Phân tích đoạn trích khi tỉnh rượu giấc tàn canh (Truyện Kiều)

Phân tích đoạn sau trích trong “Truyện Kiều” (Nguyễn Du) là nội dung đề số 3 trang 55 sách giáo khoa Ngữ văn 11 tập 1 Cánh Diều bài Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật. Trong bài viết này Hoatieu xin chia sẻ đến bạn đọc một số bài văn mẫu phân tích đoạn trích khi tỉnh rượu giấc tàn canh hay và ngắn gọn, mời các bạn cùng tham khảo.

1. Dàn ý phân tích đoạn trích Khi tỉnh rượu lúc tàn canh

1. Mở bài

Giới thiệu bối cảnh của đoạn trích Nỗi thương mình.

2. Thân bài:

a. Khung cảnh lầu xanh trụy lạc, phóng túng:

- “bướm lả ong lơi” gợi ra viễn cảnh vô cùng dung tục, ví kỹ nữ như là những bông hoa tươi đẹp, còn khách làng chơi lại tựa như loài ong loài bướm, lả lơi, ngả nghiêng hết vờn đóa hoa này, lại chạm đến bông hoa kia, hết sức tạp nham, lẫn lộn và hoang đường.

- Hương rượu nồng quyện với mùi hương phấn dung tục với “cuộc say đầy tháng”, với sự khoái lạc của “trận cười suốt đêm”, nam nữ thâu hoan không kể ngày đêm, ồn ào, náo nhiệt và trụy lạc.

- Hình ảnh “dập dìu” nam nữ cười đùa, ngả ngớn, đầu sát bên đầu, má ấp bên má tựa như lá với gió, cành với chim.

- Khắc họa hình ảnh khách làng chơi bằng các điển tích, điển cố, nhân vật trong lịch sử như Tống Ngọc, Tư Mã Tương Như.

b. Nỗi đau và tâm trạng của Thúy Kiều:

- “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh/Giật mình lại thấy thương mình xót xa”: Ý thức về thân phận bọt bèo, giật mình, bàng hoàng nhìn lại tấm thân tàn, mà tự thấy xót xa, thương cảm.

- “Khi sao phong gấm rủ là”, là nhắc về cuộc sống êm đềm trướng rủ màn che thuở trước. Còn Kiều bây giờ buộc phải đối mặt với một cuộc sống cũng trướng rủ màn che đấy, nhưng lại chìm trong những ngày tháng sắc dục, buôn phấn bán hương.

- Kiều tự nhận thấy bản thân mình ứng với mấy chữ “tan tác như hoa giữa đường”, vốn là đóa mẫu đơn cao quý, trong sạch, cuối cùng lại bị chà đạp không thương tiếc, chỉ còn lại bộ dạng tàn tạ, nhơ nhuốc.

- Khuôn mặt phải ngày ngày chường ra cho kẻ Bắc người Nam, ngắm nghía, bình phẩm, phải “dày gió dạn sương” ôm ấp nam tử như người tình, điệu bộ lả lướt, ngả ngớn, chiều lòng.

- Lời thở than chua xót “Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!”, là ý thức của nàng về tấm thân tàn tạ, rẻ mạt của mình.
=> Cuộc sống tủi hổ, nhục nhã đau đớn tột cùng về cả thể xác và tinh thần của nàng Kiều.

c. Vẻ đẹp tâm hồn Thúy Kiều:

- Thế nhưng dẫu cuộc đời có chà đạp, vùi dập phận liễu yếu đào tơ, thì Kiều vẫn mạnh mẽ kiên cường, giữ vững cho mình cốt cách thanh cao, tinh khiết. Dẫu bốn bề chốn lầu xanh nơi nào cũng “mây Sở mưa Tần” thì nàng cũng chẳng buồn để tâm đến, những thú vui hoan lạc, tầm thường ấy

- “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/Người buồn cảnh cũng vui đâu bao giờ?”, để diễn tả đúng cái hoàn cảnh éo le, buồn tủi của Thúy Kiều.

- “Đòi phen nét vẽ câu thơ/Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa”, thể hiện hoàn cảnh trêu ngươi của Thúy Kiều, nàng vốn là người thông minh, sắc sảo ca từ thi phú âm luật có cái nào mà không thông, nhưng nhìn viễn cảnh trước mắt, lại nhìn tới số phận bọt bèo của mình thì những thứ mà nàng yêu thích trước đây cũng trở nên tẻ nhạt, chán chường.

- “Ai tri âm đó mặn mà với ai” nỗi trăn trở về một người có thể thiếu hiểu, xót thương, mong mỏi thoát khỏi chốn phong trần. Điều đó càng làm cho Kiều trở nên chán nản, xót xa đến tột cùng.

3. Kết bài:

Nêu cảm nghĩ.

Phân tích đoạn trích Khi tỉnh rượu lúc tàn canh

2. Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều

Giật mình mình lại thương mình xót xa.

Khi sao phong gấm rủ là,

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.

Mặt sao dày gió dạn sương,

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!

Mộng Liên Đường chủ nhân đã khái quát về thân thế Thuý Kiều: “Khi lai láng tình thơ, người tựa án khen tài châu ngọc; Khi duyên ưa kim cải non biển thề bồi; Khi đất nổi ba đào cửa nhà tan tác; Khi lầu xanh, khi rừng tía, cõi đi về nghĩ cũng chồn chân; Khi kinh kệ, khi can qua, mùi từng trải nghĩ cùng tê lưỡi…”. Thuý Kiều đã trải qua hầu hết những nỗi đau khổ tái tê nhất của người phụ nữ dưới thời phong kiến. Khổ đau nhưng luôn có ý thức về “kiếp đoạn trường” của bản thân, rơi vào lầu xanh, Kiều thương thân xót phận nhưng cũng luôn ý thức về phẩm giá. Điều đó góp phần làm nên giá trị nhân đạo lớn lao và sâu sắc của tác phẩm.

