Top 4 bài cảm nhận cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù

Cảm nhận cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù là một dạng đề thường gặp trong chương trình ngữ văn lớp 11 khi học tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân. Trong bài viết này Hoatieu xin chia sẻ đến các bạn mẫu dàn ý cảm nhận về cảnh cho chữ cùng các bài văn cảm nhận cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù hay chọn lọc sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích cho các bạn học sinh.

1. Dàn ý cảm nhận về cảnh cho chữ

I. Mở bài

Trình bày những nét tiêu biểu nhất về tác giả Nguyễn Tuân: Một nhà văn tài hoa uyên bác
Giới thiệu truyện ngắn Chữ người tử tù và cảnh cho chữ: Chữ người tử tù là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách tài hoa nghệ sĩ của Nguyễn Tuân và cảnh cho chữ là một cảnh tượng “xưa nay chưa từng thấy” trong truyện ngắn này

II. Thân bài

1. Hoàn cảnh diễn ra cảnh cho chữ

Vị trí: Cuối tác phẩm

Hoàn cảnh: Trong đêm cuối cùng trước khi Huấn Cao phải ra pháp trường chịu án chém

2. Nội dung cảnh cho chữ:

- Cảnh cho chữ diễn ra trong:

Thời gian: đêm trước khi Huấn Cao ra pháp trường chịu án chém, khi chỉ còn “vẳng có tiếng mõ trên vọng canh”

Địa điểm: trại giam tỉnh Sơn

Không gian: buồng tối chật hẹp, ẩm ướt…

- Đây là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có” :

Thông thường, việc cho chữ, xin chữ thường được diễn ra ở những nơi thanh cao; ở đây lại diễn ra trong buồng giam tối tăm, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián.
Thân phận và hành động của người cho chữ và nhận chữ đặc biệt:
+ Người cho chữ: Huấn Cao- người tử tù sắp chịu án chém, bị mất tự do lại nổi bật và đẹp đẽ, hiên ngang dậm tô nét chữ vuông tươi tắn ⇒ trở thành người nghệ sĩ.

+ Người nhận chữ: viên quản ngục- một người ngày thường nắm quyền cai quản tù nhân trong tay nay khúm núm, kính cẩn thu những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ

Xây dựng được các cặp phạm trù đối lập nhau: trong cảnh có sự đối lập giữa cảnh vật, đồ vật, màu sắc, âm thanh, mùi vị…một cách gay gắt để làm nổi bật bức tranh bi hùng, đó là sự đối lập giữa: Ánh sáng bóng tối, cái thiện- cái ác, cái đẹp- cái xấu xa, cái cao cả- cái thấp hèn, tự do- ràng buộc, thơm tho( mùi mực)- ẩm mốc( mùi nhà giam phân chuột, phân gián)

⇒ Tất cả những lí do trên đã làm nên “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.

- Huấn Cao khuyên quản ngục thay chốn ở (khuyên về nhà quê) rồi hãy nghĩ tới việc chơi chữ bởi nếu cứ tiếp tục ở chốn “lao xao” thì sẽ ” khó giữ thiên lương cho lành vững” .

⇒ Sâu xa hơn việc cho chữ chính là bài học về lẽ sống rất chân thành.

- Chi tiết quản ngục cúi đầu vái lạy người tử tù Huấn Cao: sự thức tỉnh trước cái đẹp, quản ngục đã thoát ra những cái tầm thường, ràng buộc để vươn tới cái cao đẹp.

3. Nghệ thuật xây dựng cảnh cho chữ

Bút pháp lãng mạn lí tưởng hóa
Nghệ thuật đối lập
Khả năng dựng cảnh và tài năng ngôn ngữ tài tình
Nhịp văn chậm rãi càng làm cho những câu, chữ ấy thấm sâu hơn vào lòng độc giả.

