tỉ mỉ.

III. CÁC GIẢI PHÁP, BIỆN PHÁP:

1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp.

Bản thân tôi cảm thấy công tác chủ nhiệm vô cùng nan giải. Nó có vai trò quan trọng trong việc giáo dục và đào tạo một em học sinh ở lứa tuổi tiểu học, là nền móng để cho các em lớn lên và trưởng thành, là một người có năng lực và phẩm chất đạo đức chuẩn mực. Vì vậy mục đích các biện pháp, giải pháp của đề tài này là muốn nâng cao chất lượng học tập, rèn ý thức tự giác, tự quản, rèn các kĩ năng sống, giáo dục nhân cách, phẩm chất đạo đức cho các em học sinh tiểu học nói chung và các em học sinh của lớp mình đang chủ nhiệm nói riêng. Sao cho cuối năm đạt kết quả cao trong mọi lĩnh vực.

2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.

2.1. Nội dung: Các biện pháp, giải pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm thì rất nhiều và đa dạng, nhưng bản thân tôi xin được đúc kết lại với các nội dung chính, quan trọng nhất, cụ thể như sau:

– Triển khai công tác xây dựng nề nếp đầu năm.

– Xây dựng “Lớp học thân thiện, học sinh tích cực”

– Một số phương pháp giúp các em học tốt ở lớp và ở nhà.

– Phối kết hợp chặt chẽ với Ban giám hiệu, Đội và các giáo viên bộ môn.

2.2. Cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:

2.2.1. Triển khai công tác xây dựng nề nếp đầu năm: Công tác xây dựng nề nếp lớp học là nhiệm vụ hàng đầu của một giáo viên chủ nhiệm, muốn làm tốt công tác chủ nhiệm, người giáo viên cần phải đưa tập thể lớp đi vào nề nếp ngay từ đầu năm, thì lớp học đó mới đạt được nhiều thành tích trong suốt năm học. Để làm tốt công tác xây dựng nề nếp của lớp, tôi hướng tới thực hiện những việc làm sau:

a) Nắm thông tin học sinh: Việc nắm các thông tin của học sinh đầu năm là rất cần thiết. Có được thông tin học sinh giúp cho giáo viên chủ nhiệm phục vụ cho việc ghi chép hồ sơ giáo viên, nắm được hoàn cảnh gia đình, lực học của năm trước, việc liên lạc với gia đình các em,…Vì thế ngay từ đầu năm, tôi đã làm Phiếu ghi thông tin học sinh, phát cho từng em, hướng dẫn các em ghi đầy đủ, rõ ràng, sau đó thu lại để phục vụ cho công tác chủ nhiệm lớp của mình. Mẫu phiếu như sau:

PHIẾU GHI THÔNG TIN HỌC SINH
1) Họ và tên:…………………………… Dân tộc:…………………………………..

2) Ngày tháng năm sinh:…………………………………………………………

3) Nơi sinh:…………………………. Quê quán:………………………………..

4) Địa chỉ: Số nhà:….Đội:…Thôn:…Xã:………Huyện:………………………..

(Số điện thoại gia đình:…………………………)
5) Họ và tên bố:………………….Năm sinh:…….Nghề nghiệp:………………..

Họ và tên mẹ:……………… …Năm sinh:…….Nghề nghiệp:……………….

6) Sống với: Bố + mẹ: o ;Bố: o ; Mẹ: o ; Ông, bà: o ;Người đỡ đầu: o

7) Hoàn cảnh gia đình: (khá giả, đủ ăn, cận nghèo, nghèo):…………………….

8) Kết quả học tập cuối lớp 3: (HT, TH tốt, HT xuất sắc):………………………

9) Những môn học yêu thích:……………………………………………………

10) Góc học tập riêng ở nhà: (Có, không, học chung):………………………….

11) Sở thích (Năng khiếu):……………………………………………………….

b) Xử lý thông tin:

Sau khi thu phiếu điều tra, tôi đã có đầy đủ các thông tin của học sinh, phục vụ cho những việc sau:+ Ghi chép vào hồ sơ: Tôi đã ghi chép đầy đủ thông tin cần thiết vào sổ theo dõi chất lượng, sổ chủ nhiệm, sổ liên lạc với gia đình học sinh,…Cập nhật phần mềm smax 3.0 (Quản lý học sinh).

