Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên Module GVPT 15 năm 2024

Hoatieu.vn xin gửi tới thầy cô bài viết Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên Module GVPT 15 theo quy định Thông tư 17/2019/TT-BGDĐT để thầy cô cùng tham khảo. Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVPT 15 là bài thu hoạch về ứng dụng công nghệ thông tin, khai thác và sử dụng thiết bị công nghệ trong dạy học và giáo dục học sinh trong các cơ sở giáo dục phổ thông.

Ứng dụng công nghệ thông tin, khai thác và sử dụng thiết bị công nghệ trong dạy học và giáo dục học sinh trong các cơ sở giáo dục phổ thông là việc làm rất quan trọng đối với các nhà trường bởi CNTT ngày nay ngày càng phát triển và giúp ích nhiều cho công tác giảng dạy. Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên Module GVPT 15: Ứng dụng công nghệ thông tin, khai thác và sử dụng thiết bị công nghệ giúp các giáo viên có tài liệu tham khảo để hoàn thành bài thu hoạch của mình đạt kết quả cao nhất và tiết kiệm thời gian, công sức.

1. Module 15 tiểu học ứng dụng công nghệ thông tin

Dưới đây là mẫu bài thu hoạch BDTX module 15 về việc ứng dụng công nghệ thông tin khai thác và sử dụng thiết bị công nghệ trong dạy học giáo dục. Mẫu đã nêu ra được tác động của công nghệ thông tin đối với giáo dục, thực trạng ứng dụng CNTT trong dạy học và phân tích một số chuyên đề ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học cụ thể. Mời các bạn tham khảo.

1. Tác động của CNTT đối với giáo dục

1.1 Thay đổi mô hình giáo dục

Nền giáo dục Việt Nam trước nay sử dụng mô hình chuyển giao kiến thức theo cách độc thoại giữa giảng viên với sinh viên. Tuy nhiên, khi xã hội thay đổi ngày một nhanh chóng cùng với sự phát triển công nghệ vượt bậc, mô hình này không thể tạo ra giá trị gia tăng. Điều đó cho thấy cách giảng bài truyền thống kém hiệu quả hơn so với các hình thức dạy – học tích cực.

“Giáo dục thông minh” hay “Giáo dục 4.0” được xem là mô hình phù hợp với xu thế phát triển của thời đại hiện nay. Có sự liên kết chặt chẽ giữa 3 yếu tố quan trọng, đó là nhà trường – nhà quản lý – nhà doanh nghiệp. Theo đó, mô hình này thúc đẩy hoạt động dạy và học diễn ra mọi lúc, mọi nơi, giúp cho người học có thể chủ động quyết định nội dung, phương thức học tập theo nhu cầu của bản thân.

1.2 Thay đổi chất lượng dạy học

Chuyên đề ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học giúp giáo viên trở nên linh hoạt hơn trong quá trình giảng dạy của mình. Thầy cô có thể tương tác với học sinh, sinh viên ở mọi nơi có sự hiện diện của công nghệ thông tin, không cần e ngại khoảng cách, các yếu tố khách quan khác.

Bài giảng được soạn thảo đa dạng với nhiều hình ảnh và gói gọn vào các thiết bị, tránh đi sự cồng kềnh khi phải mang giáo án theo, hoặc khó chỉnh sửa thêm thắt các kiến thức.

Ngoài ra, ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học còn giúp giáo viên có thể chia sẻ bài giảng với nhiều đồng nghiệp khác trên cả nước, tiếp thu ý kiến đóng góp để nâng cao chất lượng giáo án. Bên cạnh đó, các thầy cô còn được tìm hiểu thêm về những chuyên ngành khác như tin học, và học hỏi kỹ năng sử dụng hình ảnh, âm thanh trong thiết kế bài giảng.

1.3 Thay đổi hình thức dạy học

Chuyên đề ứng dụng CNTT trong dạy học phát triển đã mở ra triển vọng lớn trong việc đổi mới các hình thức dạy học. Nếu trước kia giáo viên thường quan tâm nhiều đến khả năng ghi nhớ kiến thức và thực hành kỹ năng vận dụng, thì nay chú trọng đặc biệt đến phát triển năng lực sáng tạo của học viên.

Học sinh, sinh viên phải nỗ lực tìm ra cách thức giải quyết bài tập thông qua việc tự tìm hiểu, học hỏi với máy tính và Internet. Chính điều này đã chuyển đổi từ “lấy giáo viên làm trung tâm” sang “lấy học sinh làm trung tâm”.

1.4 Thay đổi phương thức quản lý giáo dục

Công nghệ thông tin có sức mạnh thay đổi việc quản lý giáo dục thông qua các ứng dụng công nghệ thông tin theo hướng dẫn của BGD và các cơ quan có thẩm quyền. Cụ thể là tin học hóa quản lý trường học theo hướng ứng dụng các công cụ trực tuyến, công cụ quản lý của cơ quan chủ quản (quản lý giáo viên, học sinh, quản lý thi, xếp thời khóa biểu, sổ điểm điện tử, sổ liên lạc điện tử).

