SKKN: Một số biện pháp dạy viết câu sáng tạo cho học sinh lớp 1

SKKN: Một số biện pháp dạy viết câu sáng tạo cho học sinh lớp 1 năm học 2023 - 2024 là tài liệu tham khảo hữu ích giúp quý thầy (cô) có thêm tài tư liệu để nâng cao chất lượng hoạt động giảng dạy của bản thân, giúp rèn cho học sinh lớp 1 kỹ năng viết đúng, viết đẹp. Sau đây Hoatieu.vn xin giới thiệu đến thầy (cô) thông tin chi tiết và mời thầy (cô) tải file Word, PDF đầy đủ về tham khảo.

Môn Tiếng Việt là một trong những môn học quan trọng và cần thiết nhất ở bậc Tiểu học. Bất cứ học trò nào khi bắt đầu đi học đều cần tiếp xúc với môn học này trước tiên. Việc học tiếng Việt không chỉ giúp học sinh hình thành phát triển tư duy ngôn ngữ, mà còn giúp các em học được khả năng giao tiếp, biểu đạt suy nghĩ, cảm xúc của mình bằng chữ viết một cách chính xác hơn. Với trẻ lớp 1, khả năng nhận diện tiếng Việt mới chỉ bắt đầu bằng việc học các quy tắc sử dụng tiếng Việt trong lúc đọc, viết, nghe, nói. Vậy làm thế nào để giúp trẻ sử dụng thông thạo tiếng Việt, có thể hiểu và viết đúng một văn bản ngắn rõ ràng, đúng chính tả, truyền tải cơ bản ý nghĩ, cảm xúc của bản thân. Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy viết câu sáng tạo cho học sinh lớp 1 năm 2024 đã được giáo viên đúc rút kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy sẽ trả lời câu hỏi trên. Sau đây là nội dung chi tiết.

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: Một số biện pháp dạy viết câu sáng tạo cho học sinh lớp 1

A. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Từ lâu, song hành với quá trình phát triển, đi lên của đất nước, Đảng, Nhà nước, Chính phủ Việt Nam luôn quan tâm, xác định rõ tầm quan trọng của việc GD&ĐT. Theo đó, với quan điểm không có sự đầu tư nào mang lại nhiều lợi ích như đầu tư cho GD&ĐT, bởi đây là lĩnh vực, nền tảng góp phần hình thành, tạo nên nhân cách chuẩn mực cho mỗi công dân, đào tạo nên những người lao động có trình độ nghề, năng động, sáng tạo, là tiền đề cho sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.

Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng, Nhà nước, Chính phủ Việt Nam còn xác định GD&ĐT như một lợi thế, nhân tố, chìa khóa, động lực mới cho việc thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển. Đánh giá về tầm quan trọng không thể thiếu này, Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI xác định: Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả; xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng XHCN và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.

Giáo dục tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, có nhiệm vụ xây dựng và phát triển tình cảm, đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và thể chất của trẻ em, nhằm hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển toàn diện nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tiếng Việt là một trong những môn học quan trọng và cần thiết nhất ở bậc tiểu học. Bên cạnh việc học toán để phát triển tư duy logic cho con, việc học tiếng việt sẽ giúp các con hình và phát triển tư duy ngôn ngữ. Thông qua môn Tiếng Việt, các con sẽ được học cách giao tiếp, truyền đạt tư tưởng, cảm xúc của mình một cách chính xác và biểu cảm.

Trong khi đó, ở giai đoạn lớp 1, trẻ chỉ nhận diện được và sử dụng được các đơn vị của Tiếng Việt, các quy tắc sử dụng Tiếng Việt trong lúc đọc, viết, nghe, nói. Việc giúp trẻ đọc thông thạo và hiểu đúng ý nghĩa một văn bản ngắn; viết rõ ràng, đúng chính tả; nghe chủ động; nói chủ động, rành mạch đã là việc vô cùng gian nan đối với giáo viên. Vậy làm thế nào để học sinh có thể viết được câu để truyền đạt ý nghĩ, cảm xúc một cách chính xác và chân thực nhất. Tôi chọn đề tài “Một số biện pháp dạy viết câu sáng tạo cho học sinh lớp 1”

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

* Đối tượng nghiên cứu là: “Một số biện pháp dạy viết câu sáng tạo cho học sinh đại trà lớp 1”.

