Liên hệ mở rộng Người lái đò sông Đà - Người lái đò sông Đà liên hệ với bài nào?

Người lái đò sông Đà là một trong những kiệt tác văn học của tác giả Nguyễn Tuân. Đây cũng là tác phẩm thường xuyên xuất hiện trong các đề thi quan trọng như thi tốt nghiệp THPT quốc gia. Trong bài viết này Hoatieu.vn xin chia sẻ đến bạn đọc một số mẫu liên hệ mở rộng Người lái đò sông Đà, nhận định hay về Nguyễn Tuân và người lái đò sông Đà để các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo giúp đạt điểm cao hơn khi làm bài thi.

Liên hệ Người lái đò sông Đà với tác phẩm nào?

Tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân được tác giả sáng tác trong chuyến thực tế vùng Tây Bắc hoang sơ, rộng lớn. Tác phẩm không chỉ thể hiện thú vui xê dịch của tác giả, mà còn tạo cho người đọc niềm hứng khởi khi gián tiếp được hòa nhập vào cuộc sống con người vùng Tây Bắc. Đồng thời, qua câu bút tài tình của Nguyễn Tuân, còn giúp người đọc hình dung ra hình ảnh dòng sông Đà vừa hung bạo vừa thơ mộng. Trong bài phân tích hình tượng người lái đò sông Đà, hay vẻ đẹp nên thơ, hung bạo của dòng sông Đà, học sinh có thể liên hệ, sử dụng những hình ảnh liên quan từ các tác phẩm khác. Ví dụ như:

Hình tượng con sông Đà: Hung bạo và trữ tình Liên hệ vẻ đẹp dòng sông trong Tràng giang của Huy Cận, Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, con sông Hương trong Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Phân tích hình ảnh Người lái đò sông Đà: Liên hệ Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù.

Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân, liên hệ Chữ người tử tù

Dẫn chứng liên hệ người lái đò sông Đà

1. (về vách đá hai bên bờ sông) Nét khắc họa này khiến ta nhớ đến sông Hương trong trang viết của HPNT: "Nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách".

2. (về cảm giác khi đi qua lòng sông)

Cách miêu tả đó có lẽ chưa có nhà văn nào ngoài Nguyễn Tuân. Mà nói như nhà giáo Đỗ Kim Hồi, thì cách miêu tả tinh tế, chính xác như vậy không thể có ở "một sức bút bình thường", phải đi nhiều lần, đọc nhiều tài liệu, phải có tài năng và sống hết mình với con sông thì NT mới miêu tả được như thế.

3. (về tiếng "thở" của lòng sông)

Đến đây, ta dường như nghe trong cái âm vang của Đà giang dưới ngòi bút Nguyễn Tuân một chút hội ngộ với Homero trong cuốn sử thi Ô đi xê bất hủ, khi viết về cái hung bạo của chốn eo biển xa xôi nào đó thời cổ đại: "Biển khơi chuyển động, sôi lên như nước trong cái chảo đặt trên một bếp lửa hồng".

4. (về sứ c mạnh của hút nước, thác nước)

Gs Nguyễn Đăng Mạnh đã từng nhận định: "NT là nhà văn của những cảm giác mạnh"

5. Cảnh tượng hùng vĩ trên sông Đà là tiêu biểu cho vẻ đẹp của núi rừng Tây Bắc:

"Đường lên Mường Lễ bao xa

Trăm bảy mươi thác trăm ba mươi ghềnh"

Liên hệ vẻ đẹp người lái đò:

1. (cảnh vượt thác) :

Qua đó, ta thấy được vẻ đẹp trí dũng song toàn của người lái đò thăng hoa trên mặt trận vượt thác, mà thấp thoáng trong sự chủ động, hiên ngang ấy, ta dường như thấy được vẻ đẹp hào hùng của vị Phù Đổng Thiên Vương cưỡi ngựa thần nhổ tre đánh giặc.

2. Người lái đò là tiêu biểu cho hình ảnh người lao động Tây Bắc và người lao động trên khắp đất nước trong thời kì đổi mới:

Qua hình tượng nhân vật trong tác phẩm có thể hình dung trên các miền đất thiên nhiên hung dữ có hàng nghìn hàng vạn những con người quả cảm và nghệ sỹ như người lái đò dòng sông cuối trời Tây Băc, họ vẫn luôn hiện diện thầm lặng và chiến đấu trên khắp mọi vùng đất tổ quốc Việt Nam. Đó cũng là những con người đối mặt với thiên nhiên hung dữ, tận dụng sức mạnh thiên nhiên làm lên cuộc sống và tham gia chiến đấu chống kẻ thù ở miền Nam, như Dì Tư béo, Ông lão bán rắn, Phường săn cá sấu trong "Đất rừng phương Nam" của Đoàn Giỏi hay Chín Kiên, ông Sáu già trong "Rừng U Minh" của Nguyễn Văn Bổng.