+ Xếp chỗ ngồi học sinh: Tôi dựa vào kết quả học lực của các em, phần nào nắm được những em học khá, giỏi và yếu kém, để xếp chỗ ngồi cho hợp lý như: Nam ngồi xen kẽ nữ, em khá giỏi ngồi với em yêu kém, kết hợp phân công đôi bạn cùng tiến,…

+ Trao đổi, chia sẻ: Tôi chủ động đến gặp một số em, để hỏi thăm thêm về gia đình, hoàn cảnh sống thường ngày của gia đình,…động viên, chia sẻ, giúp đỡ.

c) Bầu ban cán sự lớp: Bầu ban cán sự lớp là việc cần làm ngay từ đầu năm, đây là một trong những điều kiện để các em thể hiện mình, có ý thức tự quản tốt, có ý thức đi vào nề nếp. Do đó tôi đã sắp xếp thời gian hợp lý nhất, cho các em tổ chức bầu ban cán sự lớp theo quy định, chọn ra những em có năng lực tốt để đảm nhận nhiệm vụ của lớp giao phó, sau đó phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên trong ban cán sự.

2.2.2. Xây dựng “Lớp học thân thiện, học sinh tích cực”:

Thực hiện Chỉ thị số 40/CT-BGĐT của Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo về phát động phong trào thi đua và kế hoạch số 307/KH-BGD&ĐT ngày 22/07/2008 của Bộ giáo dục và đào tạo về kế hoạch triển khai “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” nhằm nâng cao giáo dục toàn diện, đặc biệt là giáo dục đạo đức, nhân cách, kĩ năng sống cho học sinh. Qua nhiều năm thực hiện bản thân tôi thấy nó đem lại hiệu quả rất cao cho ngành giáo dục nói chung và nhất là trường Tiểu học nói riêng. Mà để xây dựng “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” thì mỗi giáo viên chủ nhiệm lớp phải xây dựng “Xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực”. Dựa vào 5 nội dung được quy định trong kế hoạch của Bộ, tôi đã thực hiện như sau:

a)Trang trí lớp học thân thiện: Phòng học là nơi các em học tập, vui chơi. Bởi thế mà ngoài việc có một phòng học khang trang, thoáng mát, đầy đủ tiện nghi, còn cần có phòng học trang trí đẹp, thân thiện, gần gũi với các em, tạo cho các em sự thích thú, say mê, niềm phấn khởi khi ngồi vào lớp học. Cho nên ngay từ đầu năm tôi cùng các em đã trang trí lớp học rất đẹp, với nhiều nội dung, hình ảnh phong phú, đa dạng phục vụ cho việc học tập tốt hơn, mang lại nhiều niềm vui hơn cho các em mỗi ngày đến lớp.

b) Xây dựng mối quan hệ Thầy – trò, bạn bè trong và ngoài lớp:

* Mối quan hệ giữa thầy-trò: Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy và học, quan hệ thầy – trò đã trở thành thân thiện, gần gũi như là những người bạn thực sự, người thầy chỉ là người tổ chức, hướng dẫn cho các em trong quá trình dạy học, thế nên việc xây dựng mối quan hệ thầy trò quả không khó đối với bản thân tôi. Cụ thể là tôi luôn tạo cho các em mối quan hệ mật thiết, gần gũi, nói năng nhỏ nhẹ, dịu dàng, không để các em phải sợ sệt khi đứng trước mặt giáo viên, tôi luôn chủ động chỉ bảo, tôi thường nói: “Các em muốn có ý kiến gì thì cứ mạnh dạn trao đổi với cô, cô sẽ luôn giúp đỡ, hỗ trợ các em trong học tập cũng như trong cuộc sống”. Trong lớp có vấn đề xảy ra giữa các em, tôi luôn từ từ giải quyết công bằng, hợp tình, hợp lý. Khen, thưởng những em có thành tích cũng như phạt, răn đe rõ ràng đối với những phạm lỗi, nhưng trong quá trình răn đe, giáo dục, tôi vẫn động viên, khuyến khích tìm những điểm tốt của các em để nêu gương, sau đó mới đưa ra những lỗi phạm và yêu cầu các em không được vi phạm nữa. Đối với những em học sinh khuyết tật và cá biệt, tôi luôn giáo dục nhẹ nhàng, chỉ bày tỉ mỉ, thể hiện sự cảm thông, chia sẻ, sự nhân ái, bao dung sẵn sàng tha thứ, bỏ qua những lỗi lầm mà các em đã phạm. Chính vì thế mà tôi luôn được các em kính trọng, yêu quý và vâng lời, từ đó các em rất tự tin, phấn khởi, kích thích sự ham học, thích thú khi đến lớp.

