Phiếu học tập số 1 ngữ văn 7 KNTT

Phiếu học tập số 1 trang 131 sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 tập 1 bộ Kết nối tri thức là phần nội dung ôn tập Ngữ văn 7 KNTT cuối học kì 1 bao gồm các câu hỏi về đọc hiểu văn bản, viết, nói và nghe về các nội dung đã được học trong chương trình Ngữ văn lớp 7 sách Kết nối tri thức tập 1. Sau đây là các gợi ý chi tiết hướng dẫn các em trả lời câu hỏi trang 131-133 sách giáo khoa Văn 7 KNTT tập 1, mời các em cùng tham khảo.

Soạn văn 7 tập 1 KNTT trang 131

Soạn văn 7 tập 1 KNTT trang 131

1. Đọc

a. Đọc văn bản

Rừng cháy

[…] Quanh co trong rừng, chẳng biết đâu là đâu, thế mà chỉ chừng một giờ sau tía nuôi tôi đã dắt tôi ra đứng chỗ cây tràm chúng tôi ngồi nghỉ ăn cơm chiều bữa trước …

Những ngày nắng ráo như hôm nay, rừng khô hiện lên với tất cả vẻ uy nghi tráng kệ của nó trong ánh mặt trời vàng óng. Những thân cây tràm vỏ trăng vươn thẳng lên trời, chẳng khác gì những cây nến khổng lồ, đầu lá rũ phất phơ như những đầu lá liễu bạt ngàn […]. Mùi hương ngòn ngọt nhức đầu của những loại hoa rừng không tên tuổi đằm vào ánh nắng ban trưa, khiến con người dễ sinh buồn ngủ và sẵn sàng ngả lưng dưới một bóng cây nào đó, để cho cảm giác mệt mỏi chốn rừng trưa lơ mơ đưa mình vào một giấc ngủ chẳng đợi chờ …

Tôi đã ngủ một giấc dài như vậy, sau khi tía con chúng tôi đã lất mật đầy vào hai thùng sắt tây, Cái gùi bé của tôi cũng vừa chất vun gọn những bánh sáp trắng muốt mà tôi đã tỉ mẩn vắt thành những cục tròn tròn như trứng ngỗng.

Tôi ngồi tựa lưng vào một thân cây lá rậm xùm coà, lơ mơ nhìn những làn tơ nhện mỏng tang rung rung trong ánh nắng. Trong vắng lặng mệt mỏi của rừng đã xế chiều, mọi tiếng động chung quanh tôi đều nghe như không rõ rệt, đều bị nén lại, không một chút âm, một thứ vắng lặng mơ hồ rất khó tả. Tôi còn đang chăm chú nghe tiếng quạt cánh của một con ong vàng mà không thấy nó đâu, thì bỗng nghe tiếng động cơ gào rú chuyển động rung trời.

Ba chiếc tàu bay của giặc Pháp bay vút qua bên trên khu rừng chúng tôi đang lấy mật. Chúng bay rất thấp, là là trên ngọn cây, khi tôi vừa kịp nghe thì chúng đã tới rồi […]. Lửa chớp chớp. Súng liên thanh nã đạn xuống rừng nghe inh tai chát óc. Rồi hàng loạt bom nổ ầm ầm, chuyển động cả một vừng rừng ban nãy còn lặng phắc như tờ. Đất dưới chân tôi rung rinh như chực sụp xuống. […]

- An ơi! Nằm xuống mau. Nó thả cái gì đen đen xuống kìa. Nó thả … - Tía nuôi tôi chưa nói dứt câu, vội đẩy tôi nằm gí xuống cỏ. […] Hai khuỷu tay tôi chống xuống đất đỡ bộ ngực lên, đầu cúi gằm xuống trước, tôi dàn sát thân mình vào đất như cn thằn lằn. Nếu có bom nổ gần cũng khỏi bị dội tức ngực vì sức chấn động. Phựt … Phựt … Phựt … Tiếng gì vậy? Sao không nghe tiếng nổ?