"Nỗi thương mình" (Truyện Kiều) là một đoạn trích thể hiện khá rõ tài năng nghệ thuật độc đáo, cái nhìn vượt thời đại và đặc biệt tinh thần nhân đạo mới mẻ của đại thi hào nguyễn Du. Đoạn trích chỉ vỏn vẹn hai mươi câu, từ câu 1229 đến câu 1248, cho thấy tâm trạng đau đớn, tủi nhục, nỗi cô đơn, thương thân trách phận và ý thức sâu sắc về thân phận bất hạnh của Thúy Kiều ở chốn lầu xanh.

Từ lúc gia đình gặp biến cố, phải bán mình chuộc cha, trao duyên lại cho em là Thúy Vân, Kiều đã trải qua 15 năm lưu lạc, trong 15 năm ấy, Kiều gặp phải bao sự lọc lừa nhưng lần Thúy Kiều bị lừa đau đớn nhất có lẽ là lần nàng bị Mã Giám Sinh lừa bán đến lầu xanh. Nó là bước ngoặt bẻ ngang cuộc đời Thúy Kiều rẽ sang một hướng khác. Rơi vào tay Tú Bà, Kiều rút dao định tự tử nhưng không thành.

Ở lầu Ngưng Bích, Kiều lại mắc bẫy Sở Khanh, bị Tú Bà đánh đập tơi bời. Tiếp đó là những tháng ngày ê chề nhục nhã của nàng trong vai trò kĩ nữ - gái làng chơi, đem tấm thân trong ngọc trắng ngà của mình mua vui cho những kẻ lắm tiền háo sắc. Những ngày Thúy Kiều ở chốn lầu xanh là những ngày nàng vô cùng buồn tủi, tâm trạng rối bời như tơ vò nghĩ về thân phận, sự tủi nhục của kiếp hồng nhan. Đoạn trích có một kết cấu khá logic với diễn biến tâm trạng và trớ trêu của cuộc đòi đầy bất hạnh khi nghe những lời độc thoại nội tâm đầy đau đớn : “Khi tỉnh rượu …xuân là gì?” Đó cũng là thời điểm mở đầu cho những chuỗi tâm sự nối kết, ngỗn ngang. Kiều nghĩ đến thân phận mình để rồi “mình lại thương mình xót xa” Kiều xót xa cho chính bản thân mình. Với nàng, hiện tại như một giấc mơ cay đắng khi nàng sánh với quá khứ.

Mở đầu đoạn trích Nỗi Thương Mình là tâm trạng đau buồn, tủi hổ đến ê chề của Thúy Kiều phải nếm trải trong chốn lầu xanh của mụ Tú Bà:

“Biết bao bướm lả ong lơi,

Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.

Dập dìu lá gió cành chim

Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh”

Bốn câu đầu của đoạn trích cho ta thấy rõ hình ảnh lối sống xô bồ, nhơ nhớp và thân phận bẽ bàng của người kĩ nữ ở chốn lầu xanh. Nguyễn Du đã miêu tả thật sống động bức tranh sinh hoạt ở chốn lầu xanh bằng bút pháp ước lệ tượng trưng. Trong chốn lầu xanh ấy Kiều phải tiếp khách mua vui cho “biết bao” người mà nàng không thể nào nhớ đươc hay là đếm được, bởi lẻ một điều rằng hằng ngày Kiêu tiếp khách làng chơi triền miên “suốt đêm, sớm đưa, tối tìm” những từ ngữ ấy đã cho ta thấy đươc sự nhộn nhịp của chốn lầu xanh, nơi mà Tú Bà ăn nên làm ra.

Bằng những hình ảnh ẩn dụ: bướm lả ong lơi, cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm” và các điển tích điển cố: “lá gió cành chim”, “Tống Ngọc, Trường Khanh” - chỉ chung cho loại khách làng chơi phong lưu Nguyễn Du cho thấy tình cảnh của Thúy Kiều tuy sống trong cảnh lầu xanh tưởng như thanh tao, phong nhã nhưng thực chất đó chỉ là giả tạo, hằng ngày Kiều phải làm công việc nhơ nhuốc, tiếp đủ các loại khách đến mua vui.

Điều này cho ta thấy rõ hơn về nỗi bất hạnh và tình cảnh trớ trêu của Thúy Kiều. Bút pháp ước lệ giúp Nguyễn Du không tránh né số phận thực tế của Kiều mà vẫn giữ được chân dung cao đẹp của nàng. Qua đó ta thấy được thái độ trân trọng, cảm thông của tác giả đối với nhân vật.

