Triết học ra đời trong điều kiện nào?

Triết học Mác - Lênin là thành tựu tư tưởng vĩ đại của con người do C. Mác và Ph. Ăngghen đặt nền móng sau đó được Lênin kế tục, phát triển. Từ khi ra đời, triết học Mác - Lênin đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học và trở thành thế giới quan, phương pháp luận của hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn của con người. Vậy Triết học ra đời trong điều kiện nào? Dưới đây, Hoatieu sẽ giải đáp câu hỏi này cho các bạn.

1. Nguồn gốc ra đời của triết học

Về nguồn gốc, triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây từ khoảng thế kỷ VIII đến thế kỷ VI TCN, tại các quốc gia văn minh cổ đại như: Hy Lạp, Ấn Độ, Trung Quốc. Triết học của C.Mác (1818 - 1883) và Ph.Ăngghen (1820 - 1895) là sự kế thừa những thành tựu vĩ đại của tư tưởng triết học từ thời cổ đại cho đến cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX.

Hai nhà triết học C.Mác và Ph.Ăngghen
Hai nhà triết học C.Mác và Ph.Ăngghen

Triết học Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Sự ra đời của triết học Mác không phải là một ngẫu nhiên mà là sự kết tinh có tính quy luật của quá trình phát triển lịch sử tư tưởng triết học nhân loại và trên cơ sở các điều kiện kinh tế - xã hội cũng như trình độ phát triển khoa học tự nhiên ở thế kỷ XIX.

2. Điều kiện ra đời của triết học

2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội

Triết học Mác cũng như các hệ thống triết học trước đó, đề ra đời trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định.

Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã khẳng định được vị thế của mình và đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra những điều kiện, tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng. Điều này thể hiện ở chỗ:

  • Thứ nhất, sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa mới tạo ra điều kiện thực tiễn tuyệt đối cần thiết cho sự thoát khỏi lý tưởng không tưởng xã hội chủ nghĩa cho chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng, bởi lẽ, chính sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa mới tạo ra cơ cở vật chất - kỹ thuật cho việc thực hiện những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản.
  • Thứ hai, chính sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã đặt ra nhiều vấn đề thực tiễn, lý luận, chính trị, xã hội... đòi hỏi các nhà lý luận phải giải trả lời, nghĩa là nó kích thích cho các trào lưu tư tưởng triết học ra đời trong đó có triết học Mác.
  • Thứ ba, chính sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa làm cho giai cấp công nhân phát triển cả về số lượng và chất lượng. Do vậy, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân ngày càng phát triển chuyển từ tự phát lên tự giác. Từ đấu tranh kinh tế sang đấu tranh chính trị, điển hình như cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt ở Liông (Pháp – 1831), khởi nghĩa của thợ dệt ở Xilêdi (Đức – 1844), Phong trào Hiến chương ở Anh (Từ năm 1836 đến năm 1847). Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đòi hỏi phải có một lý luận khoa học, cách mạng dẫn đường, trong khi đó có rất nhiều các trào lưu tư tưởng phản khoa học tìm cách len lỏi vào phong trào công nhân. Điều này đã thúc đẩy cho sự ra đời của triết học Mác. Có thể nói, sự xuất hiện của giai cấp công nhân trên vũ đài lịch sử cùng với cuộc đấu tranh mạnh mẽ của họ là điều kiện chính trị - xã hội quan trọng nhất thúc đẩy sự ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng.

Nghiên cứu quá trình đấu tranh xã hội trong lịch sử và khái quát những kinh nghiệm trong phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân thế giới ở Anh, Pháp, Đức, v.v… Mác và Ăngghen đã khẳng định, giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến và cách mạng nhất, giai cấp có khả năng xóa bỏ chủ nghĩa tư bản xây dựng một xã hội mới, xã hội cộng sản. Sự ra đời của triết học Mác cũng như chủ nghĩa Mác, là một nhu cầu khách quan, phản ánh đúng những điều kiện khách quan và có khả năng giải quyết những nhiệm vụ khách quan của thời đại. Trước hết nó phản ánh nhu cầu khách quan về mặt hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, khẳng định vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đối với sự phát triển tất yếu của xã hội.

2.2. Điều kiện về mặt lí luận

  • Kinh tế chính trị học tư sản cổ điển Anh với những lý luận kinh tế quan trọng của A.X-mít và Đ.Ri-các-đô. Hai ông đã có những đóng góp quan trọng cho lý luận về kinh tế. Đặc biệt, đã chỉ ra nguồn gốc của giá trị. Mác - Ăngghen trên cơ sở kế thừa những giá trị trong học thuyết của hai ông đã chỉ ra được nguồn gốc của giá trị thăng dư - một cơ sở khoa học để phân tích, giải thích phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng như xã hội tư bản chủ nghĩa, làm cơ sở khoa học cho quan niệm duy vật về lịch sử của Mác.
  • Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu nổi tiếng như Xanh Ximông và Sáclơ Phuriê. Hai ông đã có nhiều đóng góp cho lý luận về chủ nghĩa xã hội, đặc biệt hai ông đã chứng minh được hai điểm quan trọng:

+ Một là, cần phải đập tan nhà nước tư sản;

+ Hai là, có thể đập tan được nhà nước tư sản.