* Mối quan hệ bạn bè trong và ngoài lớp: Tình bạn là tình cảm quý nhất của mỗi con người chúng ta, ở nhà chúng ta có tình cảm của ông bà, cha mẹ, anh chị em, họ hàng,….đến lớp chúng ta không thể không có tình bạn. Có nhiều bạn tốt thì chúng ta luôn tự hào và là điều kiện giúp chúng ta vươn lên trong cuộc sống, người ta thường nói: “Học thầy không tày học bạn”, bạn bè cần phải giúp đỡ lẫn nhau, vui buồn có nhau, phải biết thương yêu, đoàn kết, chia sẻ, cùng nhau phấn đấu trong học tập, trong cuộc sống, sao cho có kết quả cao nhất. Để xây dựng tốt mối quan hệ bạn bè trong và ngoài lớp của học sinh lớp tôi chủ nhiệm, tôi đã giáo dục các em những điều sau:

– Trong học tập, các em phải biết giúp đỡ, hợp tác với nhau, bạn học giỏi chỉ bài cho bạn học yếu, bạn học chưa giỏi nên hỏi, trao đổi với bạn biết hơn mình. Các em không được ích kỉ, hẹp hòi.

– Trong giao tiếp các em phải nói năng lịch sự, dễ nghe, nói từ tốn, nói lời hay ý đẹp, không được xúc phạm bạn, có điều gì không hài lòng hay bạn phạm lỗi với mình thì nói cho bạn hiểu để bạn sửa sai, hoặc nữa là trình với cô để cùng nhau giải quyết.

– Trong cuộc sống các em cần phải biết đoàn kết, chia sẻ giúp đỡ những bạn còn khó khăn hơn mình, chia sẻ nỗi buồn, niềm vui cùng bạn,…thương yêu nhau như anh, chị em cùng một nhà.

– Tuyệt đối không được chọc bạn, đánh nhau với bạn, xúc phạm bạn, không nói tục, chửi thề. Không được nói xấu về bạn, không chia rẽ, chia bè phái hoặc không chơi với bạn này, bạn kia,…

c) Tổ chức, tham gia các hoạt động tập thể: Tham gia các hoạt động tập thể giúp cho các em rất nhiều về kĩ năng sống, các em có cơ hội thể hiện mình trước đám đông, thể hiện những tài năng, năng lực và kĩ năng giao tiếp của mình. Qua đó giáo dục các em về sự hiểu biết nhiều lĩnh vực của cuộc sống, phẩm chất, nhân cách, đạo đức,…Chính vì thế trong công tác chủ nhiệm, tôi luôn chú trọng việc tham gia, tổ chức cho các em hoạt động tập thể theo quy định, lịch của trường, lớp. Các giờ hoạt động tập thể, hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động thể dục thể thao, vui chơi, múa hát,…tôi đều tạo điều kiện cho các em được luyện tập, tham gia đầy đủ và có hiệu quả nhất.

2.2.3. Một số phương pháp giúp các em học tốt ở lớp và ở nhà.

Làm công tác chủ nhiệm, ai cũng muốn học sinh của mình học giỏi, có nhiều thành tích trong học tập và cuối năm đạt được kết quả như mong muốn. Để được như thế, người giáo viên cần phải có trình độ chuyên môn, phải có phương pháp dạy học phù hợp, linh hoạt giúp các em lĩnh hội kiến thức một cách có hiệu quả nhất. Cho nên ngoài việc hướng dẫn các em học ở lớp, thì cần phải học tốt khi ở nhà. Do đó tôi đã đưa ra một số phương pháp giúp các em học tốt ở lớp và ở nhà như sau:

a) Học ở lớp: Dựa vào kết quả điều tra thông tin học sinh đầu năm, tôi đã xếp chỗ ngồi cho các em hợp lý, em khá giỏi ngồi gần em yêu kém, kết hợp phân công đôi bạn cùng tiến, tạo điều kiện cho các em học tập theo nhóm đôi, từ đó các em giúp đỡ, hỏi bài nhau trong những lúc giải quyết bài tập khó. Trong giờ học tôi luôn bao quát lớp, không để tình trạng các em không chú ý. Giảng giải thật kĩ những bài tập khó, dùng nhiều phương pháp dạy học linh hoạt như: Phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp hỏi đáp, phương pháp kĩ thuật khăn trải bàn, … kích thích sự hứng thú, tích cực và tính tự học, sáng tạo của học sinh. Mặt khác tôi luôn biểu dương, khen ngợi những em hăng say trong giờ học, động viên, giúp đỡ kịp thời những em còn chưa trả lời đúng, hay tự tin, mặc cảm để các em cố gắng vươn lên.