* Phạm vi nghiên cứu là giáo viên và học sinh lớp 1 trường Tiểu học.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Nghiên cứu chương trình tổng thể 2018

- Tập hợp một số vấn đề lí luận làm cơ sở khoa học cho việc viết tài liệu: Một số biện pháp dạy viết câu sáng tạo cho học sinh lớp 1

- Đề xuất một số biện pháp sư phạm phù hợp nhằm nâng cao chất lượng dạy viết câu cho học sinh và đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam.

4. Phương pháp nghiên cứu: Để tiến hành nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng phối kết hợp một số phương pháp nghiên cứu sau:

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu, SGK, phương pháp kiểm tra đánh giá… có liên quan đến đề tài nghiên cứu nhằm thu thập một số vấn đề lí luận làm cơ sở khoa học cho đề tài nghiên cứu. Phương pháp này được sử dụng ở phần cơ sở lí luận của SKKN.

- Phương pháp đàm thoại, hỏi chuyện, phỏng vấn phụ huynh, giáo viên và học sinh kết hợp phương pháp thử nghiệm khoa học, phương pháp tổng kết kinh nghiệm… nhằm thu thập những thông tin cần thiết về dạy viết câu sáng tạo cho học sịnh. Những phương pháp này được sử dụng ở phần nghiên cứu thực trạng và thử nghiệm khoa học của SKKN.

B. PHẦN NỘI DUNG

Chương I: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiến

I. CƠ SỞ LÍ LUẬN

1. Đặc điểm tâm lý và hoạt động chủ đạo của học sinh Tiểu học

Ở mỗi giai đoạn phát triển tâm lí có một hoạt động giữ một vị trí quan trọng, có ý nghĩa quyết định hình thành nên cái mới trong cấu trúc nhân cách của lứa tuổi tương ứng, người ta gọi là hoạt động chủ đạo. Khi còn ở lứa tuổi mẫu giáo, hoạt động chủ đạo của các em là vui chơi. Còn ở lứa tuổi Tiểu học, hoạt động chủ đạo của các em là học tập. Trẻ em cắp sách tới trường, hoạt động học tập làm cho các em có sự thay đổi cơ bản về những hành vi và mở ra cho các em những nguồn phát triển mới của sức mạnh nhận thức và đạo đức. Được chuẩn bị chu đáo về mặt tâm lý, trẻ em sẽ đến trường với niềm vui mới. Đến trường, các em bắt gặp nhiều điều mới mẻ mà ở nhà hay ở lớp mẫu giáo không có. Chúng đón nhận những cái mới đó một cách thích thú và do đó nhanh chóng tiếp cận những đòi hỏi, những yêu cầu của giáo viên. Đến trường các em không còn là “bé bỏng” mà là có nghĩa vụ và quyền lợi mới so với trước.

Hoạt động học tập lần đầu tiên trong cuộc sống của trẻ mang đến cho chúng những tri thức mới, những kỹ năng mới. Tri thức khoa học đến với đứa trẻ với tư cách là một hệ thống, những khái niệm, những quy luật mới … Cũng lần đầu tiên trẻ tập áp dụng những tri thức vào những bài tập từ dễ đến khó, tiếp xúc với những tri thức khoa học và mở rộng giao tiếp ra khỏi khuôn khổ chật hẹp trước đó.

Tuy nhiên, đến trường học, trẻ em cũng gặp những khó khăn “tâm lý” mà người lớn cần giúp các em khắc phục: Một là, các em phải làm quen và tuân thủ những nội quy của nhà trường. Khi ngồi trong lớp, các em phải giữ trật tự, không được làm việc riêng, không được phép nói chuyện … Những quy định này dễ làm trẻ mệt mỏi. Hai là, các em bước vào một quan hệ mới, quan hệ thầy trò, quan hệ với ban bè, đông đảo và phức tạp hơn nhiều so với tập thể trẻ ở mẫu giáo trước đây. Ba là, sau một giai đoạn học tập, trong đầu của trẻ em có thể xuất hiện sự “bão hòa” kiến thức mới.

Trẻ em Tiểu học nhìn thế giới xung quanh bằng những hình ảnh rất cụ thể, các em chưa có khả năng trừu tượng, khái quát nhất là các em học sinh lớp 1 Người giáo viên phải quan tâm đến những khó khăn nói trên của học sinh để động viên khuyến khích và tổ chức các em đi vào hoạt động học tập sao cho luôn luôn duy trì ở chúng hứng thú học tập, niềm hy vọng ở học tập, ý thức vươn lên đạt những yêu cầu cao hơn nữa trong học tập.

2. Đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học

2.1. Nhận thức cảm tính

2.1.1 Các cơ quan cảm giác:

Thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác đều phát triển và đang trong quá trình hoàn thiện.

2.1.2 Tri giác:

Tri giác của học sinh tiểu học mang tính đại thể, ít đi vào chi tiết và mang tính không ổn định: ở đầu tuổi tiểu học tri giác thường gắn với hành động trực quan, đến cuối tuổi tiểu học tri giác bắt đầu mang tính xúc cảm, trẻ thích quan sát các sự vật hiện tượng có màu sắc sặc sỡ, hấp hẫn, tri giác của trẻ đã mang tính mục đích, có phương hướng rõ ràng - Tri giác có chủ định (trẻ biết lập kế hoạch học tập, biết sắp xếp công việc nhà, biết làm các bài tập từ dễ đến khó,...)

Nhận thấy điều này chúng ta cần phải thu hút trẻ bằng các hoạt động mới, mang màu sắc, tích chất đặc biệt khác lạ so với bình thường, khi đó sẽ kích thích trẻ cảm nhận, tri giác tích cực và chính xác.

2.2 Nhận thức lý tính

2.2.1 Tư duy

Tư duy mang đậm màu sắc xúc cảm và chiếm ưu thế ở tư duy trực quan hành động.

Các phẩm chất tư duy chuyển dần từ tính cụ thể sang tư duy trừu tượng khái quát

Khả năng khái quát hóa phát triển dần theo lứa tuổi, lớp 4, 5 bắt đầu biết khái quát hóa lý luận. Tuy nhiên, hoạt động phân tích, tổng hợp kiến thức còn sơ đẳng ở phần đông học sinh tiểu học.

2.2.2 Tưởng tượng

Tưởng tượng của học sinh tiểu học đã phát triển phong phú hơn so với trẻ mầm non nhờ có bộ não phát triển và vốn kinh nghiệm ngày càng dầy dạn. Tuy nhiên, tưởng tượng của các em vẫn mang một số đặc điểm nổi bật sau:

Ở đầu tuổi tiểu học thì hình ảnh tưởng tượng còn đơn giản, chưa bền vững và dễ thay đổi.

Ở cuối tuổi tiểu học, tưởng tượng tái tạo đã bắt đầu hoàn thiện, từ những hình ảnh cũ trẻ đã tái tạo ra những hình ảnh mới. Tưởng tượng sáng tạo tương đối phát triển ở giai đoạn cuối tuổi tiểu học, trẻ bắt đầu phát triển khả năng làm thơ, làm văn, vẽ tranh,.... Đặc biệt, tưởng tượng của các em trong giai đoạn này bị chi phối mạnh mẽ bởi các xúc cảm, tình cảm, những hình ảnh, sự việc, hiện tượng đều gắn liền với các rung động tình cảm của các em.

Qua đây, các nhà giáo dục phải phát triển tư duy và trí tưởng tượng của các em bằng cách biến các kiến thức "khô khan" thành những hình ảnh có cảm xúc, đặt ra cho các em những câu hỏi mang tính gợi mở, thu hút các em vào các hoạt động nhóm, hoạt động tập thể để các em có cơ hội phát triển quá trình nhận thức lý tính của mình một cách toàn diện.

2.3. Ngôn ngữ và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học

Hầu hết học sinh tiểu học có ngôn ngữ nói thành thạo. Khi trẻ vào lớp 1 bắt đầu xuất hiện ngôn ngữ viết. Đến lớp 5 thì ngôn ngữ viết đã thành thạo và bắt đầu hoàn thiện về mặt ngữ pháp, chính tả và ngữ âm. Nhờ có ngôn ngữ phát triển mà trẻ có khả năng tự đọc, tự học, tự nhận thức thế giới xung quanh và tự khám phá bản thân thông qua các kênh thông tin khác nhau.

Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình nhận thức cảm tính và lý tính của trẻ, nhờ có ngôn ngữ mà cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng của trẻ phát triển dễ dàng và được biểu hiện cụ thể thông qua ngôn ngữ nói và viết của trẻ. Mặt khác, thông qua khả năng ngôn ngữ của trẻ ta có thể đánh giá được sự phát triển trí tuệ của trẻ.

Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng như vậy nên các nhà giáo dục phải trau dồi vốn ngôn ngữ cho trẻ trong giai đoạn này bằng cách hướng hứng thú của trẻ vào các loại sách báo có lời và không lời, có thể là sách văn học, truyện tranh, truyện cổ tích, báo nhi đồng,....đồng thời cũng có thể kể cho trẻ nghe hoặc tổ chức các cuộc thi kể truyện đọc thơ, viết báo, viết truyện, dạy trẻ cách viết nhật kí,...Tất cả đều có thể giúp trẻ có được một vốn ngôn ngữ phong phú và đa dạng.

2.4. Chú ý và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học

Ở đầu tuổi tiểu học chú ý có chủ định của trẻ còn yếu, khả năng kiểm soát, điều khiển chú ý còn hạn chế. Ở giai đoạn này chú không chủ định chiếm ưu thế hơn chú ý có chủ định. Trẻ lúc này chỉ quan tâm chú ý đến những môn học, giờ học có đồ dùng trực quan sinh động, hấp dẫn có nhiều tranh ảnh,trò chơi hoặc có cô giáo xinh đẹp, dịu dàng,...Sự tập trung chú ý của trẻ còn yếu và thiếu tính bền vững, chưa thể tập trung lâu dài và dễ bị phân tán trong quá trình học tập.

Ở cuối tuổi tiểu học trẻ dần hình thành kĩ năng tổ chức, điều chỉnh chú ý của mình. Chú ý có chủ định phát triển dần và chiếm ưu thế, ở trẻ đã có sự nỗ lực về ý chí trong hoạt động học tập như học thuộc một bài thơ, một công thức toán hay một bài hát dài,...Trong sự chú ý của trẻ đã bắt đầu xuất hiện giới hạn của yếu tố thời gian, trẻ đã định lượng được khoảng thời gian cho phép để làm một việc nào đó và cố gắng hoàn thành công việc trong khoảng thời gian quy định.

Biết được điều này các nhà giáo dục nên giao cho trẻ những công việc hay bài tập đòi hỏi sự chú ý của trẻ và nên giới hạn về mặt thời gian. Chú ý áp dụng linh động theo từng độ tuổi đầu hay cuối tuổi tiểu học và chú ý đến tính cá thể của trẻ, điều này là vô cùng quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả giáo dục trẻ.

2.5. Trí nhớ và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học

Loại trí nhớ trực quan hình tượng chiếm ưu thế hơn trí nhớ từ ngữ - lôgic

Giai đoạn lớp 1,2 ghi nhớ máy móc phát triển tương đối tốt và chiếm ưu thế hơn so với ghi nhớ có ý nghĩa. Nhiều học sinh chưa biết tổ chức việc ghi nhớ có ý nghĩa, chưa biết dựa vào các điểm tựa để ghi nhớ, chưa biết cách khái quát hóa hay xây dựng dàn bài để ghi nhớ tài liệu.

Giai đoạn lớp 4,5 ghi nhớ có ý nghĩa và ghi nhớ từ ngữ được tăng cường. Ghi nhớ có chủ định đã phát triển. Tuy nhiên, hiệu quả của việc ghi nhớ có chủ định còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ tích cực tập trung trí tuệ của các em, sức hấp dẫn của nội dung tài liệu, yếu tố tâm lý tình cảm hay hứng thú của các em...

Nắm được điều này, các nhà giáo dục phải giúp các em biết cách khái quát hóa và đơn giản mọi vấn đề, giúp các em xác định đâu là nội dung quan trọng cần ghi nhớ, các từ ngữ dùng để diễn đạt nội dung cần ghi nhớ phải đơn giản dễ hiểu, dễ nắm bắt, dễ thuộc và đặc biệt phải hình thành ở các em tâm lý hứng thú và vui vẻ khi ghi nhớ kiến thức.

Mời các bạn tải file word hoặc pdf đầy đủ để tham khảo thêm

Kết hợp với kinh nghiệm giảng dạy của bản thân, cùng với nguồn tham khảo của bài viết, hy vọng sẽ giúp quý thầy (cô) xây dựng thành công những sáng kiến kinh nghiệm có nội dung chất lượng, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục môn tiếng Việt ở cấp tiểu học.

Mời các bạn tham khảo các bài viết hữu ích khác trong phần Dành cho giáo viên của mục Tài liệu.

Đánh giá bài viết
1 69
0 Bình luận
Sắp xếp theo