Triển khai đồng bộ ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hoạt động đã giúp nâng cao hiệu quả chất lượng của việc trao đổi thông tin hai chiều, giữa đơn vị quản lý và các trường, giữa lãnh đạo nhà trường và giáo viên, học sinh. Điều này ngay lập tức đem đến cách tiếp cận mới trong công tác quản lý giáo dục trường học hiện nay.

2. Một số chuyên đề ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học cụ thể

2.1 Ứng dụng soạn thảo giáo án

PowerPoint cung cấp đầy đủ các công cụ để thầy cô tạo ra những bài thuyết trình thông qua rất nhiều hiệu ứng slide để trình chiếu. Các hiệu ứng chuyển động trong PowerPoint được kết hợp với nhiều nội dung khác nhau để tạo nội dung phong phú cũng như ấn tượng, dễ để học sinh tiếp thu hơn.

Ngoài ra, tùy theo đặc thù môn học giáo viên có thể biết một số phần mềm bổ trợ:

  • Các phần mềm hỗ trợ giáo án môn Toán: Mathcad, Sketpad, Latex, MATHEMATICA v3.0 , GeoGebra, AUTO GRAPH,Cabri, MatLAB . . .
  • Phần mềm hỗ trợ soạn thảo giáo án môn Lý, Hóa, Sinh: Novoasoft Science Word 6.0, CHEM LAB 2.0, bộ Crocodile …
  • Adobe Presenter, Lecture Maker để soạn bài giảng điện tử theo chuẩn E-Learning.

2.2 Ứng dụng trong giảng dạy

Phương tiện dạy học trong chuyên đề ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học có thể kể đến như: Máy chiếu projector, smart board (bảng thông minh), mạng nội bộ, các phần mềm dạy học, các trang web,…

Thầy cô cần sự hỗ trợ từ nhà trường và đội ngũ chuyên công nghệ thông tin để hiểu biết về từng loại thiết bị và ứng dụng trong giảng dạy. Bên cạnh đó, giáo viên cũng cần sự phản hồi tương tác từ HSSV để đảm bảo chọn phương tiện hữu hiệu và phù hợp với bài học nhất. Sự tương tác hai chiều này khiến ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học đạt kết quả cao.

2.3 Ứng dụng trong tra cứu dữ liệu

Giáo viên cần bổ sung kho dữ liệu, hiểu biết của chính mình mỗi ngày để đảm bảo chất lượng giảng dạy. Chỉ cần am hiểu một chút thao tác trên mạng internet, các thầy cô đã có thể khai thác hàng tá kho tàng những kiến thức hữu ích.

Thầy cô có thể dễ dàng tìm kiếm dữ liệu cần thiết trên internet

Một số các công cụ tìm kiếm phổ biến hiện nay là: google, search.netnam, vinaseek, socbay,… Bên cạnh đó, giáo viên cũng nên phát huy, tận dụng nguồn kiến thức từ các loại từ điển chuyên ngành với từng môn học.

2.4 Ứng dụng trong đánh giá công tác dạy và học

Trong công tác giảng dạy không thể thiếu khâu đánh giá kết quả của học sinh để đảm bảo tiêu chuẩn kiến thức cho các em, đồng thời hoàn thành chỉ tiêu mà ngành đưa ra.

Hiện nay, có rất nhiều thiết bị ứng dụng công nghệ thông tin được sử dụng để kiểm tra năng lực HSSV. Sau khi giáo viên đã phân loại và xếp hạng, nhà trường sẽ dùng kỹ thuật tin học để thông báo kết quả đến học sinh, từ đó đưa ra kinh nghiệm và phương pháp học tập tốt hơn cho các em.

Sinh viên nhận kết quả học tập nhanh chóng nhờ sự hỗ trợ của CNTT

Đối với giáo viên cũng tương tự, nhà trường và các cấp quản lý có thể nắm rõ năng lực của cán bộ nhân viên thông qua các bảng đánh giá điện tử, vừa thuận tiện vừa mang tính bảo mật.

2.5 Ứng dụng trong cách học của học sinh

Như đã từng đề cập, chuyên đề ứng dụng CNTT trong dạy học làm thay đổi mô hình giáo dục truyền thống. Do vậy, cách học của HSSV cũng dần đổi mới. Các em được tự do sáng tạo trong quá trình học hơn, so với việc mỗi ngày đều tiếp thu thụ động những kiến thức từ phía thầy cô.

Học sinh sinh viên có thể tìm kiếm hầu như mọi thông tin, trong tất cả các lĩnh vực trong nước và quốc tế, tin tức mới và cả tin tức cũ thông qua internet. Nhờ đó, việc học của các em được chủ động hơn, tăng cường khả năng tự học và giải quyết vấn đề dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Điều này góp phần nâng cao khả năng thực hành sau này của các em.

Sinh viên đại học chủ động nghiên cứu kiến thức trước khi vào lớp học

3. Thực trạng ứng dụng CNTT trong dạy học

Hiện nay, toàn ngành giáo dục đã xác định ứng dụng CNTT là 1 trong 9 nhóm nhiệm vụ triển khai trọng tâm, theo Nghị quyết số 29 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về đổi mới căn bản toàn diện GD&ĐT.