Thực hiện Thông tư số 30/2014/TT-BGD-ĐT ngày 28/08/2014 của Bộ giáo dục và đào tạo về việc đánh giá học sinh tiểu học. Thực hiện Công văn hướng hẫn thực hiện Thông tư 30 số 6169/BGDĐT- GDTH ngày 27/10/2014. Bản thân tôi luôn thực hiện đúng và kịp thời như trong Thông tư chỉ đạo, không tạo áp lực cho các em khi học, mà ngược lại kích thích, động viên các em rất nhiều. Ngoài việc tổ chức kiểm tra, đánh giá các em bằng lời nhận xét, tôi còn tổ chức cho các em nhận xét lẫn nhau để các em rút ra được bài học kinh nghiệm khi học tốt cũng như học chưa tốt, các em kịp thời sửa chữa, chấn chỉnh ngay, còn thi đua, phấn đấu cao trong học tập.

b) Học ở nhà: Ngoài việc học tốt ở lớp, nếu các em về nhà không ôn tập, không học lại thì dẫn tới dễ quên, mạch kiến thức sẽ bị hỏng, không thực hành được tốt. Vậy việc học bài và làm bài tập thêm ở nhà cũng rất cần thiết, phần nào giúp các em nắm vững kiến thức ở lớp, học thuộc bài khi cô kiểm tra bài cũ,…Thế nên tôi đã có một số biện pháp giúp các em học tốt khi ở nhà, đó là:

+ Lập thời gian biểu hợp lý nhất chung cho tất cả các em.

+ Thường xuyên kiểm tra bài cũ, việc làm bài tập thêm ở nhà.

+ Phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh, để trao đổi tình hình học tập của các em, như là gọi điện, liên lạc bằng sổ, trực tiếp đến nhà,…Đặc biệt quan tâm trao đổi thường xuyên với phụ huynh học sinh cá biệt, những em còn yếu kém, tạo mọi điều kiện giúp đỡ kịp thời.

2.2.4. Phối kết hợp chặt chẽ với Ban giám hiệu, Đội và các giáo viên bộ môn.

Công tác phối kết hợp, là một trong những biện pháp hữu hiệu, nhằm răn đe, quán triệt có hiệu quả cao. Đôi khi có những công việc, nội dung hay tình huống mà một mình giáo viên không thể giải quyết được thì cần phải nhờ sự hỗ trợ của Ban giám hiệu nhà trường, hoặc Đội và các giáo viên bộ môn nếu có thể. Vì vậy, khi làm công tác chủ nhiệm, tôi luôn nhờ sự tư vấn, chỉ đạo từ phía Ban giám hiệu nhà trường cho phép tôi mới thực hiện, gặp trường hợp nào cần đến sự hỗ trợ xử lư của Ban giám hiệu là tôi lập tức báo cáo, cùng với Ban giám hiệu để có biện pháp tốt và hay nhất.

Về phía Đội, tôi luôn kết hợp giáo dục các em cùng với anh Tổng phụ trách Đội, vì chức năng của Đội là tổ chức lễ chào cờ, các buổi sinh hoạt tập thể, các cuộc thi, các phong trào,…Cho nên để phát huy khả năng, năng lực của các em, tôi luôn cộng tác với anh Tổng phụ trách tạo cơ hội, điều kiện cho các em thể hiện. Bên cạnh đó, nếu có những những em chưa ngoan, phạm lỗi thì tôi cũng kết hợp với Đội để tạo sức răn đe, giáo dục có hiệu quả.
Ngoài kết hợp với Ban giám hiệu, Đội tôi còn phối kết hợp với các thầy, cô giáo bộ môn, như là hỏi thăm về tình hình học tập, các hoạt động khác mà các thầy cô giáo bộ môn phụ trách, đồng thời kết hợp, đưa ra những biện pháp phù hợp giáo dục các em trong tất cả các giờ học trên lớp dù không có giáo giên chủ nhiệm, các em cũng vẫn ngoan, vâng lời, học tập và tham gia tốt mọi hoạt động.

3. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp.

– Năm học này tôi được tiếp tục giảng dạy và kiêm công tác chủ nhiệm lớp 4B. Bản thân đã làm công tác chủ nhiệm liên tục 13 năm, nên đúc rút được nhiều kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm.

– Do có sự giúp đỡ nhiệt tình của Ban giám hiệu nhà trường, cùng với các bạn bè đồng nghiệp.

– Sự hợp tác của cha mẹ học sinh trong lớp mình chủ nhiệm.

– Học sinh đa số ham học, biết vâng lời, yêu quý, tin tưởng cô giáo chủ nhiệm của mình.

4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp.

Việc sử dụng các biện pháp trên được kết hợp vận dụng phù hợp, linh hoạt sáng tạo cộng với sự khéo léo, thông minh của giáo viên chủ nhiệm..

– Cách xử lý thuyết phục, nói năng dịu dàng, nhỏ nhẹ, cùng với sự nêu gương, làm mẫu.

– Các phương pháp, biện pháp trên được sử dụng một cách linh hoạt, không nhất thiết phải theo thứ tự trước, sau mà sử dụng bất kỳ lúc nào, trường hợp nào cảm thấy phù hợp, cùng một lúc có thể sử dụng cả hai biện pháp, như: Việc học tốt ở lớp chưa đủ mà cần phải học tốt ở nhà thì mới có kết quả tốt. Học tốt không chưa đủ mà cần phải có đạo đức tốt, nhân cách tốt. Cuối cùng nhằm giúp các em hưởng ứng mạnh mẽ, hứng thú, phấn khởi và cảm thấy “mỗi ngày đến trường là một niềm vui”.