Nhận định liên hệ mở rộng cho "Người lái đò sông Đà" - Nguyễn Tuân

Để có bài phân tích "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân hay, sâu sắc, thể hiện rõ sự thông hiểu của người làm bài, học sinh cần có những dân chứng, nhận định liên hệ mở rộng chính xác, chặt chẽ. Đó có thể là sự liên hệ với hình tượng con người, đất nước, dòng sông trong các bài thơ, văn, tùy bút của tác giả khác, cũng có thể là đánh giá, nhận xét của các nhà văn, nhà phê bình văn học nổi tiếng về tùy bút "Người lái đò sông Đà" và về chính tác giả Nguyễn Tuân. Dưới đây là một số câu nhận định liên hệ mở rộng cho "Người lái đò sông Đà" hay và ấn tượng nhất:

1. Phan Huy Đông

Đọc Người lái đò sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng, của một đấng hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ... Khi gân guốc, khi mềm mại, khi nghiêm nghị như một nhà bác học, khi hồn nhiên một đứa trẻ thơ, những trang viết, những câu văn của Nguyễn Tuân mang hơi thở ấm nóng của cuộc đời phức tạp, phong phú, đa dạng. Sự tự ý thức sâu sắc về tài năng của mình không phải là một biểu hiện tiêu cực, trái lại, nó tạo nên sự giải phóng năng lượng rất cần thiết để nhà văn có thể sáng tạo nên những tác phẩm kì vĩ.”

2. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh

" ... Nguyễn Tuân - một cây bút vốn | luôn khao khát những cảm giác mới lạ,nồng nàn, say đắm..." Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con | sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác, mà là một sinh thể có hoạt động, tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn hoi và khá phức tạp. Nó có hai nét tính cách có bản đối lập nhau như tác giả nói - "hung bạo và trữ tình..."

"Khi thì trang nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bông phòng, khi thì thánh thót trầm bổng, khi thì xô bồ bừa bãi như là ném ra trong một cơn say chếnh choáng, khinh bạc đấy, nhưng bao giờ cũng rất đỗi tài hoa."

3. Đây là tác phẩm tiêu biểu cho giai đoạn sáng tác sau Cách mạng tháng Tám của Nguyễn Tuân. “Nó nói rằng ngòi bút ấy đã đạt tới độ chín mới về tư tưởng và nghệ thuật”. (Nguyễn Đăng Mạnh)

4. "...Đọc “Sông Đà” thấy Tổ quốc ta thật là giàu đẹp. Chỉ nói riêng Than Uyên có nào mỏ xi măng thiên tạo, mỏ thạch anh làm thuỷ tinh ngũ sắc và đồ sứ, mỏi than mở, mỏ lần tinh, mỏ đồng, mỏ chì...Cảnh Tây Bắc thì tuyệt đẹp, ở đâu tác giả cũng nổi hứng nghệ sĩ muốn cắm ngay giá vẽ mà vẽ. Núi lớp lớp mênh mông như biển, sông trắng xóa như từng súc lụa tung trai ra, những thung lũng lúa chín vàng chóe lên, trên đó mây trắng điểm lơ lửng như thêu nổi vv… nhiên mà còn đi tìm vẻ đẹp Nhưng “Sông Đà” không chỉ nói vẻ đẹp thiên của lòng người. Ông gọi đó là chất vàng mười của tâm hồn con người Tây Bắc. Ông ngược dòng lịch sử tìm chất vàng đó ở những chiến sĩ cách mạng kiên cường đã theo gương bất khuất ở nh Sơn La, ở những cán bộ hoạt động bí mật hồi Tây Bắc bị giặc chiếm đã vượt qua những thử thách khủng khiếp để gây cơ sở cách mạng ở những chiến sĩ quân đội, những anh chị em dân công hồn tiến quân vào Điện Biên...”
(Nguyễn Đăng Mạnh “Sông Đà” Trích “Nhà văn Tư tưởng và phong cách NXB Văn học – 1983)

5. Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không phải thử văn đề người nông nổi thưởng thức. (Vũ Ngọc Phan)

6. Đây là một nhà văn "suốt đời đi tìm cái Đẹp, cái Thật” (Nguyễn Đình Thi), tự nhận mình là người "sinh ra để thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết hoa".

