Đọc hiểu Đời thừa Nam Cao

Đời thừa là một tác phẩm văn học hiện thực của nhà văn Nam Cao. Đời thừa là truyện về một nhà văn nghèo bất đắc dĩ. Tác phẩm xoay quanh cuộc sống của Hộ - một người luôn hướng tới sự toàn mỹ trong việc sáng tạo nghệ thuật và luôn cố gắng giữ lấy lý tưởng sống của mình nhưng tất cả đều trở thành bi kịch trước những nỗi lo cơm áo thường ngày.

Bộ đề đọc hiểu văn bản Đời thừa của Nam Cao, kèm theo đáp án chi tiết, là tài liệu hữu ích giúp các bạn học sinh nắm vững những khía cạnh quan trọng của tác phẩm này. Qua bộ đề, người học sẽ hiểu rõ hơn về ngôi kể, phương thức biểu đạt, cũng như những giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc mà Nam Cao đã khéo léo thể hiện trong Đời thừa. Tác phẩm không chỉ phản ánh hiện thực xã hội đầy khắc nghiệt trước Cách mạng tháng Tám, mà còn khắc họa sâu sắc bi kịch tinh thần của người trí thức trong cảnh sống “thừa”. Mời các bạn cùng khám phá chi tiết qua nội dung dưới đây để cảm nhận rõ hơn tài năng và tư tưởng của Nam Cao!

Đọc hiểu văn bản Đời thừa

Đọc hiểu Đời thừa - Nam Cao Hộ vốn nghèo

ĐỌC HIỂU (6.0 điểm)

Hộ vốn nghèo. Hắn là một nhà văn, trước kia, với cách viết thận trọng của hắn, hắn chỉ kiếm được vừa đủ để một mình hắn sống một cách eo hẹp, có thể nói là cực khổ. Nhưng bấy giờ hắn chỉ có một mình. Ðói rét không có nghĩa lý gì đối với gã trẻ tuổi say mê lý tưởng. Lòng hắn đẹp. Ðầu hắn mang một hoài bão lớn.Hắn khinh những lo lắng tủn mủn về vật chất. Hắn chỉ lo vun trồng cho cái tài của hắn ngày một thêm nảy nở. Hắn đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán. Ðối với hắn lúc ấy, nghệ thuật là tất cả; ngoài nghệ thuật không còn gì đáng quan tâm nữa. Hắn băn khoăn nghĩ đến một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời... Thế rồi, khi đã ghép đời Từ vào cuộc đời của hắn, hắn có cả một gia đình phải chăm lo. Hắn hiểu thế nào là giá trị của đồng tiền; hắn hiểu những nỗi đau khổ của một kẻ đàn ông khi thấy vợ con mình đói rách. Những bận rộn tẹp nhẹp, vô nghĩa lý, nhưng không thể không nghĩ tới, ngốn một phần lớn thì giờ của hắn. Hắn phải cho in nhiều cuốn văn viết vội vàng. Hắn phải viết những bài báo để người ta đọc rồi quên ngay sau lúc đọc. Rồi mỗi lần đọc lại một cuốn sách hay một đoạn văn ký tên mình, hắn lại đỏ mặt lên, cau mày, nghiến răng vò nát sách và mắng mình như một thằng khốn nạn... Khốn nạn! Khốn nạn! Khốn nạn thay cho hắn! Bởi vì chính hắn là một thằng khốn nạn! Hắn chính là một kẻ bất lương! Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện. Chao ôi! Hắn đã viết những gì? Toàn những cái vô vị, nhạt nhẽo, gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông, diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi. Hắn chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chương. Thế nghĩa là hắn là một kẻ vô ích, một người thừa... Hắn nghĩ thế và buồn lắm, buồn lắm! Còn gì buồn hơn chính mình lại chán mình? Còn gì đau đớn hơn cho một kẻ vẫn khát khao làm một cái gì nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt? Hắn để mặc vợ con khổ sở ư? Hắn bỏ liều, hắn ruồng rẫy chúng, hắn hy sinh như người ta vẫn nói ư? Ðã một vài lần hắn thấy ý nghĩ trên đây thoáng qua đầu... Rồi hắn ra về, thờ thẫn. Những sự bực tức đã chìm đi. Lòng hắn không còn sôi nổi nữa, nhưng rũ buồn...

(Trích “ Đời Thừa” của Nam Cao)

Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản?

>>> Phương thức biểu đạt chính của văn bản là: Tự sự.

Câu 2: Từ nhân vật Hộ, Nam Cao hướng đến đối tượng nào trong xã hội?

>>> Đối tượng mà Nam Cao hướng đến trong đoạn trích là ai: Nhà văn hoặc người trí thức.

Câu 3: Trước khi gặp Từ, Hộ có quan niệm về nghệ thuật như thế nào?

>>>  Trước khi gặp Từ, Hộ có quan niệm về nghệ thuật: nghệ thuật là tất cả; ngoài nghệ thuật không còn gì đáng quan tâm nữa.

Câu 4: Tại sao, khi đã ghép đời Từ vào cuộc đời của hắn thì quan niệm nghệ thuật của Hộ lại thay đổi?

>>> Khi đã ghép đời Từ vào cuộc đời của hắn thì quan niệm nghệ thuật của Hộ lại thay đổi vì: Hắn có cả một gia đình phải chăm lo. Hắn hiểu thế nào là giá trị của đồng tiền; hắn hiểu những nỗi đau khổ của một kẻ đàn ông khi thấy vợ con mình đói rách…

Câu 5: Anh ( chị ) hiểu thế nào về câu nói sau “Ðói rét không có nghĩa lý gì đối với gã trẻ tuổi say mê lý tưởng”?

>>> Có thể hiểu: Tuổi trẻ mang lại sức mạnh ,ý chí với những ước mơ,lý tưởng sống cao đẹp giúp con người vượt qua mọi khó khăn, thử thách trong cuộc sống.

Câu 6: Xác định và phân tích hiệu quả của biện pháp tu từ trong câu văn :

>>> “Khốn nạn! Khốn nạn! Khốn nạn thay cho hắn! Bởi vì chính hắn là một thằng khốn nạn! Hắn chính là một kẻ bất lương”.