Ông đã tái hiện cái hoàn cảnh của Thúy Kiều bằng những sự đối lập nghiệt ngã: một bên là nước mắt Thúy Kiều - một bên là những cơn say, trận cười triền miên. Do vậy ở bốn câu thơ đầu, mặc dù chưa được miêu tả trực tiếp, người đọc vẫn thấy Kiều đang bị cuốn đi trong một cơn lốc vô hình, bị buộc vào cảnh sống nhơ nhớp nơi nhà chứa. Hiện thực nghiệt ngã mà nhân vật phải trải qua, hé mở thân phận bẽ bàng của người kỹ nữ. Nguyễn Du đã mỹ lệ hóa cho cảnh sống ấy bằng một thứ ngôn ngữ ước lệ rất tài tình: ước lệ theo thành ngữ dân gian, ước lệ theo điển tích làm cho sự hồi tưởng kiếp sống đớn đau của Kiều trở nên tao nhã hơn. Bởi vì chỉ có hồi tưởng mới diễn tả hết sức sống chân thật của nội tâm nhân vật, mới thể hiện đúng nỗi đau, mới nổi bật được phẩm giá và sự chịu đựng giày vò đáng thương của nhân vật. Đằng sau những câu thơ ấy là tấm lòng cảm thông, trân trọng mà tác giả dành cho Thúy Kiều.

Bốn câu thơ đầu đã đặt ra một tình thế của tâm trạng. Ở lầu xanh có nhiều kĩ nữ, họ có thể bình thản coi việc làm của mình rất đỗi bình thường, trớ trêu thay Kiều lại có một nhân phẩm quá đỗi cao đẹp, một tâm hồn trong trắng, một bông hoa từ cảnh sống “êm đềm trướng rủ màn che” bỗng nhiên bị ném vào bùn nhơ, hai câu tiếp nói về tâm trạng của Kiều trong những ngày tủi nhục, nỗi ê chề, sự ép buộc, đày đọa mà Kiều phải chịu đựng:

“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh

Giật mình mình lại thương mình xót xa”

Ở nơi lầu xanh đầy “cuộc say, trận cười” thì chỉ “khi tỉnh rượu lúc tàn canh” Kiều mới có một khoảnh khắc hiếm hoi để sống thực với chính mình và cũng là hoàn cảnh Kiều tỉnh táo nhất đối diện với con người mình. Thời gian và không gian thật vắng lặng như gợi lên nỗi niềm xót xa. Nhịp thơ có sự thay đổi giữa hai câu thơ trên từ nhịp 3/3 chuyển sang nhịp 2/4/2. Hai chữ “giật mình” kết hợp với cách ngắt nhịp ấy đã diễn tả sự biến đổi đột ngột trong tâm hồn Kiều. Nàng bàng hoàng đau xót trước thực tại phũ phàng và trơ trọi chỉ có một mình nàng tự xót xa, đau đớn cho chính số phận bi thương, đoạn trường của mình.

Giật mình không chỉ là hành động bên ngoài của nhân vật khi có một sự tác động đột ngột nào đó của môi trường bên ngoài. Đó là cái giật mình từ cảm xúc bên trong mà nếu không có thì Kiều cũng giống như tất cả các kĩ nữ khác trong thanh lâu của Tú bà. Kiều giật mình vì nhận ra sự tàn phá thảm hại về thể xác và phẩm cách của mình ở chốn lầu xanh, sự cô đơn lẻ loi của mình và sự yếu đuối bất lực của mình trước bao nhiêu sự xấu xa, cạm bẫy đang bủa vây mình mà ko thể chống đỡ. Điệp từ “mình’’ lặp lại ba lần trong một câu thơ như tiếng nấc nghẹn ngào, tha thiết của Thúy Kiều ý thức được về phẩm giá, nhân cách, quyền sống bản thân đó cũng là ý thức cá nhân và quyền sống của con người trong lịch sử phong kiến mà Nguyễn Du muốn truyền tải đến người đọc.

Đối với hai câu trên với nhịp thơ đầy nỗi tủi nhục của Kiều thì những câu tiếp theo sau là những hồi ức dội về, hồi ức tươi sáng va đập thực tại tăm tối đọa đày:

“Khi sao phong gấm rủ là

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường

Mặt sao dày gió dạn sương

Thân sao bướm chán ong chương bấy thân”

Một cô gái khuê các, tài sắc vẹn toàn, hiền lành đoan trang hết mực. Một cô gái nho gia bây giờ trở thành một cành hoa tan tác. Sự biến chuyển nhanh chóng đến mức chính Kiều cũng phải bàng hoàng, sửng sốt. Phép đối lập như một biện pháp nghệ thuật chủ yếu toàn đoạn trích và nhất là trong hai câu này càng tăng thêm giá trị biểu cảm. Nó tạo nên sự so sánh đối lập giữa hai quãng đời, hai thời gian, hai tình cảm. Cặp từ đối lập chỉ thời điểm: “Khi sao/giờ sao” tạo nên cảm giác đột ngột của sự thay đổi trong một khoảng thời gian không mấy cách biệt. Chính vì điều này đã làm vết thương của Kiều nhức nhối, đau đớn như đào sâu thêm vào nỗi xót xa, tê tái của Kiều.

Quá khứ hiện về đối lập với thực tại một cách khốc liệt, Kiều hồi tưởng lại những tháng năm “êm đềm trướng rũ màn che” thì lập tức thực tại phũ phàng lại hiện lên rõ nét hơn gấp bội, từ “phong gấm” diễn tả một sự bình yên, êm đềm trong quá khứ đối lập gay gắt với từ “tan tác” trong câu thơ nói về hiện tại như cái thực trạng phũ phàng bao trùm vùi chôn quá khứ êm đẹp. Phép so sánh “như hoa giữa đường” càng làm nổi bật sự đối lập tuyệt đối giữa quá khứ và thực tại, giữa cá nhân và hoàn cảnh. Cụm từ “bướm chán ong chường” và “dày gió dạn sương” là nét sáng tạo về cách dùng từ của Nguyễn Du, nhấn mạnh có ý so sánh theo mức độ tăng tiến cho ta thấy sự vùi dập, chà đạp mà Kiều phải gánh chịu. Các câu hỏi tu từ ở đây được Nguyễn Du sử dụng nhằm làm rõ hơn sự đau đớn, ê chề của Kiều trước thực tại phũ phàng, tàn nhẫn.