IV- KẾT QUẢ THU ĐƯỢC QUA KHẢO NGHIỆM, GIÁ TRỊ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:

Sau khi áp dụng đề tài: “Một số biện pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 4” từ đầu năm cho đến cuối tháng 3/20...., tôi đã kiểm tra, theo dõi, nhận định thì thấy số liệu về những nội dung tìm hiểu đầu năm đã khác như sau:

Tổng số HSNội dung tìm hiểuSố lượngTỉ lệ
211) Học sinh chưa tự giác học bài cũ.
2) Học sinh viết chữ sai lỗi nhiều, chưa đẹp.
3) Học sinh học chưa chú ý, tiếp thu chậm.
4) Học sinh nói trống không, chưa lễ phép.
5) Học sinh còn quậy phá, chọc bạn, đánh bạn.
6) Học sinh cá biệt.
7) Học sinh chưa có trang phục đầy đủ.
8) Học sinh còn trầm, tự ti, rụt rè.
9) Học sinh có vốn kĩ năng sống hạn chế.
10) Học sinh hay quên vở, sách, đồ dùng,…
2
2
3
0
0
0
0
2
3
1
9,5
9,5
14,3
0
0
0
0
9,5
14,3
4,7
Ngoài số liệu khảo thí trên, lớp còn có những thành tích nổi bật sau:

– Lớp có nề nếp tốt: Các em ngoan, hiền, biết vâng lời làm theo và làm đúng với lời chỉ bảo của cô giáo, trong lớp chú ý nghe cô giáo giảng bài. Là lớp rất đoàn kết, các em luôn thương yêu giúp đỡ lẫn nhau trong học tập, trong lao động. Có tinh thần tự giác, trách nhiệm cao. Thực hiện tốt 5 điều Bác Hồ dạy, 5 nhiệm vụ của người học sinh,…

– Đa số các em tích cực trong mọi hoạt động, nhất là trong học tập. Đặc biệt ban cán sự của lớp rất có năng lực, các em mẫu mực, học giỏi, viết chữ đẹp, nhanh nhẹn, luôn làm tốt mọi công việc được giao.

– Về rèn luyện giữ gìn vở sạch, viết chữ đẹp: Đa số các em có ý thức giữ gìn sách vở sạch, đẹp luôn bao bọc, nhãn tên, viết bài đầy đủ, không quăn góc, không bôi bẩn, không xé rách…, chữ viết luôn luôn trau dồi, rèn luyện dưới sự uốn nắn, sửa sai của cô giáo. Đặc biệt có một số em viết rất đẹp như: em Bích Ngọc, Vân, Triệu, Kiều, Trinh, Trang, Thuận,…

– Về công tác Đội: Với ban cán sự năng động, nhiệt tình, với tinh thần tự giác trách nhiệm ý thức cao cộng với sự rèn luyện tốt. Các em đã luôn thực hiện và tham gia đầy đủ mọi phong trào của Đội đề ra: Kế hoạch nhỏ, Vòng tay bè bạn, các phong trào từ thiện, Viết thư UPU, tham gia Câu lạc bộ kể chuyện, yêu thơ,…đạt kết quả cao và tham gia 100%.

– Về trang trí lớp: Đạt giải A

Trong một thời gian thực tế áp dụng các biện pháp, giải pháp nêu trên từ tháng 22/08/ 20.... đến 31/03/20....., kết quả thu được khả quan hơn rất nhiều. Kết quả hai môn Toán, Tiếng Việt đạt chất lượng cao hơn so với đầu năm, số lượng các em thuộc các nội dung trên giảm đáng kể, điều này cho tôi thấy được phần nào an tâm hơn khi làm công tác chủ nhiệm lớp. Với kết quả này, tôi sẽ tiếp tục duy trì, áp dụng và luôn giúp đỡ các em cho đến cuối năm học, tôi tin rằng kết quả cuối năm sẽ đạt được như mong muốn.

* Bài học kinh nghiệm được rút ra từ việc áp dụng đề tài:

Qua quá trình thực hiện đề tài: “Một số biện pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 4”, tôi đã rút ra được những kinh nghiệm sau:

– Giáo viên chủ nhiệm cần thực hiện đầy đủ các công việc đầu năm của lớp mình chủ nhiệm.

– Người giáo viên chủ nhiệm cần phải học hỏi, trau dồi kinh nghiệm, vốn sống, năng lực chủ nhiệm luôn được năng cao.