BPTT điệp ngữ: Khốn nạn

Tác dụng:

+ Nhấn mạnh nỗi đau đớn , tủi nhục của nhân vật Hộ khi không được sống là chính mình.

+Thái độ của nhà văn Nam Cao: Thấu hiểu,đồng cảm ,sẻ chia và yêu thương với người trí thức.

Câu 7: Qua nhân vật Hộ, anh/chị hãy nêu những phẩm chất cần có của con người trong cuộc sống hiện nay?

>>> Những phẩm chất cần có của con người trong cuộc sống hiện nay: Sống phải có lí tưởng , ước mơ chân chính, yêu thương gia đình, đồng cảm...

Câu 8: Thông điệp nào có ý nghĩa nhất với anh/chị? Vì sao?

>>> Học sinh trình bày thông điệp ý nghĩa nhất với bản thân. Thông điệp phù hợp với nội dung tư tưởng của văn bản và mang tính đạo đức, thẩm mĩ và biết lí giải hợp lí.

Đọc hiểu Đời thừa trắc nghiệm

Đọc kĩ văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Đời thừa

Từ ngẩng đầu lên nhìn Hộ ba lần. Ba lần, Từ muốn nói nhưng lại không dám nói. Hắn đang đọc chăm chú quá. Ðôi lông mày rậm của hắn châu đầu lại với nhau và hơi xếch lên một chút. Ðôi mắt sáng quắc có vẻ lồi ra. Cái trán rộng hơi nhăn. Ðôi lưỡng quyền[1] đứng sừng sững trên bờ hai cái hố sâu của má thì bóng nhẫy.

Cả cái mũi cao và thẳng tắp cũng bóng lên như vậy. Cái mặt hốc hác ấy, nghiêng nghiêng bên trên quyển sách, trông khắc khổ đến thành dữ tợn. Từ thấy sợ...

(Lược một đoạn: Từ hồi tưởng lại việc Hộ đã cứu vớt, cưu mang mẹ con Từ khi Từ bị tình phụ, những ngày tháng yêu thương, hạnh phúc,... Còn Hộ nghĩ: "đáng lẽ Hộ phải sung sướng lắm").

Nhưng Hộ chỉ sung sướng được ít lâu thôi. Sau cái hành vi đẹp của hắn, và cái hành vi ấy được trả công bằng một tình yêu rất êm đềm, hắn chỉ còn nghĩ đến gia đình, chỉ cốt làm sao nuôi được gia đình. Hộ vốn nghèo.

Hắn là một nhà văn, trước kia, với cách viết thận trọng của hắn, hắn chỉ kiếm được vừa đủ để một mình hắn sống một cách eo hẹp, có thể nói là cực khổ. Nhưng bấy giờ hắn chỉ có một mình. Ðói rét không có nghĩa lý gì đối với gã trẻ tuổi say mê lý tưởng. Lòng hắn đẹp. Ðầu hắn mang một hoài bão lớn[3]. [...] Thế rồi, khi đã ghép đời Từ vào cuộc đời của hắn, hắn có cả một gia đình phải chăm lo. Hắn hiểu thế nào là giá trị của đồng tiền; hắn hiểu những nỗi đau khổ của một kẻ đàn ông khi thấy vợ con mình đói rách. Những bận rộn tẹp nhẹp, vô nghĩa lý, nhưng không thể không nghĩ tới, ngốn một phần lớn thì giờ của hắn. Hắn phải cho in nhiều cuốn văn viết vội vàng. Hắn phải viết những bài báo để người ta đọc rồi quên ngay sau lúc đọc. Rồi mỗi lần đọc lại một cuốn sách hay một đoạn văn ký tên mình, hắn lại đỏ mặt lên, cau mày, nghiến răng vò nát sách và mắng mình như một thằng khốn nạn... Khốn nạn! Khốn nạn! Khốn nạn thay cho hắn! Bởi vì chính hắn là một thằng khốn nạn! Hắn chính là một kẻ bất lương! Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện. Chao ôi! Hắn đã viết những gì? Toàn những cái vô vị, nhạt nhẽo, gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông, diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi. Hắn chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chương. Thế nghĩa là hắn là một kẻ vô ích, một người thừa. [...] Còn gì đau đớn hơn cho một kẻ vẫn khát khao làm một cái gì nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt? Hắn để mặc vợ con khổ sở ư? Hắn bỏ liều, hắn ruồng rẫy chúng, hắn hy sinh như người ta vẫn nói ư? Ðã một vài lần hắn thấy ý nghĩ trên đây thoáng qua đầu. Và hắn nghĩ đến câu nói hùng hồn của một nhà triết học kia: "Phải biết ác, biết tàn nhẫn để sống cho mạnh mẽ". Nhưng hắn lại nghĩ thêm rằng: Từ rất đáng yêu, rất đáng thương, hắn có thể hy sinh tình yêu, thứ tình yêu vị kỷ đi; nhưng hắn không thể bỏ lòng thương; có lẽ hắn nhu nhược, hèn nhát, tầm thường, nhưng hắn vẫn còn được là người: hắn là người chứ không phải là một thứ quái vật bị sai khiến bởi lòng tự ái. Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thỏa mãn lòng ích kỷ. [...] Hắn tự bảo: "Ta đành phí đi một vài năm để kiếm tiền. Khi Từ đã có một số vốn con để làm ăn! Sự sinh hoạt lúc này chẳng dễ dàng đâu!". Từ khi đứa con này chưa kịp lớn lên, đứa con khác đã vội ra, mà đứa con nào cũng nhiều đẹn, nhiều sài, quấy rức, khóc mếu suốt ngày đêm và quanh năm uống thuốc. Từ săn sóc chúng đã đủ ốm người rồi, chẳng còn có thể làm thêm một việc khác nữa. Hộ điên người lên vì phải xoay tiền. Hắn còn điên lên vì con khóc, nhà không lúc nào được yên tĩnh để cho hắn viết hay đọc sách. Hắn thấy mình khổ quá, bực bội quá.