Cụ thể giáo viên toàn ngành được huy động tham gia, đóng góp chia sẻ học liệu vào kho học liệu số toàn ngành; đóng góp hàng nghìn bài giảng điện tử E-Learning có chất lượng; kho luận văn tiến sĩ với gần 7.000 luận văn; ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm với trên 31.000 câu hỏi về đủ mọi môn học và ngành nghề,…

Các thầy cô tham gia thảo luận, đóng góp ý kiến cho chương trình học đổi mới

Trong giai đoạn chống dịch Covid-19 và thực hiện giãn cách xã hội, các trường đã xây dựng kế hoạch học trực tuyến theo chỉ đạo của Bộ Giáo dục, hướng dẫn thầy cô cài đặt phần mềm, vận động các em học sinh chủ động tham gia học trực tuyến.

Tuy vậy, chuyên đề ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, tồn tại cần tiếp tục được khắc phục:

  • Hạ tầng mạng, trang thiết bị CNTT (như máy tính, camera, máy in,…), đường truyền, dịch vụ Internet cho nhà trường, giáo viên, học sinh – đặc biệt ở các vùng xa, vùng khó khăn – còn thiếu, lạc hậu.
  • Còn nhiều hạn chế khi giáo viên tiếp cận với các ứng dụng công nghệ thông tin trong việc dạy học.
  • Thiếu nguồn nhân lực thông thạo về công nghệ thông tin để phổ biến, hướng dẫn trong ngành giáo dục.
GVPT 15: ứng dụng công nghệ thông tin
GVPT 15: ứng dụng công nghệ thông tin

2. Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên Module GVPT 15 

Dưới đây là mẫu Ứng dụng công nghệ thông tin, khai thác và sử dụng thiết bị công nghệ trong dạy học và giáo dục học sinh trong các giáo dục phổ thông (Module GVPT 15). Mời các bạn tham khảo.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ:

Công nghệ thông tin với những ưu thế vượt trội của nó đã đi vào tất cả các lĩnh vực ngày nay. Đối với giáo dục và đào tạo, CNTT đóng một vai trò to lớn, có tác động mạnh mẽ làm thay đổi nội dung, phương pháp, phương thức dạy và học. CNTT là phương tiện để tiến tới một “ xã hội học tập”.

Với sự phát triển của CNTT đã tạo ra cơ hội mới cho ngành GD & ĐT trong tất cả các lĩnh vực, từ quản lý giáo dục, bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, giáo viên. Hỗ trợ đắc lực cho phương pháp dạy học tích cực của hoạt động nhận thức của HS.

II. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

Trong những năm gần đây, với sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là lĩnh vực CNTT, nhận thức của nhân dân nói chung, của tầng lớp nhà giáo nói riêng đã được tiếp cận nhiều với máy tính, mạng Internet. Với những phần mềm hỗ trợ cho việc dạy và học thì CNTT thực sự là thiết bị hữu hiệu có thể thay tất cả những phương tiện thủ công trước đây. Nhưng để ứng dụng CNTT thành công trong giảng dạy không phải người giáo viên nào cũng có được. Do đó, đòi hỏi người giáo viên trực tiếp đứng lớp phải có sự đầu tư về thời gian thích đáng để tìm tòi, nghiên cứu, không ngừng nâng cao trình độ CNTT từ đó tổ chức hoạt động học tập có hiệu quả.

III. Thực trạng:

1. Thuận lợi:

a. Giáo viên:

- Được sự quan tâm, giúp đỡ, ủng hộ của BGH nhà trường và đồng nghiệp.

- Giáo viên được dạy đúng chuyên môn nghiệp vụ của mình đã được đào tạo.

- Giáo viên quan tâm tới học sinh, tận tâm với nghề, có sáng tạo trong việc đổi mới phương pháp dạy học.

- Trường đã nối mạng Internet, có Wifi phục vụ cho nghiên cứu và giảng dạy.

b. Học sinh:

- Đa số các em ngoan ngoãn, lễ phép.

2. Khó khăn:

a. Giáo viên:

- Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho dạy học, đặc biệt là ứng dụng CNTT vào giảng dạy của nhà trường còn nhiều hạn chế. Thiếu các phòng học chức năng.

- Đa số là giáo viên trẻ mới ra trường, nhiều giáo viên trình độ Tin học, kỹ năng sử dụng máy tính và các phương tiện hỗ trợ còn hạn chế.

b. Học sinh:

- Học sinh còn nhút nhát, chưa mạnh dạn trước tập thể.

- Hầu hết học sinh là con em các dân tộc thiểu số. Chính vì thế mà điều kiện được tiếp xúc với CNTT của đa số các em học sinh là rất hạn chế.