– Theo dõi, kiểm tra, quan tâm đến tất cả các hoạt động của học sinh lớp mình chủ nhiệm. Tránh bỏ qua, mặc kệ, không phân giải rõ ràng khi các em trao đổi hay thưa kiện việc gì đó. Mà ngược lại phải biết xử lý tốt trong mọi tình huống.

– Quan tâm nhiều và đặc biệt đến các HS yếu kém, cá biệt, HS có hoàn cảnh khó khăn, hoàn cảnh đặc biệt.

– Thường xuyên theo dõi nề nếp 15 phút đầu giờ, giao nhiệm vụ cho tổ trưởng kiểm tra, chữa bài tập cùng với lớp trưởng và lớp phó học tập. Ban cán sự lớp tự tổ chức giờ Sinh hoạt cuối tuần, các tổ trưởng, lớp trưởng lên nhận xét, đánh giá từng bạn trong tổ, để các em noi gương, học tập lẫn nhau và đặc biệt là biết sửa chữa lỗi của mình trước tập thể.

– Giáo dục đạo đức, nề nếp học sinh thông qua các biện pháp thuyết phục, nêu gương tốt, rèn luyện, khen thưởng và kỉ luật.

Việc áp dụng vào đề tài này phải cần có thời gian, không phải chỉ trong thời gian ngắn mà làm được. Cũng có những khó khăn nhất định của nó nhưng tôi đã kiên trì và với lòng yêu nghề, mến trẻ, thật sự tâm huyết với đề tài nên tôi đã có được những kết quả như mong muốn. Và tôi tin chắc rằng đồng nghiệp của mình còn có kinh nghiệm hơn, đưa kết quả của đề tài này vươn cao hơn nữa.

C. PHẦN KẾT LUẬN

I. Kết luận:
Mỗi giáo viên, ai cũng muốn học sinh của mình chăm ngoan, học giỏi, phát triển toàn diện, để sau này trở thành người có ích cho xã hội. Mỗi học sinh Tiểu học như những cây non, chúng ta cần uốn nắn, chăm chút cẩn thận, nhẹ nhàng chỉ bảo, nêu gương nhiều hơn là khiển trách để giúp học sinh tự tin vào bản thân mình và phát triển.

Đứng trước vai trò, vị trí, tầm quan trọng của một giáo viên chủ nhiệm lớp 4 tôi luôn tìm tòi, học hỏi trau dồi nhiều kinh nghiệm hơn nữa, để sao cho lớp mình chủ nhiệm luôn đạt được kết quả và thành tích cao trong mọi lĩnh vực. Chắc chắn rằng giải pháp đưa ra còn nhiều hạn chế, thiếu sót do đúc kết từ kinh nghiệm giảng dạy của cá nhân. Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của Hội đồng chấm sáng kiến kinh nghiệm.

II. Kiến nghị:

– Hằng năm cần tổ chức các phong trào thi đua về một số nội dung liên quan đến công tác chủ nhiệm giữa các lớp, các khối.

– Tổ chức những buổi sinh hoạt dành riêng cho giáo viên chủ nhiệm trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, kể những câu chuyện liên quan đến công tác chủ nhiệm,…cho nhau nghe để học hỏi, trau dồi lẫn nhau.

– Trong thư viện cần bổ sung thêm sách, tài liệu về công tác chủ nhiệm, để giáo viên tham khảo, học tập.

Rất mong quý cấp lãnh đạo và các bạn đồng nghiệp góp ý để tôi hoàn thành tốt đề tài của mình.

Xin trân trọng cảm ơn!

........, ngày .... tháng .... năm 20.....

4. Biện pháp về công tác chủ nhiệm nhằm nâng cao chất lượng dạy học

4.1. Biện pháp 1: Khảo sát đối tượng học sinh để đưa ra những phương pháp giáo dục phù hợp

- Khảo sát đối tượng thông qua hồ sơ học bạ, qua giáo viên chủ nhiệm cũ, qua học sinh trong lớp hoặc qua phụ huynh.

- Tiến hành phân loại đối tượng để đưa vào sổ kế hoạch công tác chủ nhiệm, cụ thể:

+ Học sinh gặp hoàn cảnh khó khăn.

+ Học sinh khuyết tật.

+ Học sinh các biệt về đạo đức.

+ Học sinh yếu.

+ Học sinh có những năng lực đặc biệt.

* Đối với những học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn.

* Đối với những học sinh khuyết tật.