Hắn trở nên cau có và gắt gỏng. Hắn gắt gỏng với con, với vợ, với bất cứ ai, với chính mình. Và nhiều khi, không còn chịu nổi cái không khí bực tức ở trong nhà, hắn đang ngồi bỗng đứng phắt lên, mắt chan chứa nước, mặt hầm hầm, vùng vằng đi ra phố, vừa đi vừa nuốt nghẹn. Hắn tìm một người bạn thân nào để nói chuyện văn chương, ngỏ ý kiến về một vài quyển sách mới ra, một vài tên ký mới trên các báo, phác họa một cái chương trình mà hắn biết ngay khi nói là chẳng bao giờ hắn có thể thực hành, rồi lặng lẽ nghĩ đến cái tác phẩm dự định từ mấy năm nay để mà chán ngán. Hắn thừ mặt ra như một kẻ phải đi đày, một buổi chiều âm thầm kia, ngồi trong một làn khói nặng u buồn mà nhớ quê hương. Hắn cũng nhớ nhung một cái gì rất xa xôi... những mộng đẹp ngày xưa... một con người rất đáng yêu đã chẳng là mình nữa. Hắn lắc đầu tự bảo: "Thôi thế là hết! Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi". Và hắn nghĩ đến cái tên hắn đang mờ dần đằng sau những tên khác mới trồi ra, rực rỡ hơn... Rồi hắn ra về, thờ thẫn. Những sự bực tức đã chìm đi. Lòng hắn không còn sôi nổi nữa, nhưng rũ buồn...

*

[...]

Cao hứng Hộ bỗng ngoảnh mặt lên. Hắn vừa gặp được một đoạn hay lắm nên ngừng đọc, ngẫm nghĩ và để cho cái khoái cảm ngân ra trong lòng. Ðôi mắt hắn, tuy mới rời trang sách đã nhìn ngay lại phía Từ. Hắn mỉm cười, Từ cũng mỉm cười. Hắn bảo:

- Này, Từ ạ... Nghĩ cho kỹ, đời tôi không đáng khổ mà hóa khổ, chính tôi làm cái thân tôi khổ, tôi mê văn quá nên mới khổ. Ấy thế, mà tuy khổ thì khổ thật, nhưng thử có người giàu bạc vạn nào thuận đổi lấy cái địa vị của tôi, chưa chắc tôi đã đổi. Tôi cho rằng: những khi được đọc một đoạn văn như đoạn này, mà lại hiểu được tất cả cái hay, thì dẫu ăn một món ăn ngon đến đâu cũng không thích bằng. Sướng lắm! Sao thiên hạ lại có người tài đến thế? Mình tính: người ta tả cái cảnh một người nhớ quê hương chỉ mất có ba câu, đúng ba câu!...

Mình có hiểu không? ... Ba câu giản dị một cách không ngờ mà hay được đến như thế này... Hắn đọc lại đoạn văn. Hắn định nghĩa để Từ nghe. Hắn giảng giải cho Từ. Tuy Từ chẳng hiểu được bao nhiêu, nhưng cũng tin lời hắn lắm. Từ giữ mãi nụ cười hiền dịu trong khi nghe hắn nói. Khi hắn ngừng nói đã được một lúc khá lâu.

Từ mới làm như chợt nhớ ra:

- Có lẽ hôm nay đã là mồng hai, mồng ba tây rồi, mình nhỉ?

- À phải! Hôm nay mồng ba... Giá mình không hỏi tôi thì tôi quên... Tôi phải đi xuống phố.

Từ nhắc khéo:

- Hèn nào mà em thấy người thu tiền nhà sáng nay đã đến...

Hộ sầm mặt lại:

- Tiền nhà... tiền giặt... tiền thuốc... tiền nước mắm... Còn chịu tất! Tháng vừa rồi tiêu tốn quá, mới mồng mười đã hết tiền. May mà còn có đất mua chịu được.

Hắn nghĩ đến món tiền hắn đã tiêu phí mấy hôm đầu tháng. Mỗi lần hắn bực tức hay chán nản, hắn lại đi uống rượu, thành thử hết tiền sớm. Từ không hé môi phàn nàn nửa tiếng, nhưng cả tháng Từ ăn và bắt các con ăn kham khổ, thường thường đói nữa! Quà sáng thì bỏ hẳn, có khi bữa tối cũng chịu nhịn cơm, ăn cháo. Hộ trông thấy thế, thương vợ, thương con. Hắn vừa mặc quần áo, vừa nhắc thầm trong trí:

- Nhất định hôm nay không đi đâu cả... Lấy tiền xong là về ngay...

Nhưng Từ bảo:

- Mình đi phố thì đi ăn nhé. Còn có ít gạo chỉ đủ cho lũ trẻ. Em chả đong thêm nữa, để mai trả tiền rồi lấy thêm luôn một thể... Em không để cơm mình đâu đấy... Nhà chẳng còn gì ăn...

Hộ hơi cau mày. Bởi vì hắn sợ bước vào tiệm ăn lắm. Hắn có thể gặp ở đây một vài người bạn... và khi ấy thì... ôi thôi! Mặc kệ gia đình và những cái gì còn lại!... Hắn sẽ uống rất khỏe, nói toàn những chuyện vá trời lấp biển, rồi đi la cà đến hết đêm mới về. Hắn nghĩ ngợi một chút rồi hắn bảo:

- Ðược! Tôi sẽ mua cái gì về để cả nhà cùng ăn.

- Ðừng phiền nữa! Em cứ cho chúng nó ăn cơm trước rồi đi ngủ.

- Ðừng ăn trước... Ðợi tôi đem thức ăn về, ăn một thể. Tôi về sớm. Cả tháng chúng nó đói khát, khổ sở, hôm nay có tiền cũng nên cho chúng nó một bữa ăn ra hồn.

- Vẽ chuyện!

Hắn mỉm cười, đáp lại. Hắn lại gần Từ, cúi xuống nắm lấy tay đứa bé và gọi nó. Mặt hắn và mặt Từ ghé sát.

Hắn cố ý khẽ chạm môi mình vào má Từ một cái. Từ vờ giũ mấy cái bụi ở tay áo hắn. Vợ chồng nhìn nhau âu yếm. Hắn vuốt má Từ một cái rồi ra đi.

Ở tòa báo ra, Hội đi thẳng tới một hiệu thịt quay. Hắn định mua mấy hào thịt, vài cái bánh tây, gói đem về.

