Công văn 773/BNN-TCTS
Công văn 773/BNN-TCTS về báo cáo kết quả kiểm tra xác minh tình hình cho vay vốn theo công văn 1149/TTg-KTN do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành.
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ Số: 773/BNN-TCTS | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ------------------------------- Hà Nội, ngày 07 tháng 03 năm 2013 |
Kính gửi: | - Ngân hàng nhà nước Việt Nam; |
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải tại thông báo kết luận số 418/TB-VPCP ngày 21/12/2012 của Văn phòng Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã phối hợp với Ngân hàng nhà nước Việt Nam triển khai kiểm tra xác minh việc vay vốn của các hộ và doanh nghiệp nuôi, chế biến cá tra từ các ngân hàng thương mại nhà nước năm 2012, đặc biệt sau khi có công văn số 1149/TTg-KTN ngày 08/8/2012 tại địa bàn các tỉnh/ thành phố trọng điểm về nuôi cá tra Đồng Tháp, Cần Thơ và An Giang. Đoàn thứ nhất từ ngày 14-18/01/2013 do Ngân hàng nhà nước Việt Nam chủ trì làm việc tại thành phố Cần Thơ và tỉnh Đồng Tháp; đoàn thứ hai từ ngày 23-24/01/2013 do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì làm việc tại An Giang; tham gia đoàn công tác có đại diện Hội Nghề cá Việt Nam, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Việt Nam.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn báo cáo một số tình hình qua kiểm tra như sau:
1. Đoàn do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì
1.1. Thời gian, địa điểm, kết quả khảo sát:
a) Khảo sát các hộ nuôi cá:
Đoàn khảo sát tại Hợp tác xã thủy sản Châu Phú - xã Vĩnh Thạnh Trung - huyện Châu Phú - An Giang. Năm 2012, người nuôi cá bị lỗ nặng do giá thành sản xuất cao hơn giá bán từ 2.000-3.000 đồng/kg, tuy vậy người nuôi vẫn tiếp tục nuôi vì niềm tin vào việc giá cá tra sẽ lên như quy luật lên xuống của những năm gần đây. 100% xã viên đều phải vay vốn nuôi cá, nguồn vay từ nhiều ngân hàng khác nhau như Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB)...
- Về tiếp cận vốn vay sau văn bản “1149”: Người dân đánh giá nguồn vốn vay khó tiếp cận, thực tế chỉ một số hộ được vay vốn của Ngân hàng nông nghiệp với lãi suất thấp (do không còn tài sản thế chấp để vay mới), hạn mức vay thấp do đất thế chấp là đất nông nghiệp với khung giá đất đã cũ (2009), chưa được áp dụng khung giá riêng với đàn cá và hệ thống ao nuôi (do vướng Thông tư số 17/2009/TT-BTNMT quy định về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền trên đất chưa phân định rạch ròi 2 loại đất nông nghiệp và thủy sản khác gắn liền trên đất chưa phân định rạch ròi 2 loại đất nông nghiệp và thủy sản), lãi suất ngân hàng vay từ ngân hàng nông nghiệp đã được điều chỉnh xuống mức 12%/năm (do các hộ nuôi bị xếp loại nợ nhóm 3,4 nên không được hưởng mức 11%/năm), đối với vốn vay ngân hàng khác vẫn ở mức cao chưa được điều chỉnh và người dân khó chuyển sang vay vốn từ ngân hàng nông nghiệp. Đồng thời, người vay vốn đều buộc phải cần tài sản đảm bảo thế chấp, có phương án kinh doanh hiệu quả.