IV. Giải pháp:

Đổi mới phương pháp dạy học là yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục. Đó là một trong những mục tiêu quan trọng nhất trong cải cách giáo dục nước ta hiện nay. Việc ứng dụng CNTT dạy học có hiệu quả là một công việc lâu dài, khó khăn đòi hỏi rất nhiều điều kiện về cơ sở vật chất, tài chính và năng lực của đội ngũ giáo viên. Để đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT vào dạy học có hiệu quả, tôi xin đề xuất một số định hướng và giải pháp như sau:

1. Nâng cao trình độ tin học cho bản thân:

Muốn ứng dụng CNTT vào giảng dạy hiệu quả, người giáo viên trực tiếp đứng lớp phải không ngừng nâng cao trình độ tin học cho bản thân, ngoài kiến thức chuyên môn nghiệp vụ vững vàng thì yêu cầu phải nắm vững công dụng các tính năng, bảo quản tốt các phương tiện, kĩ thuật hỗ trợ cho dạy học như máy tính, máy chiếu…

Ngoài những hiểu biết căn bản về nguyên lý hoạt động của máy tính và các phương tiện hỗ trợ, đòi hỏi giáo viên cần phải có kỹ năng thành thạo (thực tế cho thấy nhiều người có chứng chỉ hoặc bằng cấp cao về Tin học nhưng nếu ít sử dụng thì kỹ năng sẽ mai một, ngược lại chỉ với chứng chỉ A –Tin học văn phòng nhưng nếu bạn chịu khó học hỏi, thực hành thì việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy sẽ chẳng mấy khó khăn).

2. Công tác bồi dưỡng giáo viên:

Xác định Con người là một trong những yếu tố hàng đầu quyết định sự thành công trong việc ứng dụng CNTT vào trong quản lý và giảng dạy. Do đó, nhà trường đặc biệt quan tâm đến việc bồi dưỡng nâng cao trình độ tin học, đặc biệt là các kỹ năng ứng dụng CNTT cho đội ngũ giáo viên.

- Nhà trường phải thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng kỹ năng sử dụng máy tính và các phần mềm Tin học với giảng viên là giáo viên CNTT và những giáo viên có kỹ năng tốt về Tin học của trường, theo hình thức trao đổi giúp đỡ lẫn nhau, tập trung chủ yếu vào những kỹ năng mà giáo viên cần sử dụng trong quá trình soạn giảng hàng ngày như lấy thông tin, các bước soạn một bài trình chiếu, các phần mềm thông dụng, cách chuyển đổi các loại phông chữ, cách sử dụng một số phương tiện như máy chiếu, cách thiết kế bài kiểm tra,...

- Đẩy mạnh tuyên truyền cho giáo viên thấy rõ hiệu quả và yêu cầu mang tính tất yếu của ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp giảng dạy thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn, hội thảo chuyên đề.

- Định hướng cho giáo viên luôn có ý thức sưu tầm tài liệu hướng dẫn ứng dụng CNTT hiệu quả, bộ phận chuyên môn nghiên cứu chọn lọc photo phát cho giáo viên ( bằng cách làm này nhà trường đã có nhiều tài liệu hay, dễ thực hành cho giáo viên sử dụng như: tài liệu hướng dẫn soạn giáo án Powerpoint, hướng dẫn sử dụng máy chiếu,...)

- Động viên giáo viên tích cực tự học, khiêm tốn học hỏi, sẵn sàng chia sẻ, luôn cầu thị tiến bộ, thường xuyên trao đổi với đồng nghiệp; chuyên môn nhà trường phải là bộ phận kết nối, là trung tâm tạo ra một môi trường học hỏi chuyên môn tích cực.

Để làm được điều đó, BGH đặc biệt là phó hiệu trưởng, các tổ trưởng chuyên môn phải luôn quan tâm sâu sát, đi đầu gương mẫu, cùng học hỏi, cùng làm với giáo viên thì mới hiểu được họ yếu ở điểm nào, gặp khó khăn ở khâu nào, cần giúp đỡ gì. Nói đi đôi với làm luôn được coi là biện pháp hữu hiệu nhất để thúc đẩy phong trào phát triển.

3. Các hoạt động ứng dụng CNTT trong dạy học:

- Đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT nhằm đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh, giáo viên tích hợp CNTT vào từng môn học thay vì chỉ được học trong môn Tin học. Chuyên môn nhà trường chú trọng dự giờ thăm lớp, rút kinh nghiệm và tổ chức sinh hoạt chuyên môn trao đổi về cách ứng dụng CNTT một cách chọn lọc, phù hợp với đối tượng, nhằm phát huy có hiệu quả tác dụng của phương tiện, tránh lạm dụng quá mức.

- Các hình thức sử dụng hiệu quả được nhiều giáo viên sử dụng là: Dạy trình chiếu với cách thiết kế các slide về hình thức gần giống với bảng truyền thống ( màu sắc, cách chia bảng, cách trình bày đầu bài, đề mục,...); sử dụng máy chiếu như là phương tiện hỗ trợ cung cấp kênh hình với nhiều hình ảnh sinh động, âm thanh, video mà không phải mang vác nhiều tranh ảnh, bảng phụ, máy móc thiết bị khác; CNTT với nhiều phần mềm tiện ích là công cụ hỗ trợ đắc lực cho GV trong công tác soạn bài, quản lý điểm, đánh giá xếp loại học sinh… được tiện lợi và nhanh chóng. Các phần mềm hỗ trợ phải kể đến như: MyEqText, cabri phần mềm toán học, soạn nhạc Ecore, Convert, Snagit, Cool Edit Pro, Photoshop …

- Đẩy mạnh việc khai thác tài nguyên trên mạng Internet phục vụ công tác quản lý và giảng dạy của CBGV thông qua bồi dưỡng, tập huấn…

- Tăng cường việc khai thác sử dụng hệ thống thư điện tử để tăng tiện ích, hiệu quả trong trao đổi cập nhật thông tin. Yêu cầu mỗi cán bộ giáo viên lập và đăng ký một địa chỉ mail cố định với nhà trường.

- Ngoài việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy thì việc sử dụng CNTT vào các buổi sinh hoạt ngoại khóa, sinh hoạt KTX cũng đạt hiệu quả hơn, thu hút các em tham gia nhiệt tình, sôi nổi.

V. Kết quả đạt được:

Cái được đầu tiên phải kể đến đó chính là giáo viên đã có sự chuyển đổi về nhận thức, từ qui định (mang tính áp đặt) lúc ban đầu sang tâm thế thích thú với bài giảng ứng dụng CNTT. Từ yêu thích đến chủ động học hỏi cho nên kỹ năng soạn giảng các tiết có ứng dụng CNTT của giáo viên không ngừng được nâng lên, chất lượng bài dạy cũng tốt hơn, hấp dẫn với học sinh hơn.

Hiện nay, Hầu hết giáo viên nhà trường có chứng chỉ Tin học văn phòng từ trình độ A trở lên và đều soạn bài bằng máy vi tính.

VI. Kết luận:

Vạn sự khởi đầu nan, ứng dụng CNTT vào giảng dạy ban đầu là một bài toán khó với giáo viên, nhưng qua một thời gian không dài, chủ trương này đã cho thấy hiệu quả tích cực khi CNTT mang lại cho cả thầy và trò không gian mới nhiều hứng thú trong lớp học. Với sự hỗ trợ của máy tính và một số phần mềm dạy học cùng các thiết bị đi kèm, giáo viên có thể tổ chức tiết học một cách sinh động, các bài giảng không chỉ mang hơi thở cuộc sống hiện đại gần gũi hơn với học sinh mà còn giúp cả người dạy và người học được tiếp xúc với các phương tiện hiện đại, làm giàu thêm vốn hiểu biết của mình.

Tuy nhiên, nhà trường cũng xác định rõ với giáo viên: ứng dụng CNTT không đồng nhất với đổi mới phương pháp dạy học, CNTT chỉ là phương tiện tạo thuận lợi cho triển khai phương pháp tích cực chứ không phải là điều kiện đủ của phương pháp này. Không lạm dụng công nghệ nếu chúng không tác động tích cực đến quá trình dạy học. Để một giờ học có ứng dụng CNTT là một giờ học phát huy tính tích cực của học sinh thì điều kiện tiên quyết là việc khai thác CNTT phải đảm bảo các yêu cầu và tính đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực mà giáo viên sử dụng.

VII. Kiến nghị, đề xuất:

- Tiếp tục bồi dưỡng nâng cao trình độ tin học và kỹ năng ứng dụng CNTT cho toàn thể giáo viên.

- Tăng cường việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, giảng dạy: sử dụng các phần mềm, soạn giảng bài giảng điện tử, khai thác và sử dụng có hiệu quả tài nguyên trên internet…

- Phát huy hiệu quả của công tác thông tin liên lạc qua email, mạng internet. Tổ chức hội thảo chuyên đề cấp trường về ứng dụng CNTT trong dạy học.

3. Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học ở các nhà trường phổ thông hiện nay

Đất nước ta đang trong thời kì đổi mới toàn diện, thời kì hội nhập và toàn cầu hóa. Chính vì vậy, việc tiếp nhận những công nghệ mới của nhân loại trong đó có công nghệ thông tin là điều tất yếu, đây là yếu tố khách quan để khẳng định sự phát triển của mỗi quốc gia. Sự phát triển của một đất nước luôn phụ thuộc vào sự phát triển của khoa học công nghệ. Tuy nhiên, để có được một nền khoa học công nghệ phát triển thì nền kinh tế tri thức phải được ưu tiên hàng đầu, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục thể hiện sự lớn mạnh về nền khoa học, công nghệ, kinh tế... và nó sẽ làm thay đổi căn bản bức tranh tổng thể của nền kinh tế tri thức đó.

Tầm quan trọng, sự hiệu quả và ảnh hưởng của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học đã được khẳng định bằng thực tiễn ở nước ta và trở thành xu thế tất yếu của giáo dục. Ngành Giáo dục và Đào tạo ........... nhiều năm qua đã triển khai nhiều biện pháp quản lý, chỉ đạo nhằm đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học tại các nhà trường. Đến nay, Cơ sở vật chất và thiết bị dạy học cần thiết cho việc ứng dụng công nghệ thông tin được đầu tư, việc kết nối Internet được thực hiện, hầu hết các nhà trường đều đã trang bị phòng máy tính, đáp ứng tương đối đầy đủ máy chiếu phục vụ cho việc giảng dạy và học tập; kho bài giảng điện tử, kho tài liệu tham khảo và bài giảng PowerPoint được xây dựng online trên website của ngành, nhiều phần mềm hỗ trợ công tác quản lý, dạy học được áp dụng rộng rãi...

Theo ông Peter Van Gils, chuyên gia dự án Công nghệ thông tin trong giáo dục và quản lý nhà trường (ICTEM) khẳng định: “Chúng ta đang sống trong một xã hội mà người ta gọi là một xã hội tri thức hay một xã hội thông tin. Điều này có nghĩa rằng những sản phẩm đầu ra mang tính công nghiệp trong xã hội của chúng ta đã mất đi cái tầm quan trọng của nó. Thay vào đó là những “dịch vụ” và “những sản phẩm tri thức”. Trong một xã hội như vậy, thông tin đã trở thành một loại hàng hoá cực kì quan trọng. Máy vi tính và những kĩ thuật liên quan đã đóng một vai trò chủ yếu trong việc lưu trữ và truyền tải thông tin và tri thức. Thực tế này yêu cầu các nhà trường phải đưa các kĩ năng công nghệ vào trong chương trình giảng dạy của mình. Một trường học mà không có công nghệ thông tin là một nhà trường không quan tâm gì tới các sự kiện đang xảy ra trong xã hội”.

Khi nói đến ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học có nghĩa là: Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị công nghệ thông tin đáp ứng nhu cầu sử dụng của cán bộ, giáo viên và học sinh; Sử dụng các thiết bị công nghệ thông tin, các phần mềm làm công cụ hỗ trợ việc dạy và học các môn học trong nhà trường, khai thác tốt các phần mềm thiết kế bài dạy như phần mềm powerpoint, word, violet…; Tăng cường sử dụng mạng internet để khai thác thông tin, tham khảo và xây dựng giáo án điện tử có chất lượng. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các nhà trường hiện nay được chia thành 4 mức độ sau:

- Mức 1: Ứng dụng công nghệ thông tin để hỗ trợ giáo viên trong việc soạn giáo án, sưu tầm và in ấn tài liệu…, chưa sử dụng trong việc tổ chức các tiết học cụ thể của từng môn học.

- Mức 2: Sử dụng công nghệ thông tin để hỗ trợ một khâu, một công việc nào đó trong toàn bộ quá trình dạy học.

- Mức 3: Sử dụng phần mềm dạy học để tổ chức lên lớp một tiết học, một chủ đề hoặc một chương trình học tập.

- Mức 4: Tích hợp công nghệ thông tin vào toàn bộ quá trình dạy học.

Thực tế cho thấy rằng các bài giảng khi sử dụng công nghệ thông tin sẽ sinh động và hấp dẫn hơn rất nhiều so với bài giảng không sử dụng công nghệ thông tin. Mỗi một giờ học được áp dụng công nghệ thông tin như vậy sẽ tích cực hóa được hoạt động nhận thức của học sinh, thu hút được sự chú ý xây dựng bài, dễ dàng lĩnh hội tri thức mới. Lúc này, học sinh thật sự là chủ thể hóa của hoạt động nhận thức, được đặt vào những tình huống cụ thể của đời sống, trực tiếp quan sát, thảo luận, thí nghiệm… tìm hiều vấn đề một cách trực quan hơn để giải quyết các vấn đề đó theo cách của riêng mình. Từ đó nắm bắt được kiến thức mới và phương pháp “làm ra kiến thức mới” đó mà không theo những khuông mẫu có sẵn. Không những thế, một giờ học có ứng dụng công nghệ thông tin sẽ tăng cường việc học tập và lĩnh hội tri thức theo từng cá thể, phối hợp với học tập tương tác nhóm và giúp hoàn thiện tốt hơn kỹ năng sử dụng máy tính cho học sinh. Trong một lớp học, trình độ và khả năng tư duy của học sinh là không đồng đều, khi sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học sẽ làm tăng cường cá thể hóa trong học tập và sự hợp tác giữa các cá nhân: Thầy – trò, trò – trò, giúp thuận tiện hơn trên con đường chiếm lĩnh kiến thức. Với phương tiện là máy tính, máy chiếu người học có thể thực hiện các “thao tác của tư duy” ngay trong tiết học, và được phản hồi gần như ngay tức khắc việc khẳng định đúng hay sai, làm lại hay lựa chọn tiếp một cách chính xác và công bằng. Điều này càng gây hứng thú cho học sinh trong quá trình học tập và đương nhiên việc học sinh tự tìm ra tri thức sẽ nâng cao hơn chất lượng và hiệu quả của giờ dạy.

Tuy nhiên, để mang lại cho học sinh một tiết học như vậy, mỗi giáo viên lại phải nỗ lực rất nhiều trong việc chuẩn bị bài soạn so với phương pháp truyền thống, phải có trình độ chuyên môn vững vàng, phải có trình độ về công nghệ thông tin và khả năng ứng dụng nó vào việc soạn giáo án, thiết kế các bài lên lớp sao cho phong phú, sinh động, logic, sáng tạo, tận dụng được tối đa các trang thiết bị hiện đại mà nhà trường sẵn có. Để làm tốt được việc này cần phải có một quá trình nghiên cứu, tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tích lũy kinh nghiệm và tâm huyết. Bởi vì nếu không nẵm vững chuyên môn nghiệp vụ và có những phương pháp dạy học hay, sáng tạo thì rất dễ dẫn đến việc lạm dụng dẫn tác dụng ngược tới quá trình dạy học của giáo viên và lĩnh hội tri thức của học sinh.

Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học tại các nhà trường phổ thông hiện nay là rất cần thiết và phù hợp với xu thế phát triển của xã hội. Tuy nhiên câu hỏi đặt ra là phải ứng dụng nó như thế nào, quản lý ra sao để đạt được hiệu quả cao nhất là những câu hỏi không dễ có câu trả lời. Trong phạm vi bài viết này, tác giả xin mạn phép đưa ra một số giải pháp nhằm từng bước nâng cao hiệu quả của việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học. Các giải pháp này cần phải được thực hiện một cách có lộ trình, có kế hoạch và được chia thành từng giai đoạn cụ thể. Trong mỗi giai đoạn nhà quản lý sẽ phải đặt ra các mục tiêu cụ thể và bằng mọi cách thực hiện được các mục tiêu đó. Trước hết là:

1. Quán triệt, tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vai trò, lợi ích và hiệu quả của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học.

Việc này sẽ giúp cho cán bộ, giáo viên trong các nhà trường nắm vững quan điểm, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước, thấy được sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin trên thế giới và trong nước, chỉ ra những tác động tích cực mà ứng dụng công nghệ thông tin có thể mang lại, từ đó sẵn sàng hơn với việc đổi mới tư duy, nội dung, phương pháp, phương tiện, tổ chức thực hiện, đổi mới việc kiểm tra, đánh giá trong hoạt động giáo dục cho phù hợp.

Ban giám hiệu nhà trường phải là người đi đầu, phải hiểu và nhận thức đúng đắn về các chủ chương, chính sách của Đảng, Nhà nước, Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT về ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực hoạt động giáo dục, phải là người tiên phong trong việc ứng dụng các tiện ích của công nghệ thông tin thông tin đem lại, tạo ra phong trào và là tấm gương sáng cho cán bộ, giáo viên trong nhà trường noi theo.

Thành lập ban chỉ đạo ứng dụng công nghệ thông tin trong nhà trường, đưa các nội dung ứng dụng công nghệ thông tin vào kế hoạch năm học như là nhiệm vụ trọng tâm bắt buộc.

Nắm vững và triển khai, phổ biến các văn bản về ứng dụng công nghệ thông tin trong nhà trường bằng nhiều hình thức, tạo mọi điều kiện cho đội ngũ giáo viên học tập, rèn luyện, nâng cao chất lượng chuyên môn và trình độ ứng dụng công nghệ thông tin để giải quyết các công việc chuyên môn. Định hướng và đặt ra mục tiêu cho từng nội dung cụ thể, qua đó theo dõi tiến độ thực hiện của từng cá nhân, từng tổ chuyên môn để có những điều chỉnh, bổ xung kịp thời phù hợp với tình hình thực tế.

Tổ chức các cuộc hội thảo chuyên đề, báo cáo kinh nghiệm, tham quan, học tập, rút kinh nghiệm các đơn vị bạn, xen kẽ trong trong đó là việc tuyên truyền, quán triệt, nâng cao nhận thức về công nghệ thông tin cho toàn thể cán bộ, giáo viên, nhân viên trong nhà trường.

2. Tổ chức, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho giáo viên về ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học

Cán bộ, giáo viên là người trực tiếp tạo ra sản phẩm, tạo ra nguồn nhân lực cho xã hội. Nếu không có giáo viên thì không thể nói đến quá trình dạy học. Muốn có được nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu xã hội thì không thể thiếu đội ngũ giáo viên có chất lượng, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, có tinh thần trách nhiệm trong công việc và phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, nhiệt tình, ham học hỏi, tìm tòi, cải tiến phương pháp, cách làm mới, yêu nghề và say mê. Chính vì vậy, khâu đào tạo và bồi dưỡng kiến thức về công nghệ thông tin là khâu quan trọng quyết định đến thành công của chiến lược phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin. Để làm được việc này, nhà trường cần phải có kế hoạch cụ thể, chính sách đào tạo, kế hoạch sử dụng đội ngũ giáo viên một cách hợp lý, có hiệu quả. Kết quả của việc bồi dưỡng, đào tạo cho giáo viên phải trực tiếp tác động vào kết quả học tập rèn luyện của học sinh và hiệu quả công việc của nhà trường.