Lòng hắn sáng bừng. Hắn tưởng tượng ra cái cảnh lũ con háu ăn và đói khát, rón thịt bằng tay và ăn những miếng bánh thật to, miệng phụng phịu và môi bóng nhờn những mỡ. Cái cảnh thô tục và cảm động! Hắn sẽ cười thỏa thích. Còn Từ sẽ ngồi bên hắn mà nhìn chúng, đôi mắt sung sướng và thương hại loang loáng ướt...

Ðến trước cửa hiệu thịt quay, Hộ dừng lại. Hắn cẩn thận nhìn trước, nhìn sau, trước khi vào. Một người quen có thể đi qua, và nếu họ bắt gặp hắn đang cố nhét một một gói thịt vào túi áo!... Không! Không có gì đáng ngại, ngoài đường phố... Nhưng trong hiệu, một thiếu nữ đẹp đang mặc cả... Hắn đành đợi vậy. Trong khi đợi, hai tay chắp sau lưng, hắn làm ra vẻ đợi một người bạn vừa vào một nhà nào gần đấy. Bỗng một bàn tay đập vào vai khiến hắn giật mình quay lại.

(Lược một đoạn: Hộ gặp Trung và Mão, biết tin cuốn "Đường về" của một người bạn sắp được dịch sang tiếng Anh, không cưỡng lại được nỗi bức xúc trong lòng, anh lại đi uống rượu).

Hộ đã quên hẳn vợ con. Hắn chỉ còn háo hức muốn biết thêm về việc quyển "Ðường về" của Quyền được dịch ra tiếng Anh. Hắn bám lấy Mão và Trung. Ba người vào một tiệm giải khát ở Bờ Hồ. Và chỉ độ nửa giờ sau, Mão và Trung đã thấy Hộ đỏ tai, giộng một cái vỏ chai bia xuống mặt bàn:

- Cuốn "Ðường về" chỉ có giá trị địa phương thôi, các anh có hiểu không? Người ta dịch nó vì muốn biết phong tục của mọi nơi. Nó chỉ tả được cái bề ngoài của xã hội. Tôi cho là xoàng lắm! Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái[5] , sự công bình... Nó làm cho người gần người hơn. Như thế mới thật là một tác phẩm hay, các anh có hiểu không? Tôi chưa thất vọng đâu! Rồi các anh xem... Cả một đời tôi, tôi sẽ chỉ viết một quyển thôi, nhưng quyển ấy sẽ ăn giải Nobel[6] và dịch ra đủ mọi thứ tiếng trên hoàn cầu!

Trung gật gù cười, vẫn cái cười lặng lẽ của y. Mão thì cười hô hố. Hộ không cười, mặt căng lên vì hứng khởi. Hắn nói say sưa lắm. Và đến lúc đèn phố bật, Trung và Mão muốn về, Hộ bảo luôn:

- Thong thả đã! Ði đâu mà vội? Chúng mình đi uống rượu... Tôi có tiền...

Sáng hôm sau. Hắn thức dậy trên cái giường nhà hắn. Hắn thấy mình mẩy đau như dần, đầu nặng, miệng khô và đắng. Cổ thì ráo và rát cháy. Hắn đưa tay với ấm nước ở trên bàn để uống. Ấm nước đầy và nước hãy còn ấm. Ðó là sự ý tứ của Từ. Hộ hiểu thế, và lòng buồn nao nao.

Bởi hắn lờ mờ nhớ ra rằng: hình như đêm qua hắn say rượu, đi la cà chán rồi về, lại gây sự với Từ; hình như hắn lại đánh cả Từ, đuổi Từ đi, rồi mới đóng cửa lại và đi ngủ... Hắn đột nhiên hoảng sợ, nhổm dậy, mắt nhớn nhác tìm Từ. Nhưng không! Từ vẫn còn nhà... Chắc hẳn trong lúc quá say, hắn gài cửa nhưng chưa gài được, thành thử khi thấy hắn ngủ mệt rồi, Từ lại bế con vào. Bây giờ Từ đang thiếp đi trên võng, đứa con nhỏ nằm bên. Từ vốn dậy sớm quen. Sáng nay, chắc Từ mệt quá, vừa mới lịm đi, nên mới ngủ trưa như thế. Ðầu Từ ngoẹo về một bên. Một tay Từ trật ra ngoài mép võng, sã xuống, cái bàn tay hơi xòe ra lỏng lẻo. Dáng nằm thật là khó nhọc và khổ não. Hắn bùi ngùi. Chao ôi! Trông Từ nằm thật đáng thương! Hèn chi mà Từ khổ cả một đời người! Cái tướng vất vả lộ ra cả đến trong giấc ngủ. Hộ nhớ ra rằng: một đôi lúc, nếu nhìn kỹ thì Từ khó mặt lắm. Ðột nhiên Hộ nảy ra ý muốn lại gần Từ, nhìn kỹ xem mặt Từ lúc bây giờ ra sao? Hắn rón rén, đi chân không lại. Hắn ngồi xổm ngay xuống đất, bên cạnh võng và cố thở cho thật khẽ. Hắn ngắm nghía mặt.

Từ lâu lắm. Da mặt Từ xanh nhợt; môi nhợt nhạt; mi mắt hơi tim tím và chung quanh mắt có quầng, đôi má đã hơi hóp lại khiến mặt hơi có cạnh. Hộ khẽ thở dài và lắc đầu ái ngại. Hắn dịu dàng nắm lấy tay sã xuống của Từ. Cái bàn tay lủng củng rặt những xương! Trên mu bàn tay, những đường gân xanh bóng ra, làn da mỏng và xanh trong, xanh lọc. Cái cổ tay mỏng manh. Tất cả lộ một cái gì mềm yếu, một cái gì ẻo lả, cần được hắn che chở và bênh vực... Một vẻ bạc mệnh, một cái gì đau khổ và chật vật, cần được hắn vỗ về an ủi...

Thế mà hắn đã làm gì để cho đời Từ đỡ khổ hơn? Hắn đã làm gì để cho Từ khỏi khổ? Nước mắt hắn bật ra như nước một quả chanh mà người ta bóp mạnh. Và hắn khóc... Ôi chao! Hắn khóc! Hắn khóc nức nở, khóc như thể không ra tiếng khóc. Hắn ôm chặt lấy cái bàn tay bé nhỏ của Từ vào ngực mình mà khóc. Từ thức dậy, Từ hiểu ngay, không cần hỏi một câu nào cũng hiểu. Và Từ cảm động. Mắt Từ giàn giụa nước. Từ khẽ rút tay ra, vòng lên cổ chồng, nhẹ nhàng núi hắn vào, để hắn gục đầu lên cạnh ngực Từ. Hắn lại càng khóc to hơn và cố nói qua tiếng khóc:

- Anh... anh... chỉ là... một thằng... khốn nạn!...