7. "Khi thì trang nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bông phòng, khi thì thánh thót trầm bổng, khi thì xô bồ bừa bãi như là ném ra trong một cơn say chếnh choảng, khinh bạc đây, nhưng bao giờ cũng rất đỗi tài hoa" (Nguyễn Đăng Mạnh)

8. Tác phẩm gần đạt đến độ "toàn thiện toàn mỹ” ấy (Vũ Ngọc Phan) góp phần đưa nghệ thuật văn xuôi Việt Nam phát triển thêm một bước mới trên con đường hiện đại hóa. "Vang bóng một thời" vẽ lại những cái "đẹp xưa" của thời phong kiến suy tàn, thời có những ông Nghè, ông Cổng, ông Tủ thích chơi lan chơi cúc, thích đánh bạc bằng thơ hoặc nhấm nháp chén trà trong sương sớm với tất cả nghỉ lễ thành kính đến thiêng liêng. [...] "Vang bóng một thời", vì thể, có thể được xem như một bảo tàng lưu giữ các giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc.

9. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh có nhận định : "Hạt nhân của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể gói gọn trong một chữ ngông. Cái ngông vừa có màu sắc cổ điển, kế thừa truyền thống tài hoa bất đắc chỉ của những Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Đà,... và trực tiếp hơn là cụ Tú Lan, thân sinh nhà văn, vừa mang dáng vẻ hiện đại, ảnh hưởng từ các hệ thống triết lý nổi loạn của xã hội tư sản phương Tây như triết lý siêu nhân, quan niệm về con người cao đẳng, thuyết hiện sinh

10. Ông xứng đáng được mệnh danh là "chuyện viên cao cấp tiếng Việt" là "người thợ kim hoàn của chữ" (Ý của Tố Hữu), Tinh thần tự nguyện dẫn thân, bám trụ ở thành trì cái Đẹp là biểu hiện sinh động của một nhân cách văn hóa lớn. Nhà văn Nguyễn Tuân "đặc Việt Nam" (chữ dùng của Vũ Ngọc Phan) từ quan niệm cho tới thực tế sáng tác.

Bài văn liên hệ mở rộng Người lái đò sông Đà

Liên hệ mở rộng Người lái đò sông Đà - Mẫu 1

Hình ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình không phải lần đầu tiên xuất hiện trong thơ ca. Nhưng qua cái nhìn tài hoa của nhà văn Nguyễn Tuân con sông Đà trong Tùy bút người lái đò sông Đà lại có vẻ đẹp độc đáo, có một không hai trong lịch sử văn học. Nhờ tài năng của mình Nguyễn Tuân đã mang đến một thi phẩm đặc sắc, đóng đinh trong sự nghiệp văn học của ông.

Con sông Đà được khai thác trên hai phương diện hung bạo và trữ tình. Đằng sau sự hùng vĩ của con sông Đà là những câu văn ấn tượng về sự hung bạo của nó trên ghềnh Hát Loong “Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…” Việc lựa chọn những từ ngữ giàu hình ảnh, cô đọng, chính xác, thanh điệu, từ ngữ trùng điệp đã miêu tả chính xác sự hung dữ, hiểm ác của con sông Đà. Đó là một con sông độc đáo với vẻ đẹp có một không hai “mọi con sông đều chảy về hướng đông chỉ có sông Đà là chảy về hướng bắc”, hình ảnh gió, đá, nước, sóng của con sông Đà tạo cảm giác rùng rợn, hãi hùng, gây ấn tượng mạnh với thị giác của con người.

“Sóng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt” động từ gùn ghè kết hợp với hình ảnh so sánh táo bạo đã nhân hoá con sông Đà giống như một con người thực tế hung bạo, ngang ngược. Những câu văn tả cảnh sông Đà của Nguyễn Tuân làm người đọc chợt liên tưởng đến hình ảnh con sông Hương trong “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường “bản hùng ca rừng rú, rạo rực dưới bóng đại ngàn cây lao qua thác nước, những dòng xoáy huyền bí, gợi lên trong trí tưởng tượng của người đọc về hai dòng sông mạnh mẽ, dữ dội của đất nước”.

Bên cạnh vẻ đẹp của sự hung bạo, con sông Đà còn có một nét tính cách nữa trái ngược với sự hung bạo ấy chính là trữ tình. Tưởng rằng hai tính cách này trái ngược nhau nhưng thực sự lại bổ sung cho nhau, làm nên vẻ đẹp đa chiều của con sông Đà. Nét trữ tình của sông Đà được thể hiện qua những quãng sông êm ả, khi đá, sóng, ghềnh đã được chinh phục. “Thuyền tôi trôi trên sông Đà… con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai” Lúc này sông Đà mang vẻ đẹp dịu dàng, hiền hậu giống như một thiếu nữ vùng cao e ấp trước ánh mắt của kẻ si tình. Lại có lúc sông Đà được nhà văn cảm nhận giống như được gặp lại cố nhân. Vẻ đẹp mềