Đọc hiểu Nghèo Nam Cao
Đọc hiểu văn bản Nghèo
Nam Cao là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam, với ngòi bút sắc sảo, giàu chất nhân đạo. Truyện ngắn Nghèo là một tác phẩm tiêu biểu thể hiện cái nhìn sâu sắc của ông về cuộc sống khốn khổ của những người dân lao động trong xã hội cũ. Thông qua câu chuyện về nhân vật a đĩ Chuột, Nam Cao không chỉ phản ánh nỗi cùng cực của cái nghèo mà còn thể hiện niềm xót xa, trăn trở trước số phận con người. Đề bài đọc hiểu tác phẩm Nghèo sẽ giúp người học khám phá những giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm, đồng thời rèn luyện kỹ năng phân tích, cảm thụ văn học, mời các bạn cùng tham khảo.
Đọc hiểu tác phẩm Nghèo trắc nghiệm - Mẫu 1
Đọc đoạn văn bản sau:
(Gia đình anh chị Chuột gồm 4 miệng ăn đang ở trong hoàn cảnh nghèo đói phải vay tiền của bà Huyện để mua gạo, mua thuốc cho chồng ốm nặng. Chị đĩ Chuột phải nấu cám và vờ bảo là chè để dỗ hai con ăn cho đỡ đói, dành cơm trắng cho anh đĩ Chuột mong anh mau hết bệnh. Khi nồi cám được bê lên, lũ trẻ rất háo hức vì được ăn chè, nhưng được miếng thứ 2 thì thằng cu bé không thể nuốt trôi và khóc òa lên. Còn cái Gái đã lớn nên hiểu chuyện, nó và chị đĩ Chuột vẫn cố ăn những bát cám cho đỡ đói. Để dỗ thằng cu bé nín, chị đĩ Chuột liền bế nó vào chỗ anh đĩ Chuột đang nằm để hỏi han và xin chút cơm trắng cho thằng cu bé ăn. Anh đĩ Chuột biết vì sao nó khóc, cho nên khi chị đĩ Chuột vừa bế con ra để đi mua thuốc cho anh thì anh liền gọi cái Gái vào hỏi chuyện)
.. Người cha khốn nạn nhìn đứa con chòng chọc, thở dài. Một giọt lệ từ từ lăn xuống chiếu.
- Thầy bảo gì con ạ?
- Lúc nãy mẹ con mày ăn cám phải không?
Gái gượng cười cãi:
- Ăn chè đấy chứ.
Bố nó chép miệng:
- Khốn nạn, chè đâu mà ăn, cơm còn không có nữa là chè! Rõ mày khổ từ trong bụng mẹ..
Cái Gái cúi đầu xuống không nói. Anh đĩ Chuột thở dài:
- Con đi lấy cho thầy cái ghế buộc giậu (1), với sợi thừng ở gác bếp để thầy mắc lại cái võng, thế này cao quá.
Cái Gái lấy ghế và thừng vào. Anh đĩ bảo:
- Để đấy cho thầy rồi ra vườn làm cỏ đi.
Nó ra vườn, anh gượng ngồi dậy, xuống khỏi giường, mon men ra đóng chặt cửa buồng lại. Anh lấy cái thừng, làm một cái tròng chắc chắn, dùng hết sức tàn còn lại, trèo lên ghế, hai chân khẳng khiu run lẩy bẩy. Anh buộc cẩn thận một đầu dây lên xà nhà, buộc xong, mệt quá, anh đu vào cái thừng, gục đầu xuống thở. Anh thấy lòng chua xót, nước mắt giàn ra hai má lõm. Rồi anh quả quyết, anh đứng thẳng người lên, chui đầu vào tròng, cái thừng cứng cáp cọ vào cổ làm anh rùng mình, khóc nấc lên một tiếng. Cả cái thân hình mảnh dẻ bắt đầu rung chuyển như một tàu lá run trước gió. Bỗng anh ngừng bặt, ngây người ra nghe ngóng. Tiếng ai vừa gọi ngoài ngõ, tiếp đến cái Gái thưa và chạy ra, tiếng người kia the thé:
- Bu (2) mày đâu?
Tiếng cái Gái rụt rè đáp lại:
- Bẩm bà, bu con đi vắng.
- Đi vắng! Đi vắng mãi! Mày về bảo con mẹ mày nội (3) ngày mai không trả tiền tao thì tao đào mả lên đấy. Cái giống (4) chỉ biết ăn không.
Anh đĩ Chuột rít hai hàm răng lại. Hai chân giận dữ đạp phắt cái ghế đổ văng xuống đất. Cái tròng rút mạnh lại. Cái bộ xương bọc da giãy giụa như một con gà bị bẫy, sau cùng, nó chỉ còn gật từng cái chậm dưới sợi dây thừng lủng lẳng.
Ở ngoài ngõ, mẹ con chị đĩ Chuột vừa kêu khóc vừa van lạy. Bà Huyện nhất định bắt mẻ gạo (5) mới đong để trừ sáu hào (6) chị Chuột vay từ hai tháng trước cho chồng uống thuốc.
(Trích" Nghèo "– trang 22, 23 tập 1, Tuyển tập Nam Cao- NXB Văn học- 2002)
Chú thích
*Tác phẩm Nghèo: In trong Tiểu thuyết thứ bảy số 158 Ngày 5-6-1937 với bút danh Thúy Rư
Truyện viết về đề tài người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng 8/1945.
[1]: Giậu: Hàng rào
[2] bu: Mẹ (cách gọi mẹ ngày xưa)
[3] nội: Trong ngày
[4] cái giống: Cái đồ
[5] mẻ gạo: Chỗ gạo, thúng gạo
[6] hào: Đơn vị tính tiền ngày xưa
Lựa chọn đáp án đúng:
Câu 1: Câu chuyện trong đoạn văn bản lấy bối cảnh thời gian nào?
A. Xã hội phong kiến Việt Nam
B. Đầu thế kỉ XX.
C. Trước Cách mạng tháng Tám 1945.
D. Sau Cách mạng tháng Tám 1945.
Câu 2: Câu chuyện trong đoạn văn bản trên được kể theo ngôi kể thứ mấy?
A. Ngôi thứ nhất.
B. Ngôi thứ hai.
C. Ngôi thứ ba
D. Ngôi thứ nhất và thứ ba.
Câu 3. Tác giả đã đặt điểm nhìn vào nhân vật nào?
A. Nhân vật chị đĩ Chuột
B. Nhân vật anh đĩ Chuột
C. Nhân vật cái Gái
D. Nhân vật tôi..
Câu 4. Ngôn ngữ kể chuyện trong văn bản có đặc gì?
A. Ngôn ngữ mộc mạc, thấm đẫm yêu thương.
B. Chân thực, khách quan, mộc mạc mà thấm đẫm yêu thương..
C. Ngôn ngữ mộc mạc gần lời ăn tiếng nói hàng ngày
D. Chân thực, khách quan, lạnh lùng mà thấm đẫm yêu thương.
Câu 5 . Chi tiết" Một giọt lệ từ từ lăn xuống chiếu " trong đoạn văn bản thể hiện điều gì trong tình cảm của anh Đĩ Chuột?
A. Thương vợ, thương con.
B. Thương mình.
C. Xót xa cho cảnh ngộ
D. Bất lực với chính mình.
Câu 6 : Dòng nào nói không đúng về thái độ của nhà văn được thể hiện trong đoạn văn bản?
A. Phê phán xã hội thực dân nửa phong kiến.
B. Lạnh lùng, tỉnh táo mà đầy yêu thương.
C. Đồng cảm, xót thương với số phận đau khổ của người nông dân.
D. Phê phán hành động của anh Đĩ Chuột.
Câu 7: Dòng nào sau đây nêu đúng chủ đề chính của đoạn trích
A. Ca ngợi tình thương của người cha với các con.
B. Phản ánh tình cảnh bi đát của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám và niềm xót thương của nhà văn.
C. Gửi gắm khát vọng về một cuộc sống ấm no.
D. Vạch trần tội ác của bọn thực dân phong kiến.
Trả lời các câu hỏi:
Câu 8. Từ cảnh ngộ của gia đình anh Đĩ Chuột, em có nhận xét gì về đời sống của người dân Việt Nam trước Cách mạng?
Câu 9: Em có đồng tình với hành động lựa chọn cái chết của người cha trong đoạn văn bản trên không? Vì sao?
Câu 10: So sánh điểm giống và khác nhau về cách nhìn cuộc sống người nông dân của Nam Cao qua truyện ngắn Nghèo và của Kim Lân qua truyện ngắn Vợ nhặt?
Gợi ý trả lời:
Câu 8:
Từ cảnh ngộ của gia đình anh Đĩ Chuột, ta có thể thấy đời sống của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng:
- Đói khổ, cơ cực, lầm tham.
- Bế tắc, bị đẩy vào bước đường cùng, thậm chí phải tìm đến cái chết..
Câu 9:
- Nếu đồng tình HS có thể lí giải: Đó là cách duy nhất mà anh có thể làm để vơi đi gánh nặng cho vợ con. Là cách anh thể hiện tình yêu thương với vợ con. Cũng là để anh giải thoát cho chính mình.
- Nếu không đồng tình, HS có thể lí giải: Anh Đĩ Chuột lựa chọn cái chết là hành động mang tính chất tiêu cực, chỉ giải thoát được cho mình, bằng chứng là anh chết đi, vợ con anh vẫn không có cơm để ăn, vẫn chịu đói, vẫn phải khóc. Cái chết của anh, khiến vợ con anh càng thêm đau đớn, cuộc sống càng bi đát hơn..
Câu 10:
- Giống nhau:
+ Am hiểu cuộc sống của người nông dân: Nghèo khổ, túng quẫn, giàu tình người.
+ Cái nhìn cảm thông, yêu thương, trân trọng
- Khác nhau:
+ Nam Cao: Bế tắc, đau khổ, tuyệt vọng.
+ Kim Lân: Lạc quan, tin tưởng, hi vọng một tương lai tốt đẹp
Đọc hiểu tác phẩm Nghèo trắc nghiệm - Mẫu 2
Đọc văn bản sau:
Thấy mẹ gắt, thằng cu không dám đòi ăn nữa, nhưng mặt nhăn nhó bịu xịu như muốn khóc. Chị đĩ Chuột thương hại, dịu dàng bảo:
- Con chạy ra vườn xem chị Gái làm cỏ, lúc nào chè chín bu gọi về mà ăn... chóng ngoan rồi bu thương.
Nhưng nó không nhúc nhích, mà nó còn nhúc nhích làm sao được: một nắm cơm nhỏ ăn từ sáng đã bị cái dạ dày chăm chỉ của con nhà nghèo tiêu hết đánh phèo một cái rồi, còn chi. Nó ngồi phịch xuống đất, gục đầu vào ngưỡng cửa, ngáp...
- Sắp chín chưa, bu?
Quay ra vẫn thấy con nằm phục đấy, mắt lờ đờ như chết lả, chị Chuột chép miệng:
- Thôi đây! Chín chả chín thì đừng, bắc mẹ nó ra cho chúng mày ăn không có chúng mày làm tội cũng chết. Chốc lại nheo nhéo, chốc lại nheo nhéo...
Chị vừa lẩm bẩm, vừa dập lửa rồi bắc cái nồi ở trên bếp xuống, lấy một cái vỏ trai múc vào mấy cái bát sành sứt mẻ tứ tung, đặt ngay trên mặt đất. Thằng cu Bé vội vàng lê xích lại gần, hai mắt lóng lánh đổ dồn cả vào mấy bát “chè” màu nâu đục, khói bốc lên nghi ngút. Mồm nó nuốt nước bọt ừng ực, mũi nó nở hẳn ra như để hít lấy hương vị của khói chè ngon ngọt. Chị đĩ Chuột phải đưa tay cản nó lại, sợ nó sà vào mà bị bỏng. Chị bảo nó:
- Còn nóng lắm, chưa ăn được. Con ra vườn gọi chị về cho chị ăn với không có phải tội chết, nó làm quần quật từ sáng tới giờ mà chưa được tí gì vào bụng.
Không đợi đến hai tiếng, chị Gái hớn hở chạy về, lôi thôi lếch thếch trong mấy mảnh giẻ rách tả tơi, vừa đến bếp nó đã reo lên:
- Sướng quá! Lại được ăn chè kia chứ! Có ngọt không bu? Bu lấy đâu được mật mà lại nấu chè thế?
Chị Chuột mắng yêu con:
- Úi chà! Tíu tít như con mẹ dại ấy! Tha hồ ăn đến chán chê, chỉ sợ không sao nuốt được thôi, con ạ.
Rồi chị bảo thằng cu Bé:
- Bé lại đây, bu cho ăn.
Thằng cu ngồi xổm bên mẹ, hấc mặt lên, há hốc mồm ra như con chim non đợi mẹ mớm mồi. Một miếng vào mồm, nó đã vội nuốt thỏm đi, khen “ngon quá”. Nhưng chưa kịp ăn miếng nữa, nó đã oẹ một cái, mũi đỏ lên, nước mắt ứa ra giàn giụa.
- Sao thế?
Nó chỉ hụ hị nhìn mẹ mà không nói, cũng không chịu há mồm ăn nữa. Cái Gái nhìn mẹ, xêu một miếng chè nữa ăn thử lại:
- Nhạt quá, bu ạ.
Chị Chuột mắng con:
- Làm gì có nhiều mật mà ngọt. Có mà ăn cho no bụng là phúc rồi.
Thằng cu chừng đói quá không chịu được, lại há mồm ra. Mẹ nó đút cho nó một xêu nhỏ nữa. Nó nhắm mắt, duỗi cổ, cố nuốt cho trôi. Nhưng cũng như lần trước, nó lại oẹ ra, và khóc oà lên. Chị đĩ Chuột lấy tay áo lau nước mắt không cầm nổi đã trào ra hai má hõm xanh bùng như người ngã nước. Cái Gái lấy ngón tay di một cục “chè”. Rồi bỗng nói to lên:
- À! Con biết rồi! Không phải chè, cám mà! Cám nâu mà bu bảo chè!
Nhưng mẹ nó đưa mắt nhìn nó, lấy ngón tay chỉ ra phía nhà ngoài nói khẽ, nhưng hơi gắt:
- Khe khẽ cái mồm một tí! Réo mãi lên, thằng bố mày nó nghe thì nó chết. Nó đã ốm nằm đấy, thuốc không có, mà còn bực mình thì nó chết.
Rồi hai mẹ con lẳng lặng ăn, cố nuốt những bát cám đặc khè cho đỡ đói. Thằng cu nhất định không chịu ăn, ngồi khóc ti tỉ đòi cơm. Chị đĩ Chuột đành dỗ nó:
- Thôi nín ngay, bu ăn xong bu xin thầy cho một miếng mà ăn.
Chị bế con rón rén bước vào chỗ chõng nằm. Thằng bé vẫn sụt sịt. Anh đĩ Chuột giở mình, hơi nghiêng mặt quay ra. Một làn ánh sáng mờ lướt qua làm cho cái mặt hốc hác và màu da đã xanh lại càng xanh thêm. Mái tóc dài quá xoà xuống tai và cổ, hai con mắt ngơ ngác và lờ đờ, những chiếc răng dài và thưa ở cái mồm hé ra để cho dễ thở khiến anh có cái vẻ dễ sợ của con ma đói. Thấy vợ con, anh cố gượng nhếch miệng cố gượng một cái cười méo xệch và vừa thở phều phào vừa hỏi bằng một thứ tiếng yếu ớt như từ thế giới bên kia đưa lại:
- Nó làm sao thế?
Chị đĩ Chuột xốc con lên một cái:
- Nó vòi đấy chứ có làm sao? Cơm gạo đỏ không chịu ăn, đòi ăn cơm trắng của thầy cơ.
- Thì lấy cho nó ăn, tôi ăn làm sao hết?
Chị đĩ Chuột lấy liễn cơm chực moi cho con một ít. Nhưng anh bảo:
- Mang cả ra cho nó ăn, tôi không ăn nữa đâu. Còn bao nhiêu vét cho cái Gái với bu em ăn hết đi, để nó thiu ra đấy.
Chị đĩ Chuột cười, bảo chồng:
- Thằng cu nó dở người, chứ mẹ con tôi ăn cơm đỏ đã no rồi, ăn vào đâu được nữa?
Anh biết vợ nói dối, chực nói, nhưng lại thôi, buồn rầu buông một tiếng thở dài. Vợ lo ngại hỏi:
- Bây giờ người thế nào, để tôi kể với ông thầy lang lấy thuốc.
- Tiền đâu mà thuốc thang mãi?
- Tôi vừa bán con chó mực với hai buồng chuối non được bốn hào.
Chồng nhìn vợ, ngẫm nghĩ một chút rồi bảo:
- Đừng lấy thuốc nữa, tôi sắp khoẻ rồi, chỉ ăn cho nó khoẻ lên chắc bệnh phải hết. Bu em đong cho tôi cả bốn hào gạo đỏ, đừng đong gạo trắng ăn nhạt lắm”.
(Trích Nghèo – Tuyển tập Nam Cao, NXB Hội nhà văn, 1993)
Lựa chọn đáp án đúng:
Câu 1. Văn bản trên thuộc thể loại nào?
A. Sử thi
B. Truyện thần thoại
C. Truyện cổ tích
D. Truyện ngắn
Câu 2. Phương thức biểu đạt chính của văn bản trên là?
A. Tự sự
B. Biểu cảm
C. Miêu tả
D. Thuyết minh
Câu 3. Văn bản trên được kể theo ngôi kể nào?
A. Ngôi thứ nhất
B. Ngôi thứ hai
C. Ngôi thứ ba
D. Cả A và B
Câu 4. Ý nào đúng khi nói về điểm nhìn trong truyện?
A. Chủ yếu là điểm nhìn của người kể chuyện.
B. Chủ yếu là điểm nhìn của nhân vật.
C. Chủ yếu chuyển từ điểm nhìn của người kể chuyện sang chị đĩ Chuột.
D. Chủ yếu chuyển từ điểm nhìn của người kể chuyện sang anh đĩ Chuột.
Câu 5. Nội dung chính của văn bản trên là gì?
A. Phản ánh nỗi khổ của gia đình chị đĩ Chuột.
B. Phản ánh sự nghèo khổ của gia đình chị đĩ Chuột và tình thương con của người mẹ nghèo.
C. Phản ánh hiện thực cuộc sống của người nông dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám.
D. Hiện thực cuộc sống của người nông dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám và tấm lòng nhân đạo của nhà văn Nam Cao.
Câu 6. Nhân vật chị đĩ Chuột hiện lên qua tác phẩm là một người như thế nào?
A. Một người mẹ không lo nổi bữa ăn cho các con.
B. Một người vợ không biết chăm sóc thuốc thang cho chồng.
C. Một người phụ nữ thấu hiểu hoàn cảnh và biết lo toan cho gia đình.
D. Một người mẹ vì con có thể đánh đổi mọi thứ.
Câu 7. Ý nào không đúng khi nói về ẩn ý câu nói của anh đĩ Chuột “- Đừng lấy thuốc nữa, tôi sắp khoẻ rồi, chỉ ăn cho nó khoẻ lên chắc bệnh phải hết. Bu em đong cho tôi cả bốn hào gạo đỏ, đừng đong gạo trắng ăn nhạt lắm.”?
A. Muốn làm yên lòng vợ con.
B. Muốn vợ quan tâm hơn vì người ốm dễ nhạt miệng.
C. Nỗi khổ tâm của một người chồng khi không làm được gì cho vợ con.
D. Đưa câu chuyện bước sang một hướng khác.
Trả lời câu hỏi:
Câu 8: Chi tiết nào trong văn bản khiến em ấn tượng nhất? Vì sao?
- Chọn 1 chi tiết đặc sắc trong đoạn trích.
- Lí giải nét độc đáo về nội dung và nghệ thuật của chi tiết ấy.
Câu 9: Nếu em là cái Gái, trong hoàn cảnh gia đình như vậy, em sẽ làm gì?
- Động viên mẹ.
- Chăm chỉ học tập.
- Làm việc giúp đỡ mẹ.
...
Câu 10: Qua văn bản, hãy viết đoạn văn ngắn (7 – 10 dòng) trình bày suy nghĩ về hình ảnh người nông dân Việt Nam trước CM tháng 8 năm 1945.
Đoạn văn đảm bảo các yêu cầu:
* Hình thức: Đảm bảo về số câu, không được gạch đầu dòng, không mắc lỗi chính tả, ngữ pháp. Hành văn trong sáng, trôi chảy.
* Nội dung: Suy nghĩ về hình ảnh người nông dân Việt Nam trước CM tháng 8:
- Số phận: Nghèo khổ, cơ cực.
- Phẩm chất, vẻ đẹp tâm hồn:
+ Chân thật.
+ Luôn yêu thương, đùm bọc lẫn nhau.
+ Luôn khát khao cuộc sống no đủ và một tương lai tươi sáng hơn.
Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trong nhóm Lớp 11 thuộc chuyên mục Học tập của HoaTieu.vn.
- Chia sẻ:
Trần Thu Trang
- Ngày:
Tham khảo thêm
Phân tích cấu tứ bài thơ Lá đỏ hay nhất
Top 8 bài phân tích Đây mùa thu tới hay đặc sắc
Bàn luận về sức hấp dẫn của một bộ phim, vở kịch hoặc một bài hát mà em yêu thích
Sao anh không về chơi thôn Vĩ đọc hiểu (5 đề)
Năm gian nhà cỏ thấp đọc hiểu
(5 đề) Đọc hiểu Hoa cỏ may có đáp án
Phân tích bài thơ Thu vịnh
Phân tích bài thơ Chợ Đồng
Theo Nghị định 147/2024/ND-CP, bạn cần xác thực tài khoản trước khi sử dụng tính năng này. Chúng tôi sẽ gửi mã xác thực qua SMS hoặc Zalo tới số điện thoại mà bạn nhập dưới đây:

Gợi ý cho bạn
-
Soạn Củng cố mở rộng lớp 11 trang 48 tập 1 KNTT
-
Viết một đoạn văn trả lời câu hỏi: Vì sao phải coi luật pháp như khí trời để thở?
-
Năm mới chúc nhau đọc hiểu
-
Suy nghĩ về câu Cứ hướng về phía Mặt Trời, bóng tối sẽ ngả sau lưng bạn
-
Trình bày ý kiến đánh giá về câu Cứ hướng về phía Mặt Trời, bóng tối sẽ ngả sau lưng bạn
Có thể bạn cần
Top 8 mẫu phân tích khổ cuối bài Tràng giang hay chọn lọc
Mẫu Bài thu hoạch nghị quyết trung ương 4 khóa 12 cho Đảng viên
Top 4 mẫu Cảm nhận bài thơ Sóng hay chọn lọc
Thực hành theo hướng dẫn để tạo ra 02 sản phẩm hỗ trợ việc giảng dạy môn Toán cấp tiểu học
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 3 năm 2025 mới cập nhật
Bộ tranh thiếu nhi về chào mừng Đại hội Đoàn 2025
Công văn xin hủy tờ khai Thuế GTGT do kê khai sai 2025
Suy nghĩ về số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến
Tờ khai thuế thu nhập cá nhân Mẫu 05/KK-TNCN, 05-DK-TCT 2025
Mẫu hợp đồng ngoại thương bằng Tiếng Anh
Mẫu hợp đồng góp vốn
Bài phát biểu của lãnh đạo tại Đại hội nông dân xã nhiệm kỳ 2023-2028
Có thể bạn quan tâm
-
(6 đề) Nhà mẹ Lê đọc hiểu có đáp án
-
Cơm mùi khói bếp đọc hiểu
-
Đọc hiểu Một bữa no
-
Đọc hiểu Con chó xấu xí có đáp án
-
Phân tích tác phẩm Nghèo của Nam Cao hay
-
Phân tích và đánh giá đoạn trích Tổ quốc nhìn từ biển
-
(5 đề) Đọc hiểu Hoa cỏ may có đáp án
-
Phân tích tác phẩm Cô hàng xén
-
Tổ quốc nhìn từ biển đọc hiểu
-
Đọc hiểu Áo tết có đáp án
-
Cô hàng xén đọc hiểu (5 đề có đáp án)
-
Đọc hiểu bài thơ Xó bếp