- Không!... Anh chỉ là một người khổ sở!... Chính vì em mà anh khổ...

Từ bảo thế. Tay Từ níu mạnh hơn một chút. Ngực Từ thổn thức. Từ chực ngả đầu sát vào vai Hộ. Nhưng đứa con, bị giằng, khóc thét lên. Từ vội buông chồng ra để vỗ con. Tiếng vẫn còn ướt lệ, Từ dỗ nó:

- A! Mợ đây! Mợ đây mà! Ôi chao! Con tôi nó giật mình... Mợ thương...

Hộ đã tránh chỗ để Từ đưa võng... Từ vừa đưa vừa hát:

Ai làm cho gió lên giời,

Cho mưa xuống đất, cho người biệt li;

Ai làm cho Nam, Bắc phân kỳ,

Cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thân.

Theo Nam Cao

Câu 1. Đề tài của truyện ngắn Đời thừa (Nam Cao) là:

A. Người phụ nữ.

B. Người nông dân

C. Người trí thức

D. Người chiến sĩ

Câu 2. Câu văn: Cái mặt hốc hác ấy, nghiêng nghiêng bên trên quyển sách, trông khắc khổ đến thành dữ tợn đã khắc họa đặc điểm nào của nhân vật Hộ?

A. Nghiêm khắc, khó tính.

B. Say mê văn chương.

C. Lạnh lùng, tàn nhẫn

D. U buồn, cô độc.

Câu 3. Vì sao Hộ lại quyết định cứu vớt Từ?

A. Vì Hộ yêu thương Từ và các con một cách chân thành.

B. Vì Hộ muốn thể hiện bản lĩnh của một kẻ khổng lồ

C. Vì Hộ thương hại một người phụ nữ bất hạnh như Từ

D. Vì Hộ bất đắc dĩ phải chịu trách nhiệm với Từ.

Câu 4. Để cưu mang Từ và các con, Hộ đã phải chấp nhận làm điều gì?

A. Từ bỏ công việc sáng tác để giúp đỡ Từ chăm sóc các con.

B. Viết những những thứ văn vô vị, nhạt nhẽo để kiếm tiền

C. Gắt gỏng với chính mình vì đã không thể chăm lo cho vợ con.

D. Cắt đứt mối quan hệ với những người bạn văn chương của mình.

Câu 5. Câu nói "Thôi thế là hết! Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi" thể hiện đặc điểm nào của nhân vật Hộ?

A. Hộ tuyệt vọng tự ý thức được sự tha hóa của tư cách tri thức ở mình

B. Hộ đau đớn trước tình cảnh nghèo khổ, cùng quẫn của gia đình.

C. Hộ ăn năn vì những hành động tàn nhẫn đối với mẹ con Từ.

D. Hộ phẫn nộ khi mẹ con Từ đã khiến cuộc đời hắn trở nên thảm hại.

Câu 6. Thông qua nhân vật Hộ, Nam Cao muốn phản ánh bi kịch nào của người trí thức đương thời?

A. Bi kịch nghèo khổ, thiếu thốn về vật chất.

B. Bi kịch tha hóa về nhân cách.

C. Bi kịch thiếu thốn tình yêu thương.

D. Bi kịch cô đơn, lạc lõng của kẻ thất thế.

Câu 7. Hãy lí giải ý nghĩa của nhan đề Đời thừa.

>>> Ý nghĩa của nhan đề Đời thừa:

- Đời thừa được hiểu là cuộc đời bỏ đi, cuộc đời không có nghĩa lí gì.

+ Hộ vốn là người tử tể, giàu khát vọng yêu thương, giàu nhân cách. Hộ vốn là người cho Từ niềm tin nhưng rồi lại đánh mắng vợ con.

+ Hộ vốn là người tử tế trong văn chương nhưng cuối cùng lại viết ra những thứ văn rẻ tiền.

→ Hộ không có ý nghĩa trong cuộc đời dù bản thân nhân cách rất tử tế.

Câu 8. Vì sao vừa vui sướng khi mường tượng ra Cái cảnh thô tục và cảm động về những đứa con, Hộ đã quên hẳn vợ con để say sưa bàn luận với hai người bạn về cuốn Đường về?

>>> Vừa vui sướng khi mường tượng ra Cái cảnh thô tục và cảm động về những đứa con, Hộ đã quên hẳn vợ con để say sưa bàn luận với hai người bạn về cuốn Đường về vì:

- Con người đâu phải chỉ sống ở một phương diện. Con người luôn là tổng hòa của những mối bận tâm.

- Hộ ngoài việc là một người đàn ông của gia đình thì cũng là một chàng trai có khát vọng, có hoài bão.

→ Bi kịch của con người khi sống trong tổng hòa của rất nhiều mối quan hệ. Khi những mối quan hệ đó va chạm vào nhau con ngươi trở nên dở dang, bế tắc.

Câu 9. Nêu cảm nhận của em về những giọt nước mắt của Hộ ở phần kết của câu chuyện.

>>> Cảm nhận về giọt nước mắt của nhân vật Hộ: Đây là giọt nước mắt của sự dũng cảm: Anh dũng cảm thừa nhận sự yếu đuối, sự bất lực của mình. Con người có thẻ không hoàn hảo, có thể không lí tưởng nhưng là con người biết nghĩ suy.

Câu 10. Viết bài luận phân tích, đánh giá bi kịch của người trí thức được thể hiện qua truyện ngắn Đời thừa của Nam Cao.

>>>  Đảm bảo kết cấu (mở bài, thân bài, kết bài).

a. Mở bài:

- Nêu vấn đề bàn luận: Phân tích, đánh giá bi kịch của người trí thức được thể hiện qua truyện ngắn Đời thừa

của Nam Cao.

b. Thân bài:

* Giải thích:

Bi kịch: Là sự xung đột sự va đập giữa hiện thực và ước mơ. Cũng có thể hiểu bi kịch là sự va đập của những

giá trị tốt đẹp với nhau (nghề nghiệp và tình thương).

- Bi kịch của Hộ là đại diện cho bi kịch của người trí thức trong xã hội xưa.

* Phân tích:

- Bi kịch văn chương:

+ Lý tưởng ban đầu của Hộ là viết một thứ văn như thế nào? (Chỉ viết một tác phẩm nhưng tác phẩm có thể

đạt giải, tác phẩm ca ngợi tình yêu thương, lòng bác ái).

+ Trong thực tế Hộ chỉ viết một thứ văn khuấy loãng, mình đọc còn thấy xấu hổ.

- Bi kịch con người:

+ Bản thân Hộ là một người giàu lòng yêu thương, Hộ cứu vớt mẹ con Từ. Đây chính là cuốn tiểu thuyết hay

nhất mà Hộ viết. Hộ yêu con, Hộ tưởng tượng đến cảnh đứa con được ăn no và cảm thấy hạnh phúc.

+ Trong thực tế, Hộ lại là một “Chí Phèo trí thức” đánh vợ, mắng con.

→ Bi kịch lớn nhất đó là bi kịch văn chương va đập với bi kịch con người. Nguyên nhân dẫn đến sự va đập

đó chính là việc Hộ cố gắng níu giữ cả hai giá trị. Ngoài ra, nguyên nhân đến từ thực tế khách quan, xã hội đã

đẩy con người đến sự giằng xé giữa lý tưởng, tình thương và sự đói nghèo.

* Nhận xét: Chủ nghĩa nhân đạo mới mẻ: Từ cái nghèo, đói Hộ đã đánh mất chính mình.

c. Kết bài: Đánh giá lại vấn đề.

Đọc hiểu Đời thừa đề 1

Đọc văn bản sau và thực hiện yêu cầu:

(Lược phần đầu: Hộ là một văn sĩ nghèo mang trong mình nhiều hoài bão ước mơ. Anh là người có lí tưởng sống rất cao đẹp. Là một nhà văn, anh đã từng ước mơ có những tác phẩm lớn, có giá trị vượt thời gian. Nhưng từ khi cứu vớt cuộc đời Từ, cưới Từ về làm vợ, anh phải lo cho cuộc sống của cả gia đình chỉ với những đồng tiền ít ỏi của nghề viết văn. Hộ phải viết những thứ văn rẻ tiền để bị dằn vặt để phải tự nguyền rủa mình nhưng vợ con anh vẫn nheo nhóc. Túng quẫn và phẫn uất, Hộ chán nản đâm vào rượu chè, say xỉn... Mỗi lần say lại bốc đồng và về nhà làm khổ Từ... Khi tỉnh dậy Hộ lại ân hận, hối tiếc, ăn năn...)

Sáng hôm sau, hắn thức dậy trên cái giường nhà hắn. Hắn thấy mình mẩy đau như dần, đầu nặng, miệng khô và đắng. Cổ thì ráo và rát cháy. Hắn đưa tay với ấm nước ở trên bàn để uống. Ấm nước đầy và nước hãy còn ấm. Ðó là một sự ý tứ của Từ. Hộ hiểu thế, và lòng buồn nao nao. Bởi hắn lờ mờ nhớ ra rằng: hình như đêm qua hắn say rượu, đi la cà chán rồi về, lại gây sự với Từ; hình như hắn lại đánh cả Từ, đuổi Từ đi, rồi mới đóng cửa lại và đi ngủ… Hắn đột nhiên hoảng sợ, nhổm dậy, mắt nhớn nhác tìm Từ. Nhưng không! Từ vẫn còn nhà… Chắc hẳn trong lúc quá say, hắn gài cửa nhưng chưa gài được, thành thử khi thấy hắn ngủ mệt rồi, Từ lại bế con vào.

Bây giờ Từ đang thiếp đi trên võng, đứa con nhỏ nằm bên. Từ vốn dậy sớm quen. Sáng nay, chắc Từ mệt quá, vừa mới lịm đi, nên mới ngủ trưa như thế. Ðầu Từ ngoẹo về một bên. Một tay Từ trật ra ngoài mép võng, sã xuống, cái bàn tay hơi xoè ra lỏng lẻo. Dáng nằm thật là khó nhọc và khổ não. Hắn bùi ngùi. Chao ôi! Trông Từ nằm thật đáng thương! Hèn chi mà Từ khổ cả một đời người! Cái tướng vất vả lộ ra cả đến trong giấc ngủ. Hộ nhớ ra rằng: một đôi lúc, nếu nhìn kĩ thì Từ khó mặt lắm.

Ðột nhiên Hộ nảy ra ý muốn lại gần Từ, nhìn kĩ xem mặt Từ lúc bấy giờ ra sao? Hắn rón rén, đi chân không lại. Hắn ngồi xổm ngay xuống đất, bên cạnh võng và cố thở cho thật khẽ. Hắn ngắm nghía mặt Từ lâu lắm. Da mặt Từ xanh nhợt; môi nhợt nhạt; mí mắt hơi tim tím và chung quanh mắt có quầng; đôi má đã hơi hóp lại khiến mặt hơi có cạnh. Hộ khẽ thở dài và lắc đầu ái ngại. Hắn dịu dàng nắm lấy tay sã xuống của Từ. Cái bàn tay lủng củng rặt những xương! Trên mu bàn tay, những đường gân xanh bóng ra, làn da mỏng và xanh trong, xanh lọc. Cái cổ tay mỏng manh. Tất cả lộ một cái gì mềm yếu, một cái gì ẻo lả, cần được hắn che chở và bênh vực… Một vẻ bạc mệnh, một cái gì đau khổ và chật vật, cần được hắn vỗ về an ủi…

Thế mà hắn đã làm gì để cho Từ khỏi khổ? Nước mắt hắn bật ra như nước một quả chanh mà người ta bóp mạnh. Và hắn khóc… Ôi chao! Hắn khóc. Hắn khóc nức nở, khóc như thể không ra tiếng khóc. Hắn ôm chặt lấy cái bàn tay bé nhỏ của Từ vào ngực mình mà khóc. Từ thức dậy, Từ hiểu ngay, không cần hỏi một câu nào cũng hiểu. Và Từ cảm động. Mắt Từ giàn giụa nước. Từ khẽ rút tay ra, vòng lên cổ chồng, nhẹ nhàng níu hắn vào, để hắn gục đầu lên cạnh ngực Từ. Hắn lại càng khóc to hơn và cố nói qua tiếng khóc:

– Anh… anh… chỉ là… một thằng… khốn nạn!