3. Chỉ đạo tăng cường việc ứng dụng các phần mềm giáo dục trong quản lý dạy học theo hướng tích hợp, khai thác và sử dụng có hiệu quả các ứng dụng trên mạng và Internet

Tiến hành nghiên cứu, lựa chọn các phần mềm có chức năng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh nhà trường, chưng cầu ý kiến xem cần bổ sung, lược bỏ những gì (có thể mời tư vấn hoặc hỏi ý kiến chuyên gia) sau đó mới ra các quyết định có sử dụng phần mềm, tiện ích đó hay không. Tổ chức các cuộc hội thảo, tập huấn cho cán bộ phụ trách và các cá nhân có liên quan tiếp cận, làm quen và thực hành kiểm thử phần mềm, phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên. Khi đưa vào khai thác và sử dụng hoàn thiện cần kiểm tra kĩ, có đánh giá chi tiết sau mỗi quá trình sử dụng để tìm ra, khắc phục các nhược điểm của chương trình, cải tiến chúng để phù hợp với nhu cầu sử dụng thực tế.

Xây dựng kho tư liệu dùng chung của nhà trường, có thể nghiên cứu, phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các trường bạn để xây dựng hệ thống kho bài giảng dùng chung trong toàn tỉnh.

4. Quản lý hạ tầng cơ sở vật chất, thiết bị dạy học hiện đại, xây dựng phòng học đa phương tiện

Ưu tiên, chú trọng đến việc đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học có ứng dụng công nghệ thông tin để phục vụ quá trình dạy học, xem đây là sự đầu tư quan trọng hàng đầu để đảm bảo cho hoạt động dạy học ở nhà trường được hiệu quả. Xây dựng các quy định về việc sử dụng và bảo quản. Việc trang bị cơ sở vật chất phải có quy trình,kế hoạch, lộ trình từng bước, từng giai đoạn, từng mảng công việc cụ thể theo hướng hiện đại hoá được đến đâu là đảm bảo hoạt động tốt đến đó. Kiểm tra định kỳ và tiến hành bảo dưỡng, sửa chữa những thiết bị hỏng hóc.

Tổ chức đào tạo và bồi dưỡng những cán bộ cốt cán chuyên trách về công nghệ thông tin có khả năng hiểu biết về tính năng, tác dụng và cách sử dụng qua đó phổ biến nhân rộng tới tất cả đội ngũ giáo viên trong trường. Giám sát chặt chẽ việc sử dụng, tránh lạm dụng những thiết bị này trong quá trình dạy học. Đặc biệt, Hiệu trưởng cần phải thực hiện tốt công tác kiểm tra, đánh giá định kỳ, đột xuất việc sử dụng và bảo quản, kịp thời động viên, khuyến khích các cá nhân, tổ chuyên môn làm tốt, đồng thời nhắc nhở, phê bình các cá nhân, tổ chuyên môn thực hiện chưa tốt.

5. Ban hành các quy định bằng văn bản cho việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học

Việc ban hành các văn bản quy định cho việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học giúp đề cao trách nhiệm của người lãnh đạo cũng như tạo sự thống nhất trong việc chỉ đạo cho cán bộ giáo viên nhà trường trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học.

Có quy định rõ ràng về các hình thức khen thưởng, phê bình, một mặt tạo động lực, khích lệ, động viên đối với những cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh tích cực sáng tạo trong ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy và học tập, mặt khác góp phần quan trọng trong việc chấn chỉnh đối với những trường hợp thờ ơ, không tích cực hoặc sai phạm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao.

6. Tăng cường việc thanh, kiểm tra, đánh giá việc bảo quản, sử dụng, ứng dụng công nghệ thông tin ở các nhà trường

Kiểm tra, đánh giá là một chức năng quan trọng không thể thiếu của nhà quản lý. Thường xuyên kiểm tra, đánh giá sẽ giúp Hiệu trưởng xác định được mức độ, hiệu quả quá trình ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học ở nhà trường, qua đó đề ra các biện pháp điều chỉnh cụ thể, phù hợp, kịp thời, chính xác để việc ứng dụng công nghệ thông tin mang lại hiệu quả thiết thực nhất. Kiểm tra, giám sát giúp cho người quản lý phát hiện sai sót, lệch lạc để điều chỉnh kịp thời, phát hiện gương tốt, những kinh nghiệm tốt, những khả năng, tiềm lực để tận dụng, nhân rộng. Việc thực hiện các hình thức giám sát, kiểm tra là một việc làm thường xuyên, hết sức cần thiết, để làm cơ sở đưa ra những quyết định khen thưởng, phê bình hợp lý, từ đó nâng cao ý thức tự giác của giáo viên, có tác dụng tích cực trong công tác quản lý việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra./.

Trên đây là một số ý kiến của tôi về ứng dụng CNTT trong dạy học với tinh thần CNTT thực sự là phương tiện hữu hiệu trong công tác quản lý và đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục toàn diện nhà trường.

Mời bạn đọc cùng tham khảo thêm tại mục giáo dục đào tạo trong mục biểu mẫu nhé.

Đánh giá bài viết
15 54.504
0 Bình luận
Sắp xếp theo