4. Ý nghĩa cảnh cho chữ

Giữa chốn ngục tù tàn bạo, chính người tử tù lại là người làm chủ.Nhưng nhìn sâu xa hơn,trong khoảnh khắc ấy, cả hai dường như rũ bỏ mọi sự ràng buộc lễ giáo để trở thành những tâm hồn tri kỉ, đồng điệu.
Qua cảnh tượng này, chủ đề tác phẩm được thể hiện sâu sắc , đó là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của cái đẹp đối với cái xấu xa, của cái thiện đối với cái ác…
Toàn bộ cảnh cho chữ là bài ca tôn vinh cái đẹp, cái thiện, cái thiên lương của con người trong hoàn cảnh tối tăm ngục tù bậc nhất.
⇒ Đoạn văn thể hiện sâu sắc quan điểm tư tưởng và nghệ thuật của Nguyễn Tuân.

III. Kết luận

Khẳng định lại đây là cảnh tượng tiêu biểu nhất làm nên thành công của tác phẩm

2. Cảm nhận về cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù

Bằng ngôn ngữ cổ kính, mới mẻ, giàu màu sắc tạo hình, qua “Chữ người tử tù”, Nguyễn Tuân đã tạo dựng lên được một hình tượng Huấn Cao mang vẻ đẹp lãng mạn, vừa có nhân cách, khí phách, lại vừa có vẻ đẹp nghệ sĩ tài hoa. Vẻ đẹp ấy dường như được kết tinh ở cảnh Huấn Cao cho viên quản ngục chữ tại nhà lao. Đây là đoạn văn thể hiện chủ đề và giá trị nghệ thuật của tác phẩm.

rong buồng giam chật hẹp, bẩn thỉu, ẩm ướt, đầy phân chuột, phân gián, dưới ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, một người cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang tô đậm những nét chữ trên nền lụa trắng tinh; hẳn đây là những dòng chữ cuối cùng của đời ông. Còn bên cạnh viên quản ngục “khúm núm” và thấy thơ lại “run run bưng chậu mực”. Không gian bên ngoài yên tĩnh, chỉ văng vẳng tiếng mõ trên chòi canh. Bằng một vài chi tiết sống động, gợi cảm và rất tạo hình như thế, Nguyễn Tuân đã khắc hoạ được một bức tranh thật xúc động, vừa trang trọng, vừa thiêng liêng.

Vì sao lại có cảnh độc đáo nói trên? Truyện “Chữ người tử tù” chỉ có hai nhân vật chính: một tên phản nghịch nay bị khép vào tội tử tù; đang chờ ngày ra pháp trường, nhưng rất có tài, đặc biệt là tài viết chữ đẹp. Còn người kia là một viên quản ngục mê chữ đẹp, kính phục tài năng của tên tử tù và hằng khao khát có được chữ của tên tử tù kia. Trên bình diện quan hệ xã hội thì họ là kẻ tử thù của nhau, nhưng trên bình diện chữ tâm và cái đẹp thì họ là tri âm tri kỉ của nhau. Sự gặp gỡ của họ tạo nên một tình huống oái oăm, đầy kịch tính, làm nổi bật tính cách của mỗi người. Là người giàu chữ tâm, có lòng tự trọng, có khí phách, khinh thường hết thảy những kẻ cam tâm làm nô lệ và tiền bạc, quyền lực phi nghĩa. Lúc đầu, Huấn Cao tỏ ra hết sức khinh bạc tên quản ngục. Nhưng khi biết rõ viên quản ngục có sở thích cao quý, yêu cái đẹp, Huấn Cao đã lập tức thay đổi thái độ và đã tặng chữ cho viên quản ngục và “cái đêm hôm ấy” để tỏ thái độ cảm kích, trân trọng của một người nghệ sĩ đối với một tri kỉ.