* Đối với học sinh cá biệt về đạo đức:

- Tìm hiểu nguyên nhân qua gia đình: Gia đình có sự mâu thuẫn giữa bố và mẹ, gia đình thiếu quan tâm hoặc có thể bị bạn bè, kẻ xấu lôi kéo….Hoặc trẻ có những tính xấu mà bản thân gia đình chưa giáo dục được…

- Dùng phương pháp tác động tình cảm, nghiêm khắc đối với học sinh nhưng không cứng nhắc. Tuyệt đối không sử dụng phương pháp trách phạt, chú ý gần gũi các em và thường xuyên nhắc nhở động viên khen chê kịp thời. Giao cho các em đó một chức vụ trong lớp nhằm gắn với các em trách nhiệm để từng bước điều chỉnh mình.

* Đối với học sinh học yếu:

- Tìm hiểu nguyên nhân vì sao em đó học yếu, học yếu những môn nào. Có thể là ở gia đình các em đó không có thời gian học tập vì phải làm nhiều việc hoặc em đó có lỗ hỏng về kiến thức nên cảm thấy chán nản.

- Giáo viên lập kế hoạch giúp đỡ đối tượng bằng những việc cụ thể như sau:

+ Giảng lại bài mà các em chưa hiểu hay còn hiểu mù mờ vào những thời gian ngoài giờ lên lớp .

+ Đưa ra những câu hỏi từ dễ đến khó để học sinh có thể trả lời được nhằm tạo hứng thú và củng cố niềm tin ở các em.

+ Thường xuyên kiểm tra các đối tượng đó trong qua trình lên lớp.

+ Tổ chức cho học sinh học theo nhóm để học sinh khá giỏi giúp đỡ học sinh yếu kém tiến bộ.

+ Gặp gỡ phụ huynh học sinh trao đổi về tình hình học tập, cũng như sự tiến bộ của con em để phụ huynh giúp đỡ thêm việc học ở nhà cho các em.

+ Chú ý tránh thái độ miệt thị, phân biệt đối xử làm cho các em nhụt chí, xấu hổ trước bạn bè. Tóm lại dù với đối tượng nào bản thân giáo viên phải lưu ý dùng phương pháp tác động tình cảm, động viên khích lệ kịp thời, phối hợp với phụ huynh để giáo dục và đặc biệt xác định vấn đề giáo dục đạo đức là then chốt.

4.2. Biện pháp 2: Xây dựng đội ngũ cán bộ lớp giỏi quản lý, tổ chức, kiểm tra

Như chúng ta đã biết xây dựng một đội ngũ cán bộ quản lý giỏi là việc rất quan trọng người giáo viên làm công tác chủ nhiệm phải có kế hoạch thực hiện.Hơn nữa, để đội ngũ cán bộ lớp cùng giáo viên chủ nhiệm đôn đốc, nhắc nhở việc thực hiện nề nếp học tập của các bạn là công việc cần thiết và có ích.

- Trước hết , những học sinh được chọn làm cán bộ lớp bao giờ cũng phải gương mẫu trước các bạn về mọi mặt: Học tập, kỷ luật, tham gia các hoạt động, đối xử với bạn bè....

- Sau đó hằng ngày, hàng tuần, các cán bộ lớp bao gồm: lớp trưởng,2 lớp phó , 4 tổ trưởng, 4 tổ phó. . sẽ tiến hành công việc của mình như sau:

*Đầu giờ (trước giờ truy bài):

Tổ trưởng, tổ phó kiểm tra những việc sau: soạn sách vở theo đúng thời khóa biểu, mang đầy đủ đồ dùng dậy học,có ý thức xem bài trước, đi học đúng giò, không mang dép lê....rồi tổ trưởng chấm điểm thi đua theo qui đinh như sau: (vi phạm 1 nội dung trừ: 2 điểm xấu )

*Trong giờ học:

Tổ trưởng, tổ phó theo dõi các bạn trong tổ thái độ học tập, phát biểu xây dựng bài, đạt điểm cao trong học tập thì cộng điểm thưởng như sau: Đạt điểm 10 một môn thì cộng 5 điểm tốt, phát biểu xây dựng bài cộng 1đ/1lần. nói chuyện trong giờ học thì bị trừ 2 điểm/ 1lần.

*Giờ ăn ngủ bán trú:

Tổ trưởng,Tổ phó theo dõi các tổ viên các nề nếp: ăn, ngủ đúng thời gian..( nếu vi phạm trừ 2đ/ 1 lần ) Biện pháp 3: .Phối kết hợp thường xuyên với phụ huynh

* Đối vói Ban đại diện CMHS lớp: Từ đầu năm học. Tôi đã định hướng bầu chọn Ban đại diện phụ huynh của lớp với các tiêu chuẩn sau:

- Phụ huynh có đời sống kinh tế ổn đinh.

- Có tâm huyết, nhiệt tình tất cả vì học sinh thân yêu.

- Am hiểu nhiều về lĩnh vực giáo dục - Có con em học khá giỏi.

* Ban phân hội lớp gồm 3 thành viên: Trưởng ban, phó ban, thư ký

* Nhiệm vụ ban phân hội lớp:

- Kết hợp với GVCN lớp theo dõi, động viên quá trình học tập, sinh hoạt của học sinh. Đặc biệt quan tâm đến các phong trào lớp

- Nắm rõ được hoàn cảnh gia đình, chỗ ở của từng học sinh để kịp thời thăm hỏi. - Có kế hoạch khen thưởng kịp thời học sinh lớp tiến bộ theo từng tuần, tháng, theo các đợt kiểm tra định kỳ của nhà trường.

* Đối với từng phụ huynh học sinh: Buổi họp phụ huynh đầu năm, tôi đã đề ra yêu cầu để phụ huynh cùng GVCN rèn nề nếp học sinh như sau:

- Hằng ngày kiểm tra sách vở của con em mình.

- Nhắc nhở con em học bài cũ và chuẩn bị bài mới trước khi đến lớp.

- Chuẩn bị sách vở và đồ dùng học tập cho con em theo thời khoá biểu hằng ngày.

- Giáo dục con ý thức gọn gàng, ngăn nắp khi học tập, vui chơi.

- Sinh hoạt điều độ, đúng thời khoá biểu, giờ nào việc nấy tránh tình trạng vừa học vừa chơi. - Thường xuyên trao đổi với GVCN qua trò chuyện trực tiếp, điện thoại hoặc qua sổ liên lạc để kịp thời nhắc nhở, đôn đốc học sinh nề nếp học tập ở lớp cũng như ở nhà.

Biện pháp 4: Đầu tư các phong trào mũi nhọn nhà trường tổ chức Từ đầu năm học GVCN dựa vào kế hoạch của nhà trường và các đoàn thể trong trường phải đề ra chỉ tiêu cụ thể cho lớp cùng phấn đấu trong các phong trào chung của nhà trường như: Vở sạch chữ đẹp, Vẽ tranh, Kể chuyện, cờ vua,....

- Điều quan trọng là GVCN phải phát hiện những năng lực đặc biệt ở học sinh về văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao, hội hoạ…

- Phối hợp với phụ huynh lập kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên cho các học sinh có năng khiếu nói trên.

- Bồi dưỡng, khơi dậy ở các em lòng say mê hứng thú học tập thông qua những hội thi,Tổ chức các sân chơi ở lớp như: Rung chuông vàng, đối mặt trong các tiết HĐNGLL để phát huy và chọn lọc nhữn HS có năng khiếu để tham gia các hội thi do nhà trường tổ chức. Biện pháp 5: Nêu gương và khen thưởng

- Nắm được tâm lý của học sinh tiểu học rất thích được khen, thích được động viên nên tôi hướng dẫn Ban cán sự lớp lập bảng chấm điểm thi đua từng HS như sau:

- Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi đã đề xuất với Ban đại diện phụ huynh về việc khen thưởng các học sinh trong lớp thực hiện tốt các phong trào học tập cũng như các phong trào khác như sau:

+ Mỗi tuần tặng 1 cây bút cho mỗi HS đạt số điểm tốt cao nhất tổ.

+ Mỗi đợt kiểm tra định kỳ tặng một 1 bút/ 1HS đạt điểm 10 mỗi môn.

+ Tặng một phần quà cho HS đạt phong trào nhà trường đề ra.

- Sau mỗi tuần thi đua, Lớp trưởng đánh giá chung các mặt hoạt động, tổ trưởng đánh giá cụ thể các mặt học tập cũng như hoạt động của từng thành viên trong tổ thông qua bảng điểm . sau đó bầu chọn một HS tuyên dương trước lớp và nhận thưởng.

- Để tránh trường hợp một em nhận liên tục nhiều lần, theo qui ước 3 tuần mới được nhận thưởng lại ( nếu em đó điểm nhất tổ thì chọn em điểm nhì tổ..)

- Đặc biệt chú ý đến HS chậm trong học nhưng có tiến bộ thì tổ trưởng các tổ đề nghị Ban thi đua lớp tuyên dương và khen thưởng.

Trên đây là các mẫu SKKN: Biện pháp nâng cao chất lượng làm công tác chủ nhiệm. Mời các bạn tham khảo thêm các bài viết hữu ích khác trong mục Học tập của Hoatieu nhé.

Đánh giá bài viết
2 10.399
0 Bình luận
Sắp xếp theo
    Trải nghiệm Hoatieu.vn không quảng cáotải toàn bộ tài liệu trên Hoatieu.vn với tốc độ cao. Tìm hiểu thêm
    Hoặc không cần đăng nhập và tải nhanh tài liệu SKKN: Biện pháp nâng cao chất lượng làm công tác chủ nhiệm tiểu học năm 2024