- Chắc là bom lép, đừng ngóc đầu dậy nghe con! – Tía nuôi tôi vừa bảo tôi như vậy, trong lúc tôi chưa kịp ngóc đầu lên thì bỗng nghe tía nuôi tôi hét một tiếng gọi: “An ơi!” . Chưa bao giờ tôi nghe ông kêu to như vậy, một thứ tiếng kêu rụng rời, đầy khủng khiếp, kinh hoàng.

- Giặc đốt rừng, con ơi! – Tía nuôi tôi tay vớ chiếc nỏ, tay lôi tôi nhỏm dậy.

Một màn khói đen cuồn cuộn dựng lên trên dãy rừng dọc dài theo sông. […] Tiếng động cơ vẫn gào rú khủng khiếp trên đầu chúng tôi. Chúng không bắn nữa … Chỉ nghe tiếng phựt … phựt … Lửa cháy khắp bốn phía rồi. […]

- Làm sao khiêng hai thùng mật, tía ơi! – Tôi tiếc của, kêu lên.

- Chạy thoát thân đã! – Tía nuôi tôi vất cái nón đang đội lên đầu xuống, tay chỉ cầm chiếc nỏ lôi tôi chạy ngược hướng gió, nơi ngọn lửa bắt đầu tràn đến chúng tôi …

- Lửa dày ở đó … Đừng về phía đó, tía ơi!

- Thoát ra mau. Cố lên. May ra thì còn kịp …

[…] Hốt nhiên, tôi nghe có tiếng chân chạy dồn dập trên đất, như tiếng giày khua.

- Tía ơi, Tây đuổi sau lưng nhiều quá!

- Tây đâu mà Tây. Cứ chạy đi!

Mặc cho tía tôi quát, tôi vẫn cứ ngoái đầu trông lại. Trời ơi, không phải Tây. Trong khói mù nhỏ ra một con heo đầu đàn, cao gần bằng con bò, lông gáy dựng ngược, mũi ngước lên thở phì phì làm cho hai cái nanh dài chỗ khoá mép vươn ra như hai lưỡi dao găm. Rồi vun vút tràn đến một bầy heo rừng, con lớn con bé tranh nhau chạy, sống lưng nhấp nhô tràn tới như một đàn heo mực. Nai con giò phóng bay qua những lùm cây thấp. Hươi, chồn bông lau, cáo, mèo, … tất cả những con thú bốn chân trong rừng đều nhắm mắt nhắm mũi tranh nhau chạy …

(Đoàn Giỏi, Đất rừng phương Nam, Sdd, tr. 172 – 175)

b. Chọn phương án đúng

Câu 1 (trang 133 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Đề tài chính được tác giả khai thác trong văn bản là gì?

A. Thiên nhiên vùng rừng tràm Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp

B. Thiên nhiên và cuộc sống con người vùng rừng tràm Nam Bộ

C. Nạn cháy rừng và những nguy cơ về môi trường vùng rừng tràm Nam Bộ

D. Cuộc sống nơi rừng tràm Nam Bộ trong kháng chiến chống thực dân Pháp

Câu 2 (trang 133 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Giữa người kể chuyện và các sự việc trong câu chuyện có mối quan hệ như thế nào?

A. Người kể chuyện là người chứng kiến các sự việc đã xảy ra.

B. Người kể chuyện là một nhân vật trong tác phẩm.

C. Người kể chuyện vừa chứng kiến vừa trực tiếp tham gia vào sự việc.

D. Người kể chuyện được nghe kể lại từ lời một nhân vật khác.

1. Trả lời câu hỏi trang 131 SGK văn 7 tập 1 KNTT

Câu 1 (trang 133 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Nêu những chi tiết tiêu biểu giúp em nhận biết thời gian, không gian của các sự việc xảy ra trong câu chuyện.