Đúng là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Điều lạ lùng chưa từng có ở đây trước hết là việc viết chữ và cho chữ vốn là một thú chơi tao nhã có phần thanh tao của những bậc tài hoa nghệ sĩ đáng lẽ phải diễn ra ở nơi cảnh lầu son gác tía gió mát, trăng thanh, lộng ngát hương hoa, nhưng ở đây lại diễn ra trong khung cảnh nhà lao tăm tối, ẩm ướt, bẩn thỉu. Hơn thế, người nghệ sĩ viết chữ đẹp lại là tên tử tù đang bị gông xiềng và chỉ sáng hôm sau là bị giải về kinh chịu tội chặt đầu.

Điều lạ lùng chưa có chính là trong cảnh tù ngục tăm tối đó, không phải là cái ác, cái bạo tàn đang thống trị mà chính là cái đẹp, cái tài hoa đang lên ngôi. Bằng thủ pháp đối lập, tương phản đặc sắc, Nguyễn Tuân đã làm nổi rõ đây là sự chiến thắng của ánh sáng trước bóng tối; của cái thiện trước cái ác; của cái đẹp trước cái xấu xa, nhơ bẩn; của cái cao cả trước cái thấp hèn; của tinh thần bất khuất hiên ngang trước thái độ cam chịu nô lệ. Đó cũng chính là sự chiến thắng của tính cách trước hoàn cảnh. Thật là lạ lùng không bình thường một chút nào. Vì tên tử tù thì nổi bật lên uy nghi, cao lồng lộng, còn viên quản ngục và tên thơ lại, những kẻ đại diện cho xã hội đó thì “khúm núm”, “run run” trước tên tử tù kia.

Với cảnh cho chữ độc đáo này, có thể nói cái nhà tù tàn bạo, đen tối kia đã sụp đổ và cũng không còn kẻ tội phạm, tử tù, cũng không còn quản ngục và thơ lại. Chỉ còn người nghệ sĩ đang sáng tạo cái đẹp trước những đôi mắt ngưỡng mộ và kính phục của những “kẻ liên tài”. Tất cả những người đó đều được tắm đẫm trong ánh sáng đỏ rực của bó đuốc thiêng lương, tài hoa và khí phách.

Cũng với cảnh này, dù nay mai Huấn Cao đầu phải lìa khỏi cổ nhưng những phẩm chất tài hoa, khí phách, nhân cách của ông sẽ đi vào cõi vĩnh hằng. Màu trắng của vuông lụa, cũng như những dòng chữ tươi tắn nói lên hoài bão tung hoành của một đời Huấn Cao; hương thơm ngát của thỏi mực, ánh sáng đỏ rực của bó đuốc cùng với những lời khuyên của Huấn Cao được viên quản ngục gìn giữ, lắng nghe như lời di huấn về đạo lí làm người dường như cùng hoà vào nhau để trở thành bất tử như cái bất tử của vẻ đẹp Huấn Cao. Có thể nói ở cảnh cho chữ này, Nguyễn Tuân đã dựng lên được một bức tượng đài trang nghiêm để bất tử hoá con người rất mực tài hoa và tràn đầy khí phách anh hùng này.

Không chỉ cho chữ, Huấn Cao còn khuyên bảo quản ngục: “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chỗ ở đi… rồi mới nghĩ đến chuyện chơi chữ… nhem nhuốc cái đời lương thiện đi”. Như vậy, Huấn Cao không chấp nhận cái tài, cái đẹp lại có thể chung sống lẫn lộn với cái ác, cái xấu. Ông cũng không chấp nhận một người vừa yêu cái đẹp, lại vừa làm điều ác. Và muốn chăm lo cho cái đẹp nảy nở phải trở về với cái thiện.

Trước vẻ hào quang uy nghi, lộng lẫy của Huấn Cao, viên quản ngục đã biểu lộ một cử chỉ thật cảm động. Đó là sau khi lắng nghe lời khuyên của Huấn Cao: “Hãy bỏ cái nghề nhơ bẩn này đi về quê mà ở giữ cho thiên lương lành vững”, ngục quan “vái tên tù một vái” và nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Có những cái cúi đầu làm cho con người trở nên nhỏ nhen, hèn hạ. Nhưng cũng có cái đầu làm cho con người trở nên cao cả, sang trọng hơn. Đó là sự cúi đầu trước cái đẹp, cái khí phách. Trước đây, Cao Bá Quát đã có một câu thơ rất hay: “Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”- “Một đời ta chỉ biết cúi đầu trước hoa mai, một biểu tượng của cái đẹp”.