Kết quả xác minh cũng cho thấy 13 xã viên HTX được vay vốn thời điểm sau tháng 8/2012 với mức từ 300 triệu - 3 tỷ đồng nhưng hầu hết không phải là vay mới để đầu tư vào nuôi cá mà là ngân hàng nông nghiệp thực hiện đáo hạn và gia hạn nợ cũ, nên thực tế người dân không có nhiều tiền thêm để đầu tư vào nuôi cá. Người dân cũng không vay tiền từ các ngân hàng khác trong nhóm 5 ngân hàng theo văn bản “1149” của Thủ tướng Chính phủ.
b) Khảo sát các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cá tra:
Đoàn đã khảo sát tại các công ty đang gặp khó khăn nhất hiện nay là Công ty Thuận An, Công ty Việt An, Công ty Việt Ngư. Kết quả cho thấy: Các công ty luôn trong tình trạng thiếu vốn sản xuất. Hiện nay các công ty vẫn đang được vay vốn từ các ngân hàng, tuy nhiên nhu cầu vốn vay của các doanh nghiệp lớn nhưng không thể vay thêm do hết tài sản đảm bảo, hạn mức vay còn thấp, các doanh nghiệp kiến nghị về tài sản đảm bảo là hàng tồn kho cần được đánh giá lại cao hơn, không có phàn nàn về lãi suất vay, có trường hợp đề nghị giảm phần chiết khấu (trước đây công ty Thuận An được vay 300 tỷ đồng, chiết khấu 0,4 triệu USD, hiện nay vẫn được vay 300 tỷ đồng nhưng ngân hàng nâng mức chiết khấu lên 2 triệu USD, như vậy thực tế vốn vay doanh nghiệp được sử dụng giảm đi 1,6 triệu USD). Lãi suất vay tại ngân hàng nông nghiệp đã chuyển về mức 11%/năm, tuy nhiên vay vốn tại ngân hàng nông nghiệp đòi hỏi thủ tục phức tạp hơn và hạn mức được vay thấp hơn các ngân hàng khác.
c) Kết quả với UBND tỉnh An Giang:
Đoàn công tác đã có buổi làm việc với lãnh đạo UBND tỉnh An Giang chiều ngày 23/01/2012. Kết quả cho thấy:
Hiện nay diện tích nuôi cá tra An Giang là 1.348 ha (85% so với 2011), 79/1.730 lồng bè nuôi cá tra (106,7% so 2011), số hộ nuôi giảm 2.046 hộ so với 2011. Sản lượng cá tra đạt 265 nghìn tấn (bằng 98% 2011). Toàn tỉnh An Giang có 17 doanh nghiệp chế biến thủy sản, 23 nhà máy, công suất 335 nghìn tấn/năm. Thị trường xuất khẩu gồm 92 quốc gia, nhất là châu Mỹ (17 nước, 39% kim ngạch) Kim ngạch xuất khẩu năm 2012 đạt 399 triệu USD (99,6% so 2011).
Năm 2012, các doanh nghiệp đối mặt với các khó khăn: Khủng hoảng kinh tế thế giới, nhiều rào cản thương mại từ thị trường nhập khẩu, các nhà nhập khẩu chậm thanh toán, thiếu vốn, hệ lụy từ lãi suất cao 1 thời gian dài, giá xuất khẩu thấp với cạnh tranh không lành mạnh, các doanh nghiệp khó tiếp cận vốn từ chính sách của Chính phủ. Các ngân hàng cũng đang khó khăn nên giảm hạn mức tín dụng. Doanh nghiệp có hàng tồn kho nhiều, đã phải chấp nhận bán với giá thấp để có vốn tiếp tục sản xuất.
- Các hộ nuôi cá thể thiếu vốn tự có đủ lớn tài sản thế chấp để làm đối ứng và thế chấp vay vốn tại ngân hàng, bên cạnh đó một số hộ nuôi phản ánh thủ tục vay vốn tại các ngân hàng hết sức phức tạp do đó khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn. Đối với các doanh nghiệp chế biến phần lớn dựa vào vốn vay từ các ngân tín dụng (do tăng trưởng thấp nên hạn mức cho vay của ngân hàng không tăng, đặc biệt có doanh nghiệp bị hạ hạn mức cho vay) trong khi đó chi phí sản xuất đầu vào như điện nước, giá thức ăn tăng nên hầu hết các doanh nghiệp và người nuôi gặp khó khăn về vốn. Số hộ được vay vốn mới với lãi suất dưới 11%/năm là rất ít, mặc dù nhu cầu vay vốn của người dân để duy trì sản xuất là khá lớn.
3. Đánh giá, nhận định:
Trong bối cảnh nền kinh tế trong nước gặp khó khăn, tăng trưởng tín dụng chung đối với nền kinh tế còn thấp nhưng đầu tư cho vay của ngành ngân hàng cho lĩnh vực cá tra trong năm 2012 tăng trưởng đây là cố gắng lớn của toàn bộ hệ thống Ngân hàng các cấp đặc biệt là các ngân hàng thương mại đã tập trung đầu tư mạnh cho lĩnh vực nuôi trồng, chế biến xuất khẩu cá tra trong điều kiện khả năng huy động vốn tại chỗ thấp; đến nay hầu hết các khoản vay để nuôi, chế biến cá tra đã được cơ cấu lại xuống dưới 15%/năm, cá biệt có ngân hàng đã đưa ra các sản phẩm tín dụng với lãi suất chỉ là 9,5%/năm (như Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam tại Đồng Tháp).
Tuy nhiên, trong quá trình khảo sát theo phản ánh của người nuôi và một số doanh nghiệp cùng với phân tích các báo cáo của các Ngân hàng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có một số nhận định như sau:
- Mặc dù trong năm 2012 doanh số cho vay của toàn hệ thống ngân hàng đạt 51.876 tỷ đồng, tổng dư nợ cho vay nuôi trồng, chế biến xuất khẩu cá tra của các tổ chức tín dụng trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long đạt 22.777,5 tỷ đồng (so với cuối năm 2011 doanh số tăng 16,5%, số dư tăng 25%) nhưng:
+ Người nuôi và doanh nghiệp vẫn khó tiếp cận với nguồn vốn vay từ ngân hàng (thực tế chỉ một số hộ được vay vốn của Ngân hàng nông nghiệp, ngân hàng Ngoại Thương với lãi suất thấp); nguyên nhân: do người nuôi và doanh nghiệp không còn tài sản thế chấp để vay mới, trong khi đó các ngân hàng không hạ điều kiện cho vay (điển hình như Đồng Tháp số hộ nuôi có hiệu quả được ngân hàng đầu tư vốn năm 2012 là 885/1.647 hộ).
+ Thời gian cho vay chưa phù hợp với chu kỳ sản xuất (thời gian vay 4 tháng/chu kỳ sản xuất 8-12 tháng), điều đó làm tăng doanh số cho vay của các ngân hàng so với nhu cầu vốn để đầu tư thực tế cần cho nuôi, thu mua và chế biến cá tra; đây là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các thủ tục, tăng chi phí đối với các ngân hàng (người vay đến kỳ đáo hạn phải trả nợ cũ rồi mới làm khế ước vay mới);
4. Đề xuất kiến nghị
Để hoàn thành mục tiêu, kế hoạch trong năm 2013, hướng tới sản xuất tiêu thụ cá tra phát triển bền vững, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kính đề nghị:
- Ngân hàng nhà nước Việt Nam xem xét điều chỉnh lại thời hạn vay nuôi cá tra (cho vay theo chu kỳ nuôi cá 8-12 tháng), cơ cấu lại nợ, tăng hạn mức cho vay trên cơ sở xem xét sửa đổi bổ sung giá trị cá trong ao và hạ tầng ao nuôi vào căn cứ tính hạn mức cho vay, tiếp tục chỉ đạo hệ thống ngân hàng triển khai văn bản 1149/TTg-KTN. Nghiên cứu sửa đổi Nghị định 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 về chính sách tín dụng phục vụ nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
- Bộ Tài nguyên và Môi trường sửa đổi, bổ sung Thông tư số 17/2009/TT-BTNMT quy định về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền trên đất. Đề nghị xem xét xác định giá trị giữa đất trồng lúa và đất, mặt nước nuôi trồng thủy sản thành 2 đối tượng riêng biệt, trên cơ sở giá trị đầu tư để phục vụ nuôi trồng thủy sản.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề nghị Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp thực hiện./.
Nơi nhận: - Như trên; | KT. BỘ TRƯỞNG |
- Chia sẻ:Trịnh Thị Lương
- Ngày:
Công văn 773/BNN-TCTS
47 KBGợi ý cho bạn
-
Thông tư 14/2018/TT-NHNN Biện pháp hỗ trợ tổ chức tín dụng cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn
-
Thông tư 22/2022/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung Thông tư 05/2018/TT-NHNN
-
Thông tư 71/2024/TT-BTC hướng dẫn Chế độ kế toán Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã
-
Tải Nghị định 87/2023/NĐ-CP về phòng, chống tiền giả và bảo vệ tiền Việt Nam file DOC, PDF
-
Thông tư 21/2022/TT-NHNN về vị trí việc làm lãnh đạo, quản lý và chức danh nghề nghiệp chuyên ngành lĩnh vực Ngân hàng
-
Nghị định 20/2023/NĐ-CP sửa đổi Nghị định về quản lý, sử dụng vốn ODA
-
Thông tư 49/2024/TT-NHNN về bảo lãnh nhà ở hình thành trong tương lai
-
Thông tư 14/2023/TT-BTC hướng dẫn kế toán áp dụng đối với Ngân hàng Phát triển Việt Nam
-
Thông tư 15/2018/TT-BYT quy định thống nhất giá dịch vụ khám chữa bệnh BHYT
-
Thông tư 66/2024/TT-BTC quy định chức danh nghề nghiệp chuyên ngành kế toán
Có thể bạn cần
Top 8 mẫu phân tích khổ cuối bài Tràng giang hay chọn lọc
Hướng dẫn khai Phiếu đảng viên (mẫu 2-HSĐV)
Mẫu Bài thu hoạch nghị quyết trung ương 4 khóa 12 cho Đảng viên
Biên bản họp chi bộ đề nghị kết nạp Đảng viên
Top 4 mẫu Cảm nhận bài thơ Sóng hay chọn lọc
Thực hành theo hướng dẫn để tạo ra 02 sản phẩm hỗ trợ việc giảng dạy môn Toán cấp tiểu học
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 3 năm 2024 mới cập nhật
Bộ tranh thiếu nhi về chào mừng Đại hội Đoàn 2024
Công văn xin hủy tờ khai Thuế GTGT do kê khai sai 2024
Suy nghĩ về số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến
Tờ khai thuế thu nhập cá nhân Mẫu 05/KK-TNCN, 05-DK-TCT 2024
Mẫu nhận xét các môn học theo Thông tư 22, Thông tư 27
Bài viết hay Tài chính - Ngân hàng
Nghị định 18/2016/NĐ-CP sửa đổi nghị định thành lập, tổ chức và hoạt động của Công ty Quản lý tài sản
Thông tư liên tịch 70/2016/TTLT-BTC-TTCP về lập, quản lý và sử dụng Quỹ khen thưởng về phòng, chống tham nhũng
Quyết định 30/2021/QĐ-TTg Tiêu chí và định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên NSNN năm 2022
Thông tư 07/2017/TT-BTC về hỗ trợ kinh phí cho hoạt động chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả
Thông tư số 141/2010/TT-BTC
Thông tư 53/2020/TT-BTC kinh phí giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội
Thuế - Lệ phí - Kinh phí
Giáo dục - Đào tạo
Y tế - Sức khỏe
Thể thao
Bảo hiểm
Chính sách
Hành chính
Cơ cấu tổ chức
Quyền Dân sự
Tố tụng - Kiện cáo
Dịch vụ Pháp lý
An ninh trật tự
Trách nhiệm hình sự
Văn bản Nông - Lâm - Ngư nghiệp
Tài nguyên - Môi trường
Công nghệ - Thông tin
Khoa học công nghệ
Văn bản Giao thông vận tải
Hàng hải
Văn hóa Xã hội
Du lịch
Doanh nghiệp
Xuất - Nhập khẩu
Tài chính - Ngân hàng
Lao động - Tiền lương
Đầu tư - Chứng khoán - Thương mại
Xây dựng - Đô thị - Đất đai - Nhà ở
Lĩnh vực khác