Trả lời:

Các chi tiết chỉ thời gian, không gian truyện: quanh co trong rừng, chẳng biết đâu là đâu, thế mà chỉ chừng một giờ sau; tôi đã ngủ một giấc dài; rừng đã xế chiều; những thân cây tràm vỏ trắng vươn thẳng lên trời;

=> Chuyện xảy ra vào một buổi xế chiều trong rừng tràm Nam Bộ

Câu 2 (trang 133 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Tóm tắt nội dung câu chuyện (khoảng 7 – 10 câu)

Trả lời:

Rừng cháy là câu chuyện kể về cuộc sống nơi rừng tràm Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp của cha con cậu bé An. Truyện vẽ nên khung cảnh rừng khô y nghi, tráng lệ, hoang sơ và cũng rất hùng vĩ đã chở che, tạo nên những cảm xúc êm dịu trong lòng con người nơi đây. Nhưng khung cảnh đẹp đẽ không tồn tại được bao lâu khi giặc Pháp kéo đến tàn phá khu rừng. Từng đợt bom cứ vô tình phòng xuống, phá hoại tất cả. Hai cha con bé An hốt hoảng bỏ chạy khỏi sự tàn phá. Thú trong rừng cũng thi nhau chạy để tìm sự sống cho mình. Để lại trong lòng An là những buồn lo, mải miết và sự tiếc nuối về khu rừng nhiều kỉ niệm

Câu 3 (trang 133 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Các sự việc trong câu chuyện được kế theo trình tự nào?

Trả lời:

Các sự việc trong câu chuyện được kể theo trình tự thời gian.

- Phần đầu đoạn trích miêu tả khung cảnh buổi trưa, khi An và tía nuôi lấy mật xong: Mùi hương ngòn ngọt nhức đầu của những loại hoa rừng không tên tuổi đằm vào ánh nắng ban trưa, khiến con người dễ sinh buồn ngủ.

- Phần tiếp theo kể lại sự việc An ngủ trưa và giấc ngủ kéo dài cho đến trước khi máy bay của giặc Pháp đến và tiếng nổ vang lên trong rừng: Tôi đã ngủ một giấc dài như vậy, sau khi tía con chúng tôi đã lấy mật đầy vào hai thùng sắt tây

Câu 4 (trang 133 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Tìm những chi tiết tiêu biểu thể hiện tính cách của nhân vật người cha – tía nuôi của cậu bé An

Trả lời:

- Khi phát hiện ra bom được thả xuống, người cha rất lo lắng cho con: An ơi! Nằm xuống mau… Tía nuôi tôi chưa nói dứt câu, vội đẩy tôi nằm gí xuống cỏ; Chắc là bom lép, đừng ngóc đầu dậy nghe con! => Tình yêu thương, sự che chở đầy mạnh mẽ của người cha dành cho con trong lúc hiểm nguy

- Khi phát hiện ra rừng cháy, cách thoát khỏi ngọn lửa của người cha rất khác thường: Tía nuôi tôi vất cái nón đang đội trên đầu xuống, tay chỉ cầm chiếc nỏ lôi tôi chạy ngược hướng gió, nơi ngọn lửa bắt đầu tràn đến chúng tôi. => Người cha đặc biệt am hiểu cuộc sống trong rừng, quyết đoán, quả cảm, quyết liệt

- Khi nghe có nhiều tiếng chân chạy dồn dập trên đất, như tiếng giày khua, An tưởng có Tây (giặc Pháp) đuổi phía sau, nhưng tía khẳng định: Tây đâu mà Tây. Cứ chạy đi! => Sự am hiểu sâu sắc từng tiếng động, nhịp sống trong rừng cũng như tính cách mạnh mẽ, quả cảm và quyết đoạn của người cha – tía nuôi cậu bé An

