Phân tích bài thơ Chợ Đồng
Mua tài khoản Hoatieu Pro để trải nghiệm website Hoatieu.vn KHÔNG quảng cáo & Tải nhanh File chỉ từ 99.000đ. Tìm hiểu thêm »
Phân tích đánh giá bài Chợ Đồng
Chợ Đồng là một bài thơ đầy cảm xúc của Nguyễn Khuyến, thể hiện sâu sắc nỗi buồn, sự thất vọng và chán chường của nhà thơ trước cảnh đời nghèo khổ của người dân quê trong thời khắc giao mùa – khi năm cũ sắp qua, năm mới đang đến mà cái đói nghèo, túng quẫn vẫn bủa vây lấy cuộc sống. Không chỉ là một bức tranh tả thực về chợ quê tiêu điều, Chợ Đồng còn là tiếng thở dài đầy xót xa trước hiện thực xã hội.
Trong bài viết này, Hoatieu xin chia sẻ đến các bạn học sinh mẫu dàn ý phân tích và đánh giá tác phẩm Chợ Đồng – một tài liệu hữu ích giúp các bạn nắm được những luận điểm trọng tâm cần triển khai khi viết bài phân tích. Thông qua dàn ý này, các bạn sẽ hiểu rõ hơn về giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ, từ đó có thể tự tin hoàn thiện bài viết một cách sâu sắc và thuyết phục. Mời các bạn cùng tham khảo!

Dàn ý phân tích bài Chợ Đồng
Đề bài: Anh/chị hãy viết bài văn (khoảng 500 chữ) giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của văn bản Chợ Đồng.
1. Mở bài: Giới thiệu khái quát về bài thơ và nêu vấn đề.
- Chợ Đồng là một trong những bài thơ thể hiện rõ nét hồn quê trong thơ Nguyễn Khuyến. Bài thơ phản ánh tinh tế tâm hồn và tình yêu quê hương đất nước của tác giả.
2. Thân bài:
* Giới thiệu chung về bài thơ (tác giả, hoàn cảnh ra đời của bài thơ…)
- Nguyễn Khuyến viết nhiều về nông thôn, ông là “nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam” (Xuân Diệu).
- Bài thơ Chợ Đồng miêu tả phiên chợ tết ở nông thôn Bắc bộ, qua đó, tác giả thể hiện niềm xúc động, thương xót trước cuộc sống đói kém, cơ cực của người dân.
* Phân tích, đánh giá những nét đặc sắc, độc đáo của bài thơ.
- Nội dung:
+ Miêu tả phiên chợ Đồng: Thời gian “Tháng chạp hai mươi bốn”; Không gian “Dở trời, mưa bụi còn hơi rét”; Con người thưa vắng “được mấy ông”, tất bật “xáo xác” và túng thiếu, nợ nần “Nợ nần năm hết hỏi lung tung”
+ Cảm xúc của tác giả: Ngậm ngùi, buồn vì phiên chợ, một nét văn hóa đặc trưng của vùng quê nay thưa thớt người mua bán (…có đông không? …được mấy ông?); Thương cảm, xót xa trước cuộc sống túng thiếu, nợ nần của nhân dân (Hàng quán người về nghe xáo xác/ Nợ nần năm hết hỏi lung tung); Le lói một niềm ước mong tốt đẹp cho cuộc sống của dân nghèo khi “tin xuân tới”. Cảm xúc của tác giả thể hiện tấm lòng thương dân, lo đời đáng quí.
- Nghệ thuật:
+ Ngôn ngữ bình dị, đậm chất nông thôn Bắc bộ.
+ Giọng thơ trầm lặng, đượm buồn.
+ Sử dụng tinh tế và hiệu quả câu hỏi tu từ, từ láy…
* So sánh với các tác giả, tác phẩm khác cùng đề tài, chủ đề.
- Cùng đề tài viết về cuộc sống khốn khổ do thiên tai, loạn lạc của người nông dân trong xã hội cũ, Nguyễn Khuyến không chỉ có bài thơ Chợ Đồng mà còn có nhiều tác phẩm khác như: Nước lụt ở Hà Nam, Chốn quê…
- Với tấm lòng thương dân, lo đời sâu sắc, Nguyễn Khuyến đồng cảm, xót xa với nỗi đời cay cực, cùng quẫn của nhân dân đương thời, nạn nhân của thiên tai, loạn lạc… Qua đó, ta thấy lòng yêu nước, thương dân sâu sắc của tác giả.
3. Kết bài: Khái quát, tổng hợp lại vẻ đẹp nội dung và hình thức của bài thơ; nêu suy nghĩ, đánh giá về bài thơ.
- Bằng ngôn từ mộc mạc, giọng thơ trầm buồn, bài thơ Chợ Đồng của Nguyễn Khuyến phác họa bức tranh cuộc sống với những phong tục làng quê xưa, bày tỏ lòng yêu nước, thương dân thâm trầm mà sâu sắc.
- Chợ Đồng thể hiện tinh tế hồn quê trong thơ Nguyễn Khuyến. Đọc bài thơ, người đọc hiểu thêm về cuộc sống, những phong tục cũng như cuộc sống cơ cực của người xưa. Từ đó, biết trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc cũng như trân trọng cuộc sống tự do, yên bình hiện tại.
Phân tích bài thơ Chợ Đồng chọn lọc
Thi sĩ Xuân Diệu từng mệnh danh Nguyễn Khuyến là nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam. Yên Đổ, Bình Lục, tỉnh Hà Nam, môt vùng đồng chiêm trũng là nơi chôn nhau cắt rốn của Nguyễn Khuyến. Với tuổi đời 75, chỉ có 12 năm đi làm quan, còn lại trên nửa thế kỉ, ông gắn bó với làng xóm quê hương đi “Vườn Bùi, chốn cũ”, với núi An Lão, chợ Đồng,... thân yêu.
Nguyễn Khuyến đã mất non thế kỉ nhưng thơ ông, trái tim ông vẫn sống, vẫn gắn bó với cảnh dân tình dân. Cuộc sống thôn dã bình dị như thấm vào câu chữ bài thơ “Chợ Đồng” này. Ta đã biết nhiều tên chợ, phiên chợ trong ca dao, dân ca. “Chợ huyện một tháng sáu phiên - Gặp cô hàng xén kết duyên Châu - Trần; “Chợ Viềng năm có một phiên - Cái nón em đội cũng tiền anh trao”. Và chợ Đồng quê hương Tam Nguyên Yên Đổ.
Hai câu thơ đầu như một lời nhẩm tính chợt nhớ ra và còn hỏi, tự hỏi mình hay còn hỏi bà con đi chợ về?
Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng,
Năm nay chợ họp có đông không?
Làng Vị Hạ, quê hương Nguyễn Khuyến có chợ. Và còn gọi là chợ Đồng, mỗi tháng có chín phiên họp vào ngày chấn: 4, 6,10, 14, 16, 20, 24, 26, 30. Ba phiên chợ cuối năm, chợ không họp trong làng nữa, chợ Tết nên họp ở cánh nương mạ, cạnh một ngôi đền cổ ba gian. Những năm được mùa, chợ Đồng, ba phiên chợ Tết đông vui lắm. Trái lại, những năm mất mùa, chợ Đồng thưa thớt người mua hán. Câu thơ thứ nhất nhắc đến một nét đẹp của quê hương. Tết đã đến, ngày hai mươi bốn tháng chạp, chợ Đồng vào phiên. Hai tiếng “năm nay” thời gian không xác định. Có phải đó là năm Quý Tị (1983), năm Ất Tị (1905) đê sông Hồng bị vỡ, vùng Hà Nam bị lụt lớn: “Tị trước Tị này chục lẻ ba - Thuận dòng nước cũ lại bao la...” (Vịnh lụt). Năm tiếng “chợ họp có đông không” như một tiếng thở dài đằng sau câu hỏi nhỏ. Cầu thơ chứa đầy tâm trạng; tâm trạng của một nhà nho gắn bó với bao nỗi vui buồn của nhân dân giữa thời loạn lạc, đói rét, lầm than.
Tiếp theo là hai câu thơ 3, 4 trong phần “thực” thêm một câu hỏi nữa, diễn tả nỗi lòng nhà thơ. Ta như cảm thấy một ông già lụ khụ, tay chống gậy trúc, ngơ ngác nhìn trời, tự hỏi:
Dở trời mưa bụi còn hơi rét,
Uống rượu tường đền được mấy ông.
Dở trời là thời tiết không thuận. Mưa bụi, mưa phùn liên miên, đường sá, “ngõ trúc quanh co” nơi làng quê lại bùn lầy, nhớp nháp, cả một miền quê năm hết Tết đến chỉ còn “hơi rét”. Cái rét trong lòng người rét rà, hơi rét của đất trời cùng với mưa bụi trắng trời như vây chặt lấy bà con nơi chốn quê lam lũ. Câu thơ “Dở trời mưa bụi còn hơi rét” mang hàm nghĩa về cảnh lầm than, nỗi cơ hàn của nhân dân, của bà con dân cày nghèo khổ, cực nhọc. Chợ Đồng đang họp trong mưa rét.
“Nếm rượu tường đền” là một nét đẹp, cổ truyền diễn ra trong ba phiên chợ Đồng cuối năm. Các bô lão làng Vị Hạ vẫn ngồi tựa lưng vào tường đền “nếm rượu”, xem thứ rượu nào ngon thì mua để tế lễ thánh trong dịp Tết và đầu xuân. Chỉ một nét đẹp trong phong tục quê hương vẫn được Nguyễn Khuyến nhắc đến với bao tình cảm mến yêu và trân trọng. “Được mấy ông?” vì còn có bao cụ già nữa, thưa thớt, vắng vẻ cả rồi. Câu thơ thứ tư ý tại ngôn ngoại, đã thể hiện nỗi buồn bơ vơ, cô đơn của một nhà nho bất đắc chí, như ông đã nói trong bài “Gửi bạn”:
Đời loạn đi về như hạc độc,
Tuổi già hình bóng tựa mây côi.
Hoặc
Xuân về ngày loạn còn lơ láo,
Người gặp khi cùng cũng ngẩn ngơ.
=(Ngày xuân dặn các con)=
Hai câu 3, 4 chỉ một vài nét đơn sơ, tác giả đã tái hiện lại khung cảnh, không khí buồn tẻ của phiên chợ Đồng “năm nay” thưa thớt vắng vẻ, buồn trong mưa rét. Nó có giá trị hiện thực phản ánh cảnh dân, tình trên miền Bắc nước ta một trăm năm về trước.
Nguyễn Khuyến có tài ghi lại không khí cuộc sống dân dã vào trong những câu thơ của mình. Đây là cảnh chợ tan nhà thơ tả những âm thanh, những tiếng đời ông nghe được:
Hàng quán người về nghe xáo xác,
Nợ nần năm hết hỏi lung tung.
Có người cho rằng bài thơ “gợi lên không khí rộn rịp cảnh chợ Đồng” trong hai câu 5, 6 này. Xuân Diệu đã hiểu ngược lại, thi sĩ nói: “người về” không phải là về họp mà là ra về; càng về cuối chợ, có cái huyên thuyên của sự rã đám, kẻ đòi nợ càng thúc người chịu nợ... Cái âm “xáo xác” đối với cái thanh “lung tung”. Xao xác nghĩa là ồn ào mà ngơ ngác. Lung tung là rắc rối, loạn xạ cả lên. Tan chợ, phiên chợ Tết mà chỉ có tiếng đòi nợ, thúc nợ lung tung. Cái nghèo túng đang đè nặng xóm làng quê.
Cảnh hàng quán mua bán “nghe xáo xác”. Cái buồn của sự đói nghèo càng được nhân lên khi năm hết Tết đến rồi. Hai câu trong phần thực nói về cái rét, hai câu trong phần luận tả cái nghèo. Có nỗi khổ nào lớn hơn cái nỗi khổ cơ hàn? Vạn khổ bất như bần? Dân gian có câu: “Thứ nhất con đói, thứ hai nợ đòi, thứ ba nhà dột”. Đó là ba cái khổ của người nghèo xưa nay. Nguyễn Khuyến đã nghe được bao nỗi đời cay cực của nhân dân trong xã hội cũ, nên ông mới viết thấm thía như vậy: “Nợ nần năm hết hỏi lung tung”. Ông đã chỉ ra nguyên cớ của cái nghèo, cái rét ấy:
Năm nay cày cấy vẫn chân thua,
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.
Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,
Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,
Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.
Tằn tiện thế mà không khá nhỉ?
Nhờ trời rồi cũng mấy gian kho!
(Chốn quê)
Trở lại bài “Chợ Đồng” hai câu kết chứa chất bao tâm trạng. Người đi chợ về đã vãn. Một mình nhà thơ đứng bơ vơ nhẩm tính. “Dăm ba ngày nữa tin xuân tới”, năm cũ dần qua, năm mới dần sang. Cái nghèo, cái rét vẫn là nỗi lo, nỗi buồn man mác. Chợt nhà thơ giật mình trước cái âm thanh “Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng”. Tác giả vận dụng tài tình điển tích về tiếng pháo trúc xua đuổi ma quỷ của Lý Điền ngày xưa bên Trung Quốc để tạo ra một ý mới. Tiếng pháo trúc “nhà ai” nổ “một tiếng đùng” như muốn xua đi cái nghèo đói của năm cũ để “Co cẳng đạp thằng bần ra cửa... Giơ tay bồng ông phúc vào nhà” (Nguyễn Công Trứ). Nguyễn Khuyến đã từng chợt tỉnh khi nghe “Cú đâu đớp động dưới chân bèo”, và giờ đây trong cảnh “Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng” vãn, ông lại bồi hồi ngơ ngác lúc nghe “Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng”. “Nhà ai” - không rõ, mơ hồ, xa xăm. Nỗi cô đơn của nhà thơ không thể nào kể xiết được:
Dăm ba ngày nữa tin xuân tới,
Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng.
“Tin xuân tới” với bao nỗi mong chờ cho dân cày mát mặt “nhờ trời” để dân làng Vị Hạ “được bát cơm no”. Nguyễn Khuyến tả cảnh chợ Đồng với bao nỗi buồn lo, le lói một niềm ước mong cho dân nghèo khi “tin xuân tới”. Đó là tấm lòng thương dân, lo đời đáng quý.
Nguyễn Khuyến mất năm 1909, đúng bốn mươi năm sau, giặc Pháp kéo quân tới chiếm đóng làng Vị Hạ, càn quét bắn phá dã man. Chợ Đồng tan từ đây, và tục họp chợ Đồng vào cuối năm cũng mất. Bài thơ “Chợ Đồng” của Nguyễn Khuyến như một tấm bia nói về cuộc sống và phong tục làng quê xưa. Bài thơ thất ngôn bát cú cho ta nhiều ấn tượng. Ngôn ngữ bình dị, thuần Nôm. Giọng thơ trầm lặng, đượm một nỗi buồn man mác, cô đơn. Cảnh dân và tình dân được thể hiện qua một bút pháp điêu luyện. Cái hồn quê, cái tình quê như kết động qua âm thanh “xao xác”, qua hình ảnh “nếm rượu tường đền” của các bô lão tóc bạc phơ dưới làn mưa bụi “Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng’’... Nguyễn Khuyến vẫn đang hiển hiện cùng làng nước quê hương.
Phân tích bài thơ Chợ Đồng ngắn gọn
Nguyễn Khuyến, danh xưng là nhà thơ tài năng của dân tộc, là người trồng cây nghệ thuật thơ làng quê Việt Nam. Trong hơn 70 năm sống, ông dành hơn 40 năm gắn bó với làng quê, nơi mà những con trâu, ruộng đồng, củ khoai củ sắn không phải ai cũng để ý. Ít nhà thơ nào có khả năng chuyển tả hình ảnh dân dã vào thơ như ông, tạo ra những tác phẩm tinh tế, sâu sắc. Bài thơ Chợ Đồng là minh chứng, là nơi Nguyễn Khuyến gửi gắm nỗi xúc cảm sâu xa và nỗi đau của một tâm hồn yêu quê hương đất nước tha thiết.
Sau khi rời bỏ cuộc sống nhiễu nhương, Nguyễn Khuyến quay về quê nhà, làng Vị Hạ, xã Yên Đổ (nay là xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam). Làng ông có chợ Đồng, mỗi tháng họp chín phiên, đặc biệt trong những ngày tết lại có ba phiên chợ tết. Phiên chợ tết thường đông vui và náo nhiệt, nhưng đến những năm đói kém và thiên tai, chợ trở nên vắng vẻ. Thậm chí, sau sự xâm lược của thực dân Pháp, chợ Đồng ngừng hoạt động hoàn toàn, làm cho giá trị văn hóa lâu dài của nó bị lãng quên. Hai câu đầu của bài thơ như là lời tác giả tự hỏi về người làng đi chợ phiên về và đồng thời thể hiện sự lo lắng của bản thân:
'Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng,
Năm nay chợ họp có đông không?'
Làm sao ông hỏi như vậy? Và từ 'Năm nay' lại làm thế nào? Cảm nhận từ ngữ dè dặt, giọng thơ chậm rãi, như có tiếng thở dài trong nỗi trầm ngâm, tất cả đều là dấu hiệu rằng năm đó không phải là một năm chợ phiên đông vui. Có thể là năm mà Hà Nam lụt lớn, dân chúng gặp khó khăn, và chẳng ai quan tâm đến chợ Tết. Hai câu thơ chứa đựng nhiều nỗi buồn, thấu hiểu cho cuộc sống khó khăn, đau đớn của những người nông dân. Nó là biểu hiện của một nhà trí thức gắn bó với niềm vui và nỗi buồn của nhân dân trong làng quê khốn khổ.
Chuyển sang hai câu thơ thực, Nguyễn Khuyến lại đặt một câu hỏi ngập tràn tâm trạng hoang mang, rối bời giữa cảnh cô đơn, hình bóng vắng lặng của những ngày giáp Tết, nơi không khí thấp thoáng đìu hiu, buồn bã.
'Trời mưa bụi còn làn da rét,
Uống rượu tường đền được bao nhiêu ông?'
Xuân về, nhưng mùa xuân này lại bị bao phủ bởi cái thời tiết ẩm ương. Những hạt mưa bụi nhạt nhòa rơi lất phất, tưởng nhẹ hạt, nhưng ai đã đứng giữa trời mưa rồi thì mới biết rằng nó cũng không tầm thường, làm ướt áo người như thế nào. Thứ mưa bụi kèm theo gió đông nhẹ, khiến cho không khí trở nên 'hơi rét', đốt lửa lạnh ngay cả trong lòng người. Ngẫm lại khi đứng dưới cơn mưa bụi, ai còn nhớ được sắc đỏ của pháo Tết? Mọi người đều muốn trốn trong nhà, đường phố trở nên vắng vẻ, đặc biệt là đối với một cái Tết ở làng quê nghèo. Thế rồi, giữa tất cả, vẫn có một cụ già, với cái gậy cũ, từng bước đi kiếm lại những giá trị văn hóa quý báu. Ông quay về với những người bạn già, nhưng năm nào rượu cũng trở thành nỗi buồn vì chẳng còn những người bạn quen thuộc. Một nhà nho chân chính, giờ phải sống lưu vong với sự lạc lõng và cô đơn, cảm giác xót xa và cô quạnh đến lòng thi sĩ.
'Hàng quán vắng tanh, tiếng xáo xác,
Nợ nần năm hết, hỏi lung tung.'
Sau đó, nhà thơ già bỗng nghe thấy những âm thanh mới, hy vọng rằng đó là tiếng hân hoan, sự vui mừng của ngày Tết. Thế nhưng, âm thanh đó không phải là niềm vui mà là tiếng xáo xác hỗn loạn. Đó là âm thanh của chủ nợ đòi nợ, tiếng con nợ khát tiền, lời nói qua tiếng lại tạo nên bức tranh khổ sở, đau đớn của người dân tại chợ Đồng. Mỗi người đều mang theo nỗi đau riêng, người không đòi được tiền cay đắng, giận dữ, người mắc nợ lại đầy xấu hổ và đau đớn. Thấy vậy, Tết ở đây không còn là thời điểm để vui mừng, mà là dịp mọi người nhận thức sâu sắc về nghèo đói, khốn khó của những người nông dân xưa, phải đối mặt với nỗi lo âu từng ngày lo miệng ăn, không còn nói đến niềm vui của Tết.
'Dăm ba ngày nữa, tin xuân về.
Pháo trúc ở nhà nào cũng vang lên một tiếng động.'
Sau khi phiên chợ kết thúc, nhà thơ trong nỗi buồn sâu sắc, tính toán rằng chỉ còn vài ngày nữa là Tết lại về. Ông sống trong lo âu cho cuộc sống khó khăn của nhân dân, mong mọi người có một cái Tết ấm áp, hạnh phúc, không phải là cảnh tiêu điều và xáo xác như trước. Tiếng pháo nhà ai đột ngột vang lên 'đùng', đánh thức những người đang trong nỗi buồn, làm tan biến nghèo đói, làm tan biến cái lạnh của mưa bụi rét mướt. Tuy nhiên, không biết pháo đó thuộc về nhà nào, liệu âm thanh kỳ diệu đó có thực sự hay không, Nguyễn Khuyến không thể xác định. Chỉ biết rằng, tiếng pháo đơn độc giữa không gian những ngày cuối năm càng khiến tăng thêm nỗi buồn man mác, nỗi cô đơn trong tâm hồn của thi sĩ.
Bài thơ Chợ Đồng của Nguyễn Khuyến không chỉ là một tác phẩm xuất sắc, với nguyên liệu làng quê dân dã mà còn là một tác phẩm thể hiện sâu sắc tâm hồn nồng thắm của nhà thơ. Khuyến đã khám phá sâu hơn vào những cảnh vật, những âm thanh vốn rất bình thường, mang đến nhiều tầng cảm xúc hơn, đó là sự buồn bã lo lắng cho cuộc sống của nhân dân, sự đau đớn trước cảnh cơ hàn. Cuối cùng, hơn cả, đó là tấm lòng yêu thương nhân dân, yêu thương đất nước một cách sâu sắc, mong rằng toàn bộ dân tộc có một cuộc sống hạnh phúc, ấm no hơn, đặc biệt là trong những ngày sắp đến Tết.
Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trong nhóm Lớp 11 thuộc chuyên mục Học tập của HoaTieu.vn.
-
Chia sẻ:
Trần Thu Trang
- Ngày:
Nhiều người quan tâm
Tham khảo thêm
-
Đọc hiểu Một người Hà Nội
-
Phân tích nghệ thuật xây dựng tình huống và nhân vật trong tác phẩm Lão Hạc
-
Phân tích tác phẩm Cô hàng xén
-
Phân tích cấu tứ và hình ảnh trong bài thơ Tràng giang ngắn gọn
-
Phân tích và đánh giá đoạn trích Tổ quốc nhìn từ biển
-
Cấu tứ bài thơ Giải đi sớm
-
Đọc hiểu Cải ơi có đáp án
-
Phân tích tác phẩm Nghèo của Nam Cao hay
Theo Nghị định 147/2024/ND-CP, bạn cần xác thực tài khoản trước khi sử dụng tính năng này. Chúng tôi sẽ gửi mã xác thực qua SMS hoặc Zalo tới số điện thoại mà bạn nhập dưới đây:
Hướng dẫn & Hỗ trợ
Chọn một tùy chọn bên dưới để được giúp đỡ
Ngữ văn 11 tải nhiều
Học tập tải nhiều
-
Rung chuông vàng về chủ đề 22-12
-
Kế hoạch dạy học tích hợp Lịch sử Địa lí THCS Kết nối tri thức
-
Kế hoạch tích hợp năng lực số Hoạt động trải nghiệm THCS Chân trời sáng tạo
-
Đề thi học kì 1 môn Toán lớp 2 sách Chân trời sáng tạo năm 2025
-
Bài tập trắc nghiệm đúng sai Toán 11: Quan hệ song song trong không gian (Có đáp án)
-
Bài tập trắc nghiệm đúng sai Toán 11: Phương trình lượng giác (Có đáp án)
-
Bài tập trắc nghiệm đúng sai Toán 11: Giới hạn của hàm số (Có đáp án)
-
Kế hoạch tích hợp năng lực số Khoa học tự nhiên THCS Kết nối tri thức
-
Bài tập về Từ chỉ hoạt động, trạng thái - Câu nêu hoạt động
-
Kế hoạch tích hợp năng lực số môn Giáo dục thể chất THCS bộ KNTT
Bài viết hay Ngữ văn 11
-
Thơ tình người lính biển đọc hiểu
-
(Chuẩn) Kỹ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội 200 chữ
-
Viết đoạn văn ngắn cảm nhận về bức tranh thu trong bài thơ Câu cá mùa thu
-
Bộ đề đọc hiểu Ngữ văn 11 chương trình mới có đáp án
-
Viết một đoạn văn trả lời câu hỏi: Vì sao phải coi luật pháp như khí trời để thở?
-
Soạn Vợ nhặt lớp 11 Kết nối tri thức