Hai câu thơ day dứt một tiếng thở dài tuyệt vong của một cô gái vốn tài sắc hơn người, khát khao hạnh phúc nhưng bậy giờ đã chán ngán tất cả":

“Mặc người mưa Sở mây Tần

Những mình nào biết có xuân là gì?”

Sống trong cảnh lầu xanh suốt ngày phải mua vui cho người khác hành hạ bản thân mình, lặp đi lặp lại hằng ngày ai cũng sẽ thấy chán chường muốn bỏ bê tất cả và Kiều cũng vậy. Sự đối lập giữa người - khách làng chơi (số nhiều) với chính mình - Kiều (số ít) như thể hiện tột cùng nỗi cô đơn của nàng. Từ ''xuân'' ở đây ý chỉ niềm vui được hưởng hạnh phúc lứa đôi nhưng với Thúy Kiều sống làm vợ khắp người ta thì làm gì còn có mùa xuân, chỉ thấy trong đó là sự nhục nhã, lẻ loi, trơ trọi và cô đơn của cuộc đời người kĩ nữ mua vui. Từ ''mặc'' ở đây lại chỉ sự bất lực, mặc cho mọi thứ muốn tới đâu thì tới, dằn vặt nặng nề đay nghiến của Thúy Kiều nhưng không làm sao khác được.

“Đòi phen gió tựa hoa kề

Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ

Đòi phen nét vẽ câu thơ

Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa

Vui là vui gượng kẻo là

Ai tri âm đó, mặn mà với ai.”

Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp hiện lên, có đủ cả: phong - hoa - tuyết - nguyệt, cảnh đẹp bốn mùa hội tụ vào nơi đây, gió xuân vi vu thổi, hoa hạ đua nhau khoe sắc ngát hương, trăng thu sáng vằng vặc, tuyết đông phủ kín cả lầu tất cả đều rất thực, rất sinh động như vẽ nên bức tranh đầy màu sắc, âm thanh của lầu xanh và trong đó có đủ những thú vui của con người: cầm - kì - thi - họa càng tô điểm cho bức tranh ấy thêm phần nhộn nhịp, sống động hơn bao giờ hết. Nhưng nêu lên những cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, tao nhã, nên thơ ấy lại như một sự giễu cợt, mỉa mai, chua chát. Vì dù ngụy trang khéo đến mấy, cũng không thể che đậy nổi cái bản chất nhơ nhớp, bẩn thỉu bên trong của chốn “buôn thịt bán người”. Đoạn thơ vì thế đồng thời hướng vào tâm trạng Kiều: Kiều luôn phải tách mình thành hai nửa: một con người bề ngoài vui gượng, giả tạo và một con người thực, sống để xót xa mỗi lúc canh tàn.

Cảnh không thể vui vì lòng người nặng trĩu nỗi tê tái... Khi gió tựa hoa kề, khi cung cầm thi họa, lúc nào nỗi đau cũng dâng đầy và nghẹn ứ trong lòng nàng. Ý thức về nhân phẩm một khi trỗi dậy là lại bị giày xéo, khiến nàng không nguôi bẽ bàng, nhục nhã về thân phận. Hai từ “đòi phen” được lặp lại trong tám câu thơ càng thể hiện rõ hơn đó là một nỗi đau thường trực, chưa lúc nào thôi dằn vặt Kiều. Nỗi sầu của Kiều lan tỏa sang cảnh vật:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Bằng sự thông cảm lạ lùng, và bằng tài năng kì diệu, Nguyễn Du đã viết nên hai câu thơ hay nhất giữa ngoại cảnh và tâm cảnh, giữa cảnh và tình. Từ một trường hợp cụ thể, thơ Nguyễn Du đã vươn tới tầm phổ quát, trở thành chân lí của mọi thời. Có thể nói hai câu thơ là đỉnh điểm của đoạn trích vì nó gột tả được sâu sắc hơn bao giờ hết nội tâm của nhân vật từ đó lan tỏa sang cảnh vật một cách thật tự nhiên và hợp lí. Nỗi buồn của Thúy Kiều cứ dâng lên, như sóng cồn triền miên không bao giờ dứt, nó cứ khuấy động bên trong sâu thẳm con người Kiều để rồi đến một lúc nào đó, tức nước vỡ bờ, nó dâng lên cuồn cuộn đánh động vào nỗi lòng, cảm xúc của Thúy Kiều, khiến cho mọi vật qua cái nhìn của nàng đều trở nên u buồn, tăm tối, nhuộm màu tang thương.

“Vui là vui gượng kẻo là

Ai tri âm đó mặn mà với ai?”

Hai câu thơ cuối là nỗi lòng của Thúy Kiều được Nguyễn Du thể hiện một cách tinh tế, độc đáo mà tâm sự này, tâm trạng này, Kiều của Thanh Tâm tài nhân không hề có được. Từ “vui gượng” nói lên tất cả sự lạc lõng, cô độc cũng là sự mâu thuẫn, bế tắc không lối thoát của Kiều trước hoàn cảnh. Sống trong cảnh nhơ nhớp, phải tiếp khách làng chơi, trải qua những cơn say, trận cười quanh năm suốt tháng, phải lả lơi… là điều bất đắc dĩ, Kiều không bao giờ muốn thậm chí không bao giờ có thể tưởng tượng được cuộc đời mình lại bi kịch như thế. Giữa chốn lầu xanh mà đồng tiền lên ngôi, có bao kẻ đến rồi đi, cái còn lại sau cùng với Kiều chỉ là sự rã rời, đau đớn cả về thể xác và tâm hồn thì làm gì có ai là tri kỉ, có ai để “mặn mà” nhưng trong sâu thẳm cõi lòng, Kiều vẫn luôn mong ngóng một tấm lòng, một người hiểu mình. Một lần nữa ngôn ngữ nửa trực tiếp lại khiến cho câu thơ có những lớp nghĩa sâu sắc kết hợp câu hỏi tu từ đầy sót xa cay đắng cho thấy phẩm chất tốt đẹp của Thúy Kiều giàu lòng tự trọng, coi trọng phẩm giá và muốn sống một cuộc sống bình yên, trong sạch.

Nỗi thương mình của Thuý Kiều có một ý nghĩa vô cùng sâu sắc xét về sự tự ý thức của con người cá nhân trong lịch sử văn học Việt Nam thời trung đại. Người phụ nữ xưa được giáo huấn theo tinh thần cam chịu, nhẫn nhục, buông xuôi. Khi con người biết “Giật mình mình lại thương mình xót xa” thì không còn nhẫn nhục cam chịu nữa mà đã ý thức rất cao về phẩm giá và nhân cách bản thân, ý thức về quyền sống của bản thân.

Thương thân xót phận là một chủ đề phổ biến trong văn học Việt nam cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX (Cung oán ngâm, Chinh phụ ngâm, thơ Hồ Xuân Hương,…). Nguyễn Du là người viết về cảm hứng này sâu sắc và thấm thía hơn cả. Thương thân mình là một cách phản ứng với hiện thực của thân phận. Điều đó cho thấy con người không bị tàn đi, không bị cuốn theo, không bị huỷ diệt. Giữa chốn lầu xanh nhơ nhớp, Kiều tách ra như một điểm sánh về tâm hồn. Chính vì vậy mà Từ Hải, Kim Trọng, Nguyễn Du và người đọc bao thế hệ đều rất trân trọng nàng.

Vẫn chủ đề quen thuộc vẫn là những số phận nhỏ bé của người phụ nữ nhưng đến Nguyễn Du ông đã dùng cây bút của mình viết nên vần thơ tựa như lời bộc bạch thấm thía, sâu sắc vô cùng. Dường như hình ảnh Thúy Kiều hiện thân cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa được đặc tả tinh tế nhất. Nỗi thương mình là nền tảng của lòng thương người, ông tự thương lấy chính cuộc đời ông và đồng cảm với nàng Kiều sống giữa chốn bụi trần đầy rẫy những lưỡi dao cắt xé lòng. Đoạn trích “Nỗi thương mình” mang đậm chất bi thương vừa là chuỗi hành trình kể lại từng mảnh đời của Thúy Kiều vừa là lên án được xã hội vạn ác đã chồng chất bao nỗi khổ đau lên một kiếp người.

3. Phân tích đoạn trích khi tỉnh rượu giấc tàn canh

Nguyễn Du là nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam mà ai ai cũng biết đến. Ông có rất nhiều sáng tác hay đóng góp cho nền văn học. Trong đó, Truyện Kiều đã trở thành kiệt tác tiêu biểu được ngợi ca. Trong tất cả các phần, đoạn trích Nỗi Thương Mình được đánh giá là xuất sắc. Bởi nó thể hiện được cuộc sống hiện thực đầy xót xa của Kiều. Đi kèm với đó là sự đồng cảm cho thân phận của Kiều khi rơi vào chốn lầu xanh.

Khi bị Mã Giám Sinh đưa đến nhà chứa, Kiều không muốn chấp nhận nên đã chống đối. Thế nhưng, Kiều lại rơi vào cái bẫy của Tú Bà. Nàng bắt buộc phải ra tiếp khách nơi làng chơi. Đoạn trích thể hiện rõ tâm trạng và nỗi đau của Kiều khi ở chốn lầu xanh.

Đoạn trích Nỗi thương mình chính là đoạn diễn tả chi tiết nhất về nỗi đau của Kiều cùng với sự cảm thông của tác giả.

Luận điểm 1: Đoạn đầu chính là tình cảnh của Kiều khi ở lầu xanh

Biết bao bướm lả ong lơi!

Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm

Mở đầu đoạn trích, tác giả đã dùng hình ảnh ong bướm để mô tả cảnh lầu xanh. Nơi đây có “biết bao bướm lả ong lơi”. Từ ngữ “lã” và “lơi” đi kèm với hai hình ảnh của thiên nhiên đã tạo nên bướm tranh vô cùng dung tục. Những kỹ nữ lầu xanh thì đẹp như hoa còn khách làng chơi là những loài ong bướm quây quanh vô cùng tầm thường. Trong chốn lầu xanh ấy, con người chỉ biết tận hưởng khoái lạc cùng những cuộc say, trận cười suốt đêm. Có thể nói, chốn lầu xanh dường như là nơi chứa chấp những con người ăn chơi trác táng. Tại đây, những người phụ nữ không được nâng niu trân trọng. Họ như món đồ chơi bị người đời chuyền tay nhau.

Chốn lầu xanh đầy nhơ nhớp

Dập dìu lá gió cành chim,

Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Tràng Khanh

“Dập dìu lá gió cành chim” là câu thơ thể hiện rõ số phận của những người kỹ nữ chốn lầu xanh. Họ ngày đêm tiếp khách làng chơi không phân biệt tuổi tác, nhan sắc, tính cách,… Thứ mà họ quan tâm chủ yếu đó chính là xác thịt được trao đổi bằng đồng tiền rẻ mạt. Nguyễn Du đã thể hiện thành công hơn hình ảnh của khách làng chơi khi nhắc đến Tống Ngọc, Trường Khanh. Đây là những nhân vật trong lịch sử nổi tiếng với tính cách phong lưu, trăng gió.

Thông qua những hình ảnh ẩn dụ của nhân vật, tác giả đã thành công mô tả cuộc sống hỗn loạn, nhơn nhớp chốn lầu xanh. Dẫu rằng, chốn này có sáng đèn đẹp đẽ thì khi những người con gái rơi vào cũng nhận lại sự tủi nhục đầy cay đắng. Kiều là tiểu thư khuê các với tâm hồn thanh cao. Thế nhưng dòng đời bạc bẽo đã khiến nàng rơi vào địa ngục trần gian. Ở chốn lầu xanh ấy, Kiều đã cố vẫy vùng thế nhưng chẳng thể thoát khỏi.

Luận điểm 2: Tâm trạng của Kiều khi rơi vào chốn lầu xanh

Khi tỉnh rượu lúc tàn canh

Giật mình mình lại thương mình xót xa

Khi tỉnh rượu lúc tàn canh là câu thơ thể hiện rõ cuộc sống của người kỹ nữ. Họ ngày đêm tiếp khách, bị ép buộc tham gia vào những cuộc rượu. Chính bản thân họ cũng triền miên theo những cơn say. Khi tỉnh ra, họ mới bắt đầu “giật mình lại thấy thương mình xót xa”. Chẳng có nỗi đau nào bằng sự tủi nhục về thân phận của chính mình. Ở hai câu thơ này đã diễn tả được “nỗi thương mình” của Kiều.

Khi sao phong gấm rủ là

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?

Nỗi thương mình còn thể hiện rõ ràng hơn ở những câu thơ tiếp theo. Khi sao phong gấm rủ là, giờ lại tan tác như hoa giữa đường. Trước đây, Kiều là người sống thanh tao, tâm hồn đẹp, được tiếp xúc với cuộc sống sung túc. Thế nhưng giờ đây, cuộc đời bông hoa đẹp ấy lại tan tác giữa đường. Không chỉ thân thể mà tâm hồn của nàng cũng bị chà đạp không thương tiếc. Kiều cảm thấy chua xót bản thân đến nỗi mình còn chán mình. “Thân sao bướm chán ong chường” đã thể hiện ý thức của nàng về tấm thân rẻ mạt. Thông qua đó, chúng ta có thể hiểu được sự nhục nhã tột cùng.

Luận điểm 3: Thúy Kiều ý thức bảo vệ bản thân

Mặt sao dày gió dạn sương?

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!

Mặc người mưa Sở mây Tần

Những mình nào biết có xuân là gì?

Đòi phen gió tựa hoa kề

Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu?

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!

Đôi phen nét vẽ câu thơ

Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa.

Vui là vui gượng kẻo là,

Ai tri âm đó mặn mà với ai?

Mặc cuộc đời có chà đạp thì Kiều vẫn mạnh mẽ, kiên cường. Nàng như loài sen trong đầm mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Dẫu có “mưa Sở mây Tần” thì nàng cũng chẳng buồn để tâm đến. Những thú vui hoan lạc ấy giờ đây cũng chẳng tác động được đến nàng. Bởi vì, tâm hồn của nàng đã chết lặng khi rơi vào cảnh lầu xanh.

Nàng chết lặng và chẳng mấy tha thiết khi được lọt vào tầm mắt. Cuộc đời đã bị trôi nổi giữa chốn phong hoa với bao nhiêu đắng cay chẳng màng.

Nàng Kiều vốn dĩ thông minh tài sắc nên yêu thích thi ca. Giờ đây, khi nhìn lại thích thân phận, nàng cảm thấy chán chường với những điều ấy. Nàng luôn muốn tách mình ra khỏi cái chốn lầu xanh nhơ nhớp ấy để sống trong sạch một đời. Khi người buồn thì chẳng có vui bao giờ. Nỗi buồn, nỗi đau của Kiều như đã lan tỏa khắp cả khung cảnh xung quanh.

Thông qua việc phân tích đoạn trích Nỗi Thương Mình, chúng ta sẽ thấy được kiếp hồng nhan bạc mệnh của Kiều. Người phụ nữ có tâm hồn đẹp nhưng lại bị vùi dập đau đớn. Khi đọc xong đoạn trích, chúng ta sẽ cảm nhận rõ hơn lòng thương cảm của tác giả về nhân vật và sự ca ngợi nhân phẩm con người.

4. Phân tích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều

Tác gia Nguyễn Du là một nhà văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam. Trong đó, tác phẩm Truyện Kiều được đánh giá là một trong những tác phẩm thơ kinh điển trong kho tàng văn học nước nhà. Nỗi thương mình là đoạn trích về cảnh tình trớ trêu mà Kiều đã gặp phải và nỗi niềm thương xót thân phận của Thúy Kiều trong chốn lầu xanh. Càng đi sâu phân tích Nỗi thương mình ta sẽ càng cảm thấy sự tài hoa cũng như tinh thần nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du khi đồng cảm với số phận bất hạnh của những người phụ nữ thời kì phong kiến thông qua nhân vật Thúy Kiều.

Tột cùng của nỗi đau không phải là chuyện Kiều bán thân làm lẽ cho Mã Giám Sinh. Mà đó là việc Kiều bị Mã Giám Sinh lừa bán vào lầu Ngưng Bích làm kỹ nữ. Số phận của Kiều đúng kiếp “hồng nhan bạc phận”.

Ở đoạn trích này, Nguyễn Du đã lột tả một cách trần trụi phận đời éo le, tủi nhục của Kiều. Độc giả đã cảm nhận rõ nét nỗi đau đớn của Kiều và không khỏi thương cảm, xót xa. Và chính Kiều là người ý thức rõ nhất cảnh ngộ éo le ấy của mình:

Biết bao bướm lả ong lơi

Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm

Dập dìu lá gió cành chim

Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh

Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã khắc họa khung cảnh chốn lầu xanh trụy lạc bằng những hình ảnh hết sức chân thực. “Bướm lả ong lơi” mở ra khung cảnh vô cùng dung tục. Ở đây, tác giả đã ví người kỹ nữ nư những bông hoa tươi đẹp, còn khách làng chơi tựa như loài ong, loài bướm. Nguyễn Du thật sự tinh tế khi dùng hình ảnh ong bướm để ẩn dụ cho khách hàng chơi.

Trong chốn hồng lâu ấy, chỉ là những hình ảnh ăn chơi trụy lạc thâu đêm suốt sáng, đó là những “cuộc say đầy tháng” cùng nỗi khoái lạc từ những “trận cười suốt đêm”. Có lẽ với khách làng chơi đó những giây phút khoái lạc, nhưng với Thúy Kiều đây lại là sự xót xa, tủi nhục. Dường như giá trị của những kỹ nữ như Thúy Kiều ở chốn lầu xanh chỉ như một món đồ cho kẻ khác mua vui, người đến, kẻ đi “dập diu” cười đùa ngả ngớn.

Những người kỹ nữ chốn lầu xanh ngày đêm tiếp khách chẳng phân biệt ngày đêm, chẳng cần biết khách là ai. Họ vẫn vui vẻ trao đổi với nhau thú vui xác thịt và đồng tiền rẻ mạt. Cuộc sống ấy cứ quẩn quanh, hết ngày này đến tháng khác, đến nỗi người kỹ nữ chẳng còn nhận ra chính bản thân mình nữa. Nguyễn Du đã khéo léo đưa vào đoạn trích hai nhân vật nổi danh trong lịch sử là Tống Ngọc – nổi danh với Phú Cao Đường kể về chuyện mây mưa của thần nữ Vu Sơn với tiên vương Sở quốc. Trường Khanh – người đã gảy khúc Phượng Cầu Hoàng để quyến rũ Trách Văn Quân, là một người phong lưu, giỏi chuyện trăng gió.

Bằng những hình ảnh ẩn dụ tinh tế, cùng những điển tích cổ, Nguyễn Du đã tái hiện rõ nét khung cảnh chốn lầu xanh nhuộm màu nhơ nhớp, chốn vui thú loạn lạc, hoang đường của những con người nơi đây. Ở đó, số phận người phụ nữ trở nên thấp kém, chỉ là những món đồ phục vụ cho sở thích dung tục, tầm thường. Cuộc đời của người kỹ nữ vì thế mà luôn chìm vào tăm tối và đầy xót xa, tủi nhục.

Khắc họa số phận của kỹ nữ chốn lầu xanh cũng là để khắc họa nỗi tủi phận của Thúy Kiều. Cuộc đời Kiều đúng “chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” nên dù chống cự, vùng vẫy thế nào, cuối cùng nàng cũng phải chấp nhận số phận. Để rồi sau mỗi cuộc vui thú xác thịt, Kiều tự nhìn lại tấm thân tàn tạ của mình nàng cảm thấy xót xa cho chính bản thân.

Khi tỉnh rượu lúc tàn canh

Giật mình mình lại thương mình

Chỉ hai câu thơ thôi nhưng sao ta thấy đau đớn, xót xa đến vậy. Để quên đi nỗi chua xót về số phận mình, nỗi đắng cay, Kiều đã tìm đến hơi men. Thế nhưng, khi tỉnh nỗi đau ấy càng thấm thía và như xát muối vào tim. Say của Thúy Kiều không phải tự chuốc say mình như Hồ Xuân Hương, mà đó là bắt buộc. Thân phận người kỹ nữ bắt buộc phải nâng chén với đủ loại khách làng chơi. Việc ấy cứ liên tục mỗi ngày, khi tỉnh giấc thì tiệc đã tàn, người đã tan. Lúc này, giữa không gian tĩnh lặng ấy, Kiều mới chợt “giật mình” nhìn lại tấm thân tàn mà không khỏi xót xa.

Khi sao phong gấm rủ là

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường

Mặt sao dày gió dạn sương

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân

Kiều ý thức được thân phận bèo bọt của mình nơi chốn lầu xanh. Thế nên, trong một phút chốc nàng đã nhớ về cuộc sống êm đềm trước kia. “Khi sao phong gấm rủ là” đó là cuộc sống trong sự bao bọc của cha mẹ, chẳng cần quan tâm tới chốn phong trần. Vậy mà “giờ sao tan tác như hoa giữa đường”. Lấy sự tươi đẹp của quá khứ để làm nổi bật lên cuộc sống ê chề, xót xa đến tận cùng. Vẫn là “trướng rủ màn che” nhưng giờ lại là cuộc sống buôn phấn bán hương cho người chẳng quen biết. Thế mới thấy được nỗi xót xa của Thúy Kiều.

Nguyễn Du đã khéo léo khắc họa lời tự sự của Thúy Kiều. Cuộc sống giờ đây nàng bị chà đạp không thương tiếc. Khuôn mặt ngại ngùng, e ấp chốn khuê phòng xưa kia giờ đã “dày gió dạn sương”, ngày ngày phải chường ra tiếp rượu cho người ta ngắm nghía, ôm ấp. Càng nghĩ đến bản thân, Thúy Kiều càng chán chường, chỉ còn có thể thốt lên những lời thở than chua xót “thân sao bướm chán ong chường”. Qua đó, ta càng cảm thương số phận của nàng Kiều. Dường như ý thức được tấm thân tàn tạ, rẻ mạt của mình, nên Kiều chẳng còn thiết tha gì:

Mặc người mưa Sở mây Tần

Những mình nào biết có xuân là gì

Đòi phen gió tựa hoa kề

Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu

Giữa chốn phong trần ấy, dù phận liễu yếu đào tơ bị vùi dập, bị coi thường, nhưng Kiều vẫn mạnh mẽ, cố giữ cho mình cốt cách thanh cao. Bốn bề lầu xanh đâu đâu cũng có “mưa Sở mây Tần” nhưng Kiều cũng chẳng để tâm. Dường như những thú vui hoan lạc, tầm thường ấy chẳng làm ảnh hưởng đến tâm hồn vốn đã chết lặng của Kiều. Với người khác, những cuộc vui thâu đêm suốt sáng ấy chính là xuân, còn với Kiều những thứ ấy cũng như gió thoảng mây trôi.

Sống trong sự tủi nhục, đau đớn cả thể xác và tâm hồn, giờ đây Kiều chỉ như một cái xác vật vờ chốn lầu xanh. Tâm trí nàng chẳng màng đến những thú vui tầm thường ấy. Có lẽ chính vì tâm trạng của người, đã khiến tâm trạng của thiên nhiên trở nên u ám.

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ

Đó là những câu thơ đắt giá nhất, diễn tả chính xác hoàn cảnh éo le của Thúy Kiều. Dù xung quanh đều là những cuộc vui tối ngày, nhưng với Kiều nó đều tầm thường hết cả. Có lẽ từ khi bước chân vào chốn này, Kiều đã trở nên không màng nhân tình thế thái. Đối với Thúy Kiều mọi cảnh vật, con người nơi đây đều là giả tạo, nàng không tìm được tri âm, tri kỷ.

Ở đây, Nguyễn Du đã hết sức tinh tế khi dùng những từ ngữ chắt lọc để miêu tả về đám người dung tục, tầm thường nhưng vẫn luôn thể hiện mình là kẻ có văn hóa.

Đòi phen nét vẽ câu thơ

Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa

Câu thơ ấy thể hiện sự mỉa mai đối với những khách làng chơi ở chốn lầu xanh. Kiểu vốn là một người “cầm kỳ thi họa” thế nên khi nhìn thấy sự giả tạo ấy, nàng không ngừng cảm thán. Đó là những điều mà nàng yêu thích trước đây, thế nhưng giờ đây dưới con mắt của những kẻ làng chơi, nàng lại thấy nó thật tẻ nhạt, chán chường. Và giữa chốn phong trần này, chính tài sắc vẹn toàn của Kiều lại là sự trêu ngươi chua xót.

Những điều Kiều làm trong chốn lầu xanh ấy chỉ là gượng gạo. Bởi nàng biết dù có phản kháng thế nào nàng vẫn không thể thoát khỏi nó. Ngay cả khi tìm đến cái chết, nàng cũng đâu thể trốn tránh được số phận đâu.

Vui là vui gượng kẻo là

Ai tri âm đó mặn mà với ai

Ở chốn đó nàng muốn tìm một tri âm, tri kỷ. Ấy thế nhưng những kẻ đến đây đều vì mến mộ, thèm khát nhan sắc, tài năng của Kiều. Chẳng một ai thật tâm, thật tình đến để chia sẻ tâm sự cùng nàng. Thế nên những kẻ ấy chỉ là một phút thoáng qua. Vì thế càng làm cho Kiều cảm thấy mình cô đơn, hiu quạnh và xót xa đến tột cùng.

Phân tích Nỗi thương mình ta càng hiểu rõ hơn nỗi thương cảm xót xa cho kiếp hồng nhan bạc mệnh của Thúy Kiều. Người phụ nữ tài sắc vẹn toàn ấy đã bị cuộc sống chốn phong trần vùi dập không thương tiếc. Đến mức tâm hồn Kiều như chết lặng vì quá đau đớn. Qua đoạn trích ấy, ta cũng thấy rõ tấm lòng nhân đạo mà Nguyễn Du đã trao gửi, cảm thông cho Thúy Kiều. Chính vì thế ông đã đề cao nhân phẩm tốt đẹp của nàng, dù chìm đắm trong chốn dung tục tầm thường, nhưng Kiều vẫn giữ được cốt cách tâm hồn, không bị cuốn theo lối sống trụy lạc ấy.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trong nhóm Lớp 11 thuộc chuyên mục Học tập của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
1 12.606
0 Bình luận
Sắp xếp theo