2. Viết đoạn văn (khoảng 10 – 15 câu) phân tích đặc điểm nhân vật người cha – tía nuôi của cậu bé An

Nhân vật người tía trong đoạn trích “Rừng cháy” là một nông dân Nam Bộ đã góp phần tạo nên linh hồn của câu chuyện. Giữa cái nền thiên nhiên hùng vĩ, hoang sơ, con người xuất hiện với sự chân thật, đôn hậu như tạo nên cái hồn cho văn bản. Người tía trong văn bản xuất hiện qua những lần tất tả, vội vã lôi đứa con trai nuôi tháo chạy khỏi bom mìn, lửa đạn. Ở đây, ta thấy thấm đẫm tấm lòng nhân hậu, chất phác, bình dị của con người Nam Bộ. An không phải là con ruột của người tía nuôi, nhưng có lẽ ở bên cạnh tía, An phần nào cảm thấy vơi bớt đi những tủi hờn, khốn khổ của đứa trẻ mồ côi giữa những ngày chiến trinh lửa đạn. Những tiếng gọi rụng rời, đầy khủng khiếp, kinh hoàng của người cha trong những lần có bom giật khiến người đọc không khỏi xốn xang vì sự tàn ác của chiến tranh và cũng cảm phục tấm lòng yêu thương nơi người cha nghèo khổ. Nỗi đau, nỗi nhớ thương và mất mát... do quân giặc đem đến cho người cha, cho An, cho nhân dân trên khắp mọi miền đất nước ta có bao giờ nguôi! Và chính trong những nỗi đau ấy, có những thứ tình cảm đã sưởi ấm con tim của đồng loại, đã làm cho người ta vơi đi được phần nào đớn đau, mất mát, đó chính là sự cưu mang. Người cha trong văn bản đã khiến người đọc ấm lòng vì tính cách khẳng khái, trái tim yêu thương, đôn hậu. Có thể nói, con người và thiên nhiên trong đoạn trích “Rừng cháy” đã cùng nhau song hành để tạo nên bản anh hùng ca về một dân tộc mạnh mẽ, kiên cường

3. Trình bày tóm tắt một văn bản truyện em tự tìm đọc có nội dung gần gũi với những văn bản đã học

Chọn văn bản: Chiếc lược ngà – Nguyễn Quang Sáng

Tóm tắt:

Ông Sáu rời nhà đi kháng chiến từ khi con gái còn nhỏ, chỉ được thấy con qua tấm ảnh nhỏ. Suốt những năm tháng sống ở chiến trường, không lúc nào ông Sáu nguôi ngoai nỗi nhớ về con gái. Ba ngày được về nghỉ phép, ông Sáu nôn nao được trông thấy con, vội vàng, cuống quít. Nhưng đến khi về tới nhà, bé Thu, con gái ông, lại không nhận ra ba mình bởi vết thẹo trên mặt ông Sáu do chiến tranh để lại. Suốt ba ngày, ông Sáu cố gắng gần gũi, vỗ về con nhưng càng lại gần thì con gái càng đẩy ông ra. Đến lúc con bé không nghe lời, ông Sáu vung tay đánh vào mông nó, bé Thu bỏ về nhà ngoại. Đến khi bé Thu nhận ba thì cũng là lúc ông Sáu phải vào chiến trường. Trước khi chia tay ba, bé Thu muốn ba mua cho mình một chiếc lược khi ba trở về. Trở lại chiến trường, nỗi nhớ con càng đau đáu, ông Sáu nhớ lời hứa với con gái, lấy vỏ đạn hai mươi li của Mĩ làm cho con một chiếc lược. Nhưng chưa kịp trở về đưa chiếc lược tận tay con gái thì ông Sáu đã hi sinh ở chiến trường. Chiếc lược ông gửi lại cho người đồng đội là ông Ba, nhờ đưa cho con gái mình, rồi mới nhắm mắt đi xuôi

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trong nhóm Lớp 7 thuộc chuyên mục Học tập của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
6 1.204
0 Bình luận
Sắp xếp theo