Không!… Anh chỉ là một người khổ sở!… Chính vì em mà anh khổ.

Từ bảo thế. Tay Từ níu mạnh hơn một chút. Ngực Từ thổn thức. Từ chực ngả đầu sát vào vai Hộ. Nhưng đứa con, bị giằng, khóc thét lên. Từ vội buông chồng ra để vỗ con. Tiếng vẫn còn ướt lệ, Từ dỗ nó:

– A! Mợ đây! Mợ đây mà! Ôi chao! Con tôi nó giật mình… Mợ thương…

Hộ đã tránh chỗ để Từ đưa võng. Từ vừa đưa vừa hát...

“Ai làm cho khói lên giời

Cho mưa xuống đất, cho người biệt li

Ai làm cho Nam, Bắc phân kì

Cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thân…”

(Tuyển tập Nam Cao, tập 2, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1997)

Câu 1. Truyện được kể theo ngôi thứ mấy, có điểm nhìn nghệ thuật như thế nào?

Câu 2. Truyện ngắn trên viết về đề tài gì ?

Câu 3. Nhân vật chính trong truyện là ai?

Câu 4. Theo nội dung truyện ngắn và tình cảnh bi kịch của Hộ trong tác phẩm Đời thừa của Nam Cao, em hiểu như thế nào về cụm từ "đời thừa" ?

Câu 5. Qua đoạn trích em hiểu gì về bi kịch của nhân vật Hộ?

Câu 6. Cuối truyện Đời thừa, nhân vật Hộ đã bật khóc “Nước mắt hắn bật ra như nước một quả chanh mà người ta bóp mạnh”. Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu văn trên.

Câu 7. Tiếng hát ru của nhân vật Từ ở cuối văn bản có ý nghĩa gì?

Câu 8. Qua nhân vật Hộ trong đoạn trích, em có nhận xét gì về cuộc đời, số phận của bộ phận trí thức tiểu tư sản Việt Nam những năm trước Cách mạng tháng Tám?

Gợi ý

Câu

Đáp án

1

Truyện được kể theo ngôi thứ ba, có điểm nhìn toàn tri

2

Truyện ngắn trên viết về đề tài: Người trí thức

3

Nhân vật chính trong truyện là: Hộ (Văn sĩ Hộ)

4

"Đời thừa" được dùng để chỉ tình trạng sống vô ích, sống vô tích sự, không có ý nghĩa gì cho cuộc đời.

5

Bi kịch của nhân vật Hộ đó là:

- Bi kịch của con người có tài năng, có hoài bão, muốn sống có ích nhưng lại trở thành vô ích.

- Bi kịch của con người vốn có nhân cách, muốn sống có tình thương nhưng cuối cùng lại chà đạp một cách thô bạo lên chính nguyên tắc thiêng liêng cao đẹp ấy

6

- Biện pháp tu từ so sánh: Nước mắt Hộ bật ra như nước một quả chanh mà người ta bóp mạnh

- Tác dụng:

+ Làm cho câu văn sinh động, hấp dẫn

+ Nhấn mạnh sự hối hận và nỗi đau đớn, tủi nhục, xót xa đến tột cùng của nhân vật Hộ - người trí thức tiểu tư sản nghèo có nhân cách, đồng thời còn thể hiện sự thấu hiếu, đồng cảm, sẻ chia nhà văn dành cho nhân vật

7

Ý nghĩa tiếng hát ru của nhân vật Từ ở cuối văn bản:

- Lời ru con của Từ là lời thở than, trách móc một cách tinh tế thể hiện sự thương thân và thương chồng sâu sắc (Ru con nhưng là để nói với chồng)

- Lời ru của Từ với những câu hỏi còn bỏ ngỏ, chưa có câu trả lời cũng là sự khắc khoải của nhà văn về số phận bi kịch của những người trí thức và gia đình họ.

8

Qua nhân vật Hộ trong đoạn trích cho thấy rõ cuộc đời, số phận của bộ phận trí thức tiểu tư sản Việt Nam những năm trước Cách mạng tháng Tám rất tăm tối, quẩn quanh, bế tắc và rơi vào bi kịch tinh thần không lối thoát

Đọc hiểu Đời thừa đề 2

Đọc đoạn văn bản sau và trả lời các câu hỏi:

Hộ vốn nghèo. Hắn là một nhà văn, trước kia, với cách viết thận trọng của hắn, hắn chỉ kiếm được vừa đủ để một mình hắn sống một cách eo hẹp, có thể nói là cực khổ. Nhưng bấy giờ hắn chỉ có một mình. Ðói rét không có nghĩa lý gì đối với gã trẻ tuổi say mê lý tưởng. Lòng hắn đẹp. Ðầu hắn mang một hoài bão lớn. Hắn khinh những lo lắng tủn mủn về vật chất. Hắn chỉ lo vun trồng cho cái tài của hắn ngày một thêm nảy nở. Hắn đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán. Ðối với hắn lúc ấy, nghệ thuật là tất cả; ngoài nghệ thuật không còn gì đáng quan tâm nữa. Hắn băn khoăn nghĩ đến một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời... Thế rồi, khi đã ghép đời Từ vào cuộc đời của hắn, hắn có cả một gia đình phải chăm lo. Hắn hiểu thế nào là giá trị của đồng tiền; hắn hiểu những nỗi đau khổ của một kẻ đàn ông khi thấy vợ con mình đói rách. Những bận rộn tẹp nhẹp, vô nghĩa lý, nhưng không thể không nghĩ tới, ngốn một phần lớn thì giờ của hắn. Hắn phải cho in nhiều cuốn văn viết vội vàng. Hắn phải viết những bài báo để người ta đọc rồi quên ngay sau lúc đọc. Rồi mỗi lần đọc lại một cuốn sách hay một đoạn văn ký tên mình, hắn lại đỏ mặt lên, cau mày, nghiến răng vò nát sách và mắng mình như một thằng khốn nạn... Khốn nạn! Khốn nạn! Khốn nạn thay cho hắn! Bởi vì chính hắn là một thằng khốn nạn! Hắn chính là một kẻ bất lương! Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện. Chao ôi! Hắn đã viết những gì? Toàn những cái vô vị, nhạt nhẽo, gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông, diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi. Hắn chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chương. Thế nghĩa là hắn là một kẻ vô ích, một người thừa. Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có... Hắn nghĩ thế và buồn lắm, buồn lắm! Còn gì buồn hơn chính mình lại chán mình? Còn gì đau đớn hơn cho một kẻ vẫn khát khao làm một cái gì nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt?