Tóm lại, đây là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Đoạn văn xứng đáng là một bức họa phẩm được viết với bút pháp lãng mạn, có ngôn ngữ giàu màu sắc tạo hình với không khí trang nghiêm có phần bi tráng, sử dụng thủ pháp tương phản đầy ấn tượng. Nó biểu lộ được cái “tài” và cái “tâm” của một nhà văn lớn Nguyễn Tuân.

3. Cảm nhận về cảnh cho chữ - mẫu 1

Làm nên giá trị cho tác phẩm, kết tinh giá trị tư tưởng của văn bản trong Chữ người tử tù không gì khác chính là cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục. Đây là cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Nó là kết tinh nghệ thuật, hoàn thiện vẻ đẹp phẩm chất nhân vật và là kết tinh những giá trị tư tưởng sâu sắc của Nguyễn Tuân.

Huấn Cao vốn là một người Nho sĩ, vì bất mãn với thực tại xã hội đương thời, đã đứng lên khởi nghĩa, nhưng cuối cùng thất bại ông bị bắt giam và chờ ngày hành quyết. Ông là một người tài hoa, có tài viết chữ đẹp mà ai cũng ao ước gặp gỡ. Ông gặp quản ngục tại nơi mà ông bị giam giữ. Không gian gặp gỡ của họ là chốn tù lao, nơi chỉ có lừa lọc và chém giết lẫn nhau. Đây đồng thời cũng là ngày sống cuối cùng của người tử tù Huấn Cao. Vị thế của các nhân vật có sự thay đổi khác nhau, trên bình diện xã hội: Huấn Cao là kẻ tử tù, mang trong mình mong muốn lật đổ và thay đổi trật tự xã hội, còn quản ngục là người đứng đầu trại giam tỉnh Sơn, là người đại diện cho trật tự xã hội đương thời. Trên bình diện xã hội, họ là những người đối nghịch với nhau. Còn trên bình diện nghệ thuật: Huấn Cao là một người nghệ sĩ với tài năng viết chữ đẹp, được biết bao người coi trọng, mến mộ; còn viên quản ngục là kẻ liên tài, là người trân trọng cái đẹp và cái tài sáng tạo ra cái đẹp. Ở đây họ lại là những người bạn tri âm, tri kỉ. Còn trên bình diện nhân cách: Huấn Cao là người có khí phách kiên cường, có thiên lương trong sáng, trân trọng những tấm lòng trong thiên hạ; quản ngục là người biết biết kính mến khí phách và chính là tấm lòng trong thiên hệ. Trong quan hệ này họ cũng là những người tri âm. Như vậy mối quan hệ giữa họ vô cùng phức tạp, với những vị thế khác nhau khiến cho mối quan hệ trở nên chồng chéo.

Trong những ngày ở nhà lao tỉnh Sơn, viên quản ngục có thái độ biệt đãi đặc biệt với ông Huấn Cao: cặp mắt hiền từ khi nhận tù nhân, đồ ăn thức uống trong những ngày ông Huấn trong ngục, không chỉ vậy quản ngục còn đích thân xuống nhà lao gặp Huấn Cao với sự lễ độ, khúm núm, dù bị Huấn Cao đuổi ra ngoài vẫn khiêm nhường, lặng lẽ mà không hề nổi cáu. Bởi quản ngục mong muốn có được nét chữ ông Huấn để treo trong nhà. Ngày nhận tin Huấn Cao sẽ bị giải đi, quản ngục lặng người đi bởi ông biết có thể cả đời sẽ không bao giờ có được chữ ông Huấn Cao. Và chính trong hoàn cảnh đó, thầy thơ lại đã đánh liều xin với Huấn Cao, và được Huấn Cao nhận lời cho chữ. Đây chính là bối cảnh dẫn đến cảnh cho chữ xưa nay chưa từng có.