Mác - Ăngghen trên cơ sở tiếp thu những giá trị tích cực, khắc phục tính không tưởng, tổng kết phong trào công nhân, tổng kết thực tiễn lịch sử, đã chỉ ra rằng muốn xóa bỏ nhà nước tư sản phải bằng con đường cách mạng vô sản và thay thế nó bằng nhà nước vô sản kiểu mới.

  • Triết học cổ điển Đức, đặc biệt với hai nhà triết học tiêu biểu là Hê-ghen và Phoiơbắc, là nguồn gốc lý luận trực tiếp.

    Mác - Ăngghen kế thừa phép biện chứng của Hêghen, cải tạo nó, khắc phục tính chất duy tâm, thần bí và đặt nó trên nền tảng thế giới quan duy vật. Đồng thời Mác - Ăngghen kế thừa thế giới quan duy vật của Phoiơbắc, khắc phục tính chất siêu hình, máy móc, tính không triệt để của nó và làm giàu chủ nghĩa duy vật này bằng phép biện chứng. Trên cơ sở đó, Mác - Ănghen sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng, đặc biệt là phép biện chứng duy tâm và tư tưởng duy vật về những vấn đề cơ bản của triết học để xây dựng nên phép biện chứng duy vật và mở rộng nhận thức sang cả xã hội loài người, làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và triệt để.

2.3. Điều kiện tiền đề khoa học tự nhiên

Bước sang đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên có bước phát triển vượt bậc, đã chuyển từ trình độ thực nghiệm lên trình độ lý luận, đem lại một số quan niệm mới mẻ về giới tự nhiên so với trước đó. Tiêu biểu cho những quan niệm mới này là: khẳng định tính chất bảo toàn năng lượng trong quá trình biến đổi của vật chất trong giới tự nhiên; khẳng định tính thống nhất về cơ sở vật chất của mọi sự sống là tế bào; khẳng định tính tất yếu khách quan của quá trình phát triển các loài sinh vật trên trái đất. Những quan niệm mới này đóng vai trò là những bằng chứng xác thực (ở tầm khoa học) của các quan điểm duy vật biện chứng về giới tự nhiên. Cụ thể, những phát minh khoa học tiêu biểu đó là:

  • Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của Mikhail Vasilyevich Lomonosov và Antoine Lavoisier.
  • Thuyết tế bào của Theodor Schwann và Matthias Schleiden: Chứng minh sự thống nhất về mặt kết cấu sinh học của thế giới hữu sinh.
  • Học thuyết tiến hóa của Charles Darwin là học thuyết cho rằng sự sống của sinh vật chịu tác động dưới một áp lực gay gắt gọi là chọn lọc tự nhiên. Chứng tỏ có sự phát triển từ thế giới vô cơ. Giữa các loài sinh vật với giới tự nhiên có mối quan hệ chặt chẽ. Đó là kết quả của sự tiến hóa tự nhiên. Bác bỏ quan điểm tôn giáo, thần học về loài người, nguồn gốc loài người.

Ý nghĩa của các định luật và học thuyết đối với sự hình thành và phát triển triết học Mác: Khoa học đã vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa những dạng tồn tại khác nhau, các hình thức vận động khác nhau trong tính thống nhất vật chất của thế giới, vạch ra tính biện chứng của sự vận động và phát triển của nó.

1.4. Nhân tố chủ quan

  • Ngoài những điều kiện kinh tế - xã hội, tiền đề khoa học tự nhiên và lý luận, thì sự ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng không thể thiếu nhân tố chủ quan của bản thân Mác và Ăngghen. Đó là sự thông minh hơn người của các ông. Đã vậy, hai ông lại cần cù, chịu khó, nghiêm túc trong nghiên cứu khoa học. Nhờ những tố chất ấy hai ông đã kế thừa được toàn bộ tinh hoa trong lịch sử tư tưởng nhân loại, tổng kết được những thành tựu của khoa học đương đại, tổng kết phong trào công nhân để cho ra đời một chủ nghĩa Mác - ngọn cờ lý luận của giai cấp công nhân - hoàn bị trong cả lĩnh vực tự nhiên và lĩnh vực xã hội.
  • Cùng với sự thông minh, tinh thần làm việc không mệt mỏi là tình yêu thương con người hết mình của hai ông và quyết tâm hy sinh vì con người, là những nhân tố quan trọng thúc đẩy sự ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng.

Triết học là một hình thái ý thức xã hội có tính khái quát và tính trừu tượng cao, do đó, triết học chỉ xuất hiện khi con người đã có trình độ tư duy trừu tượng hoá, khái quát hoá, hệ thống hoá để xây dựng nên các học thuyết, các lý luận. Trên đây là giải đáp của Hoatieu cho câu hỏi Triết học ra đời trong điều kiện nào?, mời các bạn tham khảo Triết học nghiên cứu thế giới như thế nào? và các bài viết khác trong mục Tài liệu: Văn hóa nhé.

Đánh giá bài viết
4 7.449
0 Bình luận
Sắp xếp theo