(Trích “Đời thừa”, Hà Minh Đức sưu tầm và giới thiệu, Nam Cao – Tác phẩm, tập II, NXB Văn học, Hà Nội, 1977, tr.68-69)

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích.

Câu 2. Tóm tắt nội dung đoạn trích.

Câu 3. Nỗi buồn của nhân vật “hắn” có lí do từ đâu? Qua nỗi buồn ấy, em đánh giá nhân vật này là người như thế nào?

Câu 4. Phân tích điều tâm niệm sau đây của nhân vật “hắn” về văn chương: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có...

Câu 5. Qua đoạn trích, em nhận thấy điều gì về việc lựa chọn điểm nhìn của người kể chuyện?

Câu 6. Nhận xét khái quát về hiệu quả nghệ thuật của việc sử dụng nhiều kiểu câu trong đoạn trích.

Gợi ý

Câu 1

- Phương thức biểu đạt chính: tự sự

Câu 2

Tóm tắt nội dung đoạn trích

- Đoạn trích ở để bài xoay quanh nhân vật “hắn”. “Hắn” vốn là một nhà văn.

- Đối với nhân vật “hắn”, nghệ thuật là tất cả những gì hắn quan tâm. “Hắn” luôn mong muốn tạo ra được một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời.

- Thế nhưng, vì cuộc sống, “hắn” phải in nhiều cuốn văn viết vội vàng, phải viết những bài báo để người ta đọc rồi quên ngay sau lúc đọc.

- Mỗi lần đọc lại những tác phẩm ấy, “hắn” lại căm ghét chính mình, xấu hổ và day dứt. Hắn chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chương. Hắn cảm thấy đau đớn cho chính mình, cho một kẻ vẫn khát khao làm một cái gì mà nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt.

Câu 3

- Nhân vật “hắn” buồn vì:

+ Ước mong sáng tác được những tác phẩm hoàn hảo, tử tế nhưng lại chỉ viết ra những trang viết nhạt nhẽo, “bất lương”

+ Mong được chuyên tâm sáng tác nhưng thực tế lại phải dành phần lớn thời gian cho chuyện áo cơm, cho những việc “tẹp nhẹp, vô nghĩa lí”

- Qua đó, ta thấy “hắn” là người có lương tâm nghề nghiệp, có lòng tự trọng, có trách nhiệm với cuộc sống và đặc biệt luôn từ vấn bản thân.

Câu 4

Tâm niệm của nhân vật “hắn” về văn chương: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có...

- Câu văn thứ nhất phủ định lối sáng tác văn chương theo đơn đặt hàng, theo kiểu mẫu, máy móc, không có đóng góp mới

- Câu văn thứ hai khẳng định lối văn chương chân chính, muốn tạo ra những tác phẩm đích thực thì nhà văn phải không ngừng khám phá, tìm tòi, tạo ra điểm mới mẻ, độc đáo.

=> Đoạn trích được xem là danh ngôn nói về yêu cầu tối cao của hoạt động sáng tạo nghệ thuật.

Câu 5

Nhận xét về việc lựa chọn điểm nhìn của người kể chuyện:

- Sử dụng linh hoạt điểm nhìn bên ngoài (điểm nhìn từ người kể chuyện) và điểm nhìn bên trong (điểm nhìn từ nhân vật “hắn”). Điểm nhìn bên ngoài là lời kể của tác giả với vai trò là người chứng kiến, hiểu rõ toàn bộ câu chuyện dưới cái nhìn trực diện, khách quan, diễn tả một cách chân thực các sự việc, đặc biệt là hành động của nhân vật. Điểm nhìn bên trong được thể hiện qua những câu cảm thán “Khốn nạn! Khốn nạn! Khốn nạn thay cho hắn! Bởi vì chính hắn là một thằng khốn nạn! Hắn chính là một kẻ bất lương!” hay “buồn lắm, buồn lắm!”

- Dịch chuyển giữa các điểm nhìn, từ người kể chuyện chuyển sang lời kể của nhân vật một cách độc đáo, tài tình: khi là điểm nhìn của người kể chuyện, khi là điểm nhìn cả “hắn”. Đoạn trích này không có một điểm nhìn duy nhất bao trùm.

Câu 6

Nhận xét khái quát về hiệu quả nghệ thuật của việc sử dụng nhiều kiểu câu trong đoạn trích:

- Đoạn văn sử dụng kết hợp nhiều kiểu câu: trần thuật, cảm thán, câu hỏi tu từ

- Hiệu quả nghệ thuật

+ Góp phần làm nổi bật chân dung tinh thần của nhân vật “hắn”

+ Giúp nhịp điệu và giọng điệu của lời kể tránh được sự đơn điệu, buồn tẻ

+ Tăng sức gợi hình, gợi cảm cho đoạn văn bản.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trong nhóm Lớp 11 thuộc chuyên mục Học tập của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
5 6.686
Đọc hiểu Đời thừa Nam Cao
Xác thực tài khoản!

Theo Nghị định 147/2024/ND-CP, bạn cần xác thực tài khoản trước khi sử dụng tính năng này. Chúng tôi sẽ gửi mã xác thực qua SMS hoặc Zalo tới số điện thoại mà bạn nhập dưới đây:

Số điện thoại chưa đúng định dạng!
Số điện thoại này đã được xác thực!
Bạn có thể dùng Sđt này đăng nhập tại đây!
Lỗi gửi SMS, liên hệ Admin
0 Bình luận
Sắp xếp theo
⚛
Xóa Đăng nhập để Gửi
    Đóng
    Chỉ thành viên Hoatieu Pro tải được nội dung này! Hoatieu Pro - Tải nhanh, website không quảng cáo! Tìm hiểu thêm
    Chia sẻ
    Chia sẻ FacebookChia sẻ Twitter
    Đóng