Không gian cho chữ vô cùng đặc biệt, người ta chỉ xin chữ và cho chữ ở những nơi sạch sẽ, yên tĩnh, trang trọng còn trong tác phẩm cảnh cho chữ lại diễn ra ở nhà tù tối tăm, bẩn thỉu, đó là nơi chỉ tồn tại cái xấu, cái ác, lừa lọc và giả dối với nhau. Thời gian cho chữ cũng là một điểm đặc biệt khac: Huấn Cao cho chữ khi mà chỉ đến sáng mai sẽ phải đi chịu án tử hình. Ông đã dành những giây phút cuối cùng của cuộc đời để vừa hoàn thành nguyện ước cho quản ngục, vừa để lại những gì tinh túy, đẹp đẽ nhất cho cuộc đời. Trong không gian tăm tối ấy ánh lên là tấm vải lụa trắng bạch trắng tinh còn nguyên vẹn lần hồ, người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đậm tô nét chữ. Mỗi chữ quản ngục viết ra “viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng”còn thầy thơ lại thì “run run bưng chậu mực”. Trước cái đẹp, con người ta dường như không quan tâm tới bất cứ chuyển động nào từ thế giới bên ngoài, họ chỉ nhìn thấy Huấn Cao và những nét chữ ông đậm tô, thành kính và thiêng liêng trước khoảnh khắc cái đẹp được tạo tác. Ông Huấn Cao viết xong phần lạc khoản, lặng lẽ thở dài và đỡ viên quản ngục dậy. Ông thương cho quản ngục phải ở nơi đen tối, làm nghề này thì khó có thể giữ được thiên lương cho lành vững, rồi cũng đến lem luốc cả đời lương thiện đi. Chính cái đẹp đó đã có sức mạnh cải hóa con người. Giữa người cho chữ và nhận chữ có sự chuyển đổi vị thế cho nhau, cho thấy sự cảm hóa của cái đẹp. Người cho chữ là người nghệ sĩ sáng tạo ra cái đẹp lại ở vị thế của tử tù; vốn là đối tượng cần được giáo dục, cảm hóa lại ban phát những lời khuyên chí tình cho quản ngục. Người xin chữ ở vị thế quản ngục, cai quản tử tù, tiếp nhận, bái lĩnh những lời khuyên của tử tù. Qua đó Nguyễn Tuân muốn truyền tải thông điệp: niềm tin vào sự chiến thắng tất yếu của cái đẹp, của cái thiện.

Cảnh cho chữ đã được Nguyễn Tuân vận dụng thủ pháp đối lập tương phản triệt để, đem lại hiệu quả nghệ thuật cao. Không khí cổ xưa của một thời đã cách xa hàng trăm năm đã được Nguyễn Tuân gợi lại qua ngôn ngữ và cử chỉ của nhân vật. Cảnh cho chữ là một bức tranh giàu chất hội họa, đồng thời ông vận dụng linh hoạt kĩ thuật điện ảnh, liên tục chuyển góc, chuyển cảnh, quay cận rồi quay xa giúp người đọc có cái nhìn trọn vẹn về nhân vật.

Cảnh cho chữ là một cảnh đặc sắc, “xưa nay chưa từng có”, kết tinh giá trị nghệ thuật và tư tưởng của Nguyễn Tuân, làm nổi bật và hoàn chỉnh vẻ đẹp nhân cách của mỗi nhân vật. Với cảnh cho chữ, Nguyễn Tuân đã khẳng định, giữa chốn nhà lao tù ngục, không phải những kẻ đại diện cho quyền lực thống trị mọi thứ mà chính người tử tù với tài năng và cốt cách làm chủ. Qua đó, ông cũng ngầm khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp, cái tài hoa và nhân cách cao đẹp với cái xấu xa, độc ác, tàn nhẫn.

4. Cảm nhận về cảnh cho chữ - Mẫu 2

Trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, cảnh cho chữ thực sự gây ấn tượng rất mạnh cho người đọc. Có thể nói, tác giả đã dồn bút lực tạo nên một kiểu kết truyện đặc sắc, để lại rất nhiều dư âm. Chỉ với cảnh này, các nhân vật mới thực sự bộc lộ tất cả những gì vốn có của mình. Một Huấn Cao trước đây chỉ được biết đến qua lời truyền tụng viết chữ rất nhanh và rất đẹp, thì giờ đây bàn tay tài hoa ấy sẽ vung bút viết nên những nét chữ vuông vắn, tươi tắn trên tấm lụa trắng còn nguyên vẹn lần hồ trước con mắt cảm phục của những người được vinh hạnh chứng kiến. Một thầy thơ lại trước đây ta ngờ rằng “hẳn không phải là kẻ xấu hay là vô tình", thì lúc này “run run bưng chậu mực” với thái độ khiêm nhường, cung kính, như tự chứng thực phẩm cách trong sạch của mình. Một quản ngục vốn có thiên lương và tấm lòng biệt nhỡn liên tài, trong tình huống này đã không ngần ngại cúi đầu trước khí phách, tài hoa. Rõ ràng, trong cảnh cho chữ, tất cả đều được đẩy đến đỉnh điểm, tột cùng, là sự thăng hoa của mọi vẻ đẹp. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đã xem đây là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.

Muốn lí giải sâu hơn ý nghĩa nghệ thuật của đoạn kết đặc sắc này, trước hết cần hiểu rằng: việc cho chữ được nhà văn miêu tả ở đây là sáng tạo ra một bức tranh chữ (sản phẩm của nghệ thuật thư pháp), cũng có nghĩa là một cái đẹp cao quý được khai sinh. Thử hỏi trên đời này đã có tác phẩm nghệ thuật nào được sáng tạo trong những điều kiện lạ lùng như bức thư pháp được viết đêm nay trong nhà ngục tỉnh Sơn? Hãy xem: không gian dành cho người nghệ sĩ chẳng phải là một thư phòng ấm áp, sang trọng như xưa nay vẫn thấy, mà là một buồng giam chật chội, ẩm thấp, hôi hám; tường đầy mạng nhện, nền nhà đầy phân chuột, phân gián. Thời gian là vào ban đêm, nhưng lại là đêm cuối cùng của một tử tù. Ánh sáng soi tỏ căn buồng là một bó đuốc tẩm dầu đỏ rực, khói tỏa nghi ngút như một đám cháy nhà gọi cảm giác thật dữ dội. Người nghệ sĩ nhân tố trung tâm quyết định sự ra đời của tác phẩm là một người tử tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng", chỉ vài giờ sau sẽ bị giải đến pháp trường. Nội chừng ấy yếu tố cũng đủ thấy cảnh cho chữ là một cảnh thật hiếm có, lạ lùng.

Trong đoạn kết của tác phẩm, người đọc còn được chứng kiến sự thay đổi vị thế kì lạ và ngoạn mục, đảo lộn cả trật tự vốn có của chốn lao tù. Người coi ngục, đại diện của quyền lực nhà nước, thì trở nên nhỏ bé, lặng lẽ phục dịch bên cạnh người tử tù và chắp tay cúi đầu vái nhận lời khuyên bảo của tử tù. Còn người tử tù, kẻ bị tước hết mọi quyền (kể cả quyền sống) thì lại trở nên cao lớn lồng lộng, với quyền uy tối thượng của người nghệ sĩ trong giây phút xuất thần sáng tạo.

Tuy nhiên, trong khung cảnh trang nghiêm, xúc động này, khoảng cách ấy không phải là bất biến. Khi bức chữ đã được viết xong, khi mùi mực thơm tho tinh khiết toả ngát cả căn buồng, thanh tẩy những gì ô uế, thì trước mắt ta không còn kẻ cao người thấp, kẻ sang người hèn. Ba con người, ba mái đầu chụm vào nhau cung kính lặng lẽ ngắm nhìn bức chữ, rưng rưng xúc động trước cái đẹp vừa được sinh thành. Phút tương ngộ diệu kỳ của những tấm lòng trong thiên hạ, sự giao hoà, toả sáng của tài năng, khí phách và thiên lương, sự thăng hoa của cái đẹp… đó mới thực là điều chưa thấy bao giờ.

Chiêm ngưỡng cảnh cho chữ đầy ngoạn mục, người đọc còn bị cuốn hút bởi nghệ thuật độc đáo, già dặn của Nguyễn Tuân. Nhà văn có biệt tài trong việc dựng không khí, tạo tình huống, khắc hoạ nhân vật. Chỉ vài nét chấm phá, lập tức một cảnh tượng sáng tạo nghệ thuật thư pháp, đặc trưng của nền văn hoá chữ Hán, hiện ra trước mắt ta thật rõ nét. Đúng như có người đã nhận xét: cảnh cho chữ mang đậm chất điện ảnh bởi Nguyễn Tuân đã biết phát huy tối đa hiệu quả của phép tương phản. Đó là sự tương phản giữa bóng tối và ánh sáng; giữa cái đẹp cao cả của nghệ thuật và chốn lao tù ô uế, phàm tục; giữa người tù thân thể bị gông xiềng mà nhân cách và tinh thần tự do với viên quản ngục có quyền hành mà chẳng khác nào chịu án chung thân về mặt tinh thần; giữa con người thiên lương và con người công cụ. Xét trên mọi phương diện, cảnh cho chữ là biểu hiện sâu sắc nhất của cảm hứng lãng mạn của Nguyễn Tuân trong Chữ người tử tù.

Nguyễn Tuân với tài năng nghệ thuật tương phản với bút pháp tả thực và lãng mạn đan xen, sự sắc sảo điêu luyện của ngòi bút đã khắc họa con người và cảnh vật chi tiết, tỉ mỉ gây ấn tượng sâu sắc. Giọng văn chậm rãi, từng câu từng chữ như thước phim quay chậm cảnh cho chữ “xưa nay chưa từng có” làm nổi bật lên nhân cách của con người hiện thân cho cái đẹp.

5. Cảm nhận về cảnh cho chữ trong tác phẩm Chữ người tử tù

Có thể nói chủ đề của truyện ngắn Chữ người tử tù và vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao đã được bộc lộ sáng ngời trong cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục. Đây không đơn thuần là cảnh cho chữ, mà “đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của cái đẹp, cái cao thượng đối với sự phàm tục, sự nhơ bẩn của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ.

Trước hết đó là sự chiến thắng của ánh sáng đôi với bóng tối. Chính Nguyễn Tuân đã viết trong truyện, cảnh cho chữ là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Vì sao vậy? bình thường sẽ không có cảnh cho chữ đẹp đẽ và trang nghiêm trong chốn tù ngục tăm tối và nhơ bẩn này. Nhưng ở đây lại có, vì ở đây có chiến thắng của “thiên lương” con người. Và nhà văn, với nghệ thuật đặc tả tài tình, với thủ pháp tương phản sắc sảo, đã dựng lên những cảnh tượng đối lập để nêu bật ý nghĩa sâu xa và thâm thúy của sự chiến thắng đó. Cảnh cho chữ đã xảy ra vào lúc đêm khuya trông nhà ngục. Nhà ngục vốn đã tối tăm, lại vào lúc đêm khuya khoắt, càng dày đặc bóng tối. Nhưng “trong một không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn nền hồ” và “lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo". Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đã miêu tả đến hai lần cái sáng đỏ rực”, cái "lửa đóm cháy rừng rực" đã xua lan và đẩy lùi cái bóng tối dày đặc trong phòng giam. Nhấn mạnh đến cái ánh sáng của bó đuốc tẩm dầu ấy, rõ ràng đó là dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Ở đây, không chỉ là sự đối lập của ánh sáng và bóng tối theo ý nghĩa sắc màu vật lý, mà sâu xa hơn và khái quát hơn, đây là sự đối lập mang ý nghĩa nhân sinh của con người: ánh sáng của lương tri, thiên lương và bóng tối của tàn bạo, độc ác. Ánh sáng của thiên lương đã xua tan và đẩy lùi bóng tối của tàn bạo chính tại nơi tù ngục này. Ánh sáng ấy đã khai tâm, đã cảm hóa con người lầm đường trở về với cuộc sống thiện.

Không chỉ có chiến thắng của ánh sáng và bóng tối. Cảnh “xưa nay hiếm đó” còn là sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng đối với sự phàm tục, sự nhơ bẩn. Cái phàm tục, sự nhơ bẩn ở đây được biểu thị rất rõ trong cảnh “một buồng chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Còn cái đẹp, cái cao thượng lại được nói đến sâu sắc trong hai chi tiết mang ý nghĩa tượng trưng: màu trắng tinh của phiến lụa óng và mùi thơm từ chậu mực bốc lên đều dường như không thể có trong chốn tù ngục. Màu trắng của phiến lụa tượng trưng cho sự tinh khiết, còn mùi thơm của thoi mực là hương thơm của tình người, tình đời. Sự đối lập nói trên đã nêu bật, sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng đối với sự phàm tục, sự nhơ bẩn. Tâm hồn Huấn Cao bát ngát đến chừng nào khi ông nói về mùi thơm của mực: “Thỏi mực, thầy mua ở đâu tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không”… Thế là không có nhà ngục nào tồn tại nữa, chẳng còn bóng tối, cũng chẳng còn mạng nhện, phân chuột phân gián nữa. Chỉ còn lại sự thơm tho của mực, sự tinh khiết của lụa nó là sự thơm tho và tinh khiết của thiên lương con người.

Và trên hết đó là sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Đây là sự phối hợp giữa những con người trong cảnh cho chữ, đặc biệt ở đây, ta thấy có sự thay bậc đổi ngôi. Người tù lại như người làm chủ (đường hoàng, hiên ngang, ung dung, thanh thản), còn bọn quản ngục lại khúm núm sợ hãi và xúc động trước những lời khuyên dạy của tù nhân (viên quản ngục "khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ”. Thầy thơ lại “run run bưng chậu mực”). Sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ đã được khắc họa đậm nét trong cảnh cho chữ và những người trong cảnh ấy. Không còn là cảnh cho chữ bình thường mà là một cảnh thọ giáo thiêng liêng giữa người cho chữ và người nhận chữ. Lời khuyên dạy đĩnh đạc của Huấn Cao có khác gì một chúc thư về lẽ sống trước khi ông đi vào cõi bất tử. Và lời khuyên đầy tình người ấy có sức mạnh cảm hóa một tâm hồn bấy lâu nay vẫn cam chịu nô lệ, một con người lầm đường trở về với cuộc sống lương thiện. Câu nói nghẹn ngào trong nước mắt của viên quản ngục đã nêu bật sự chiến thắng của cái đẹp, cái thiện, của thiên lương con người: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh".

Tóm lại những chiến thắng trong cảnh cho chữ đã giúp ta hiểu hơn khát vọng mà nhà văn Nguyễn Tuân gửi gắm. Biết bao người đã tìm thấy sự đồng cảm ở đó. Cảnh cho chữ cũng làm nổi bật ý nghĩa nhân văn và giá trị nhân đạo của những chiến thắng tuyệt vời đó.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Văn học - Tài liệu của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
2 4.853
Bạn có thể tải về tập tin thích hợp cho bạn tại các liên kết dưới đây.
0 Bình luận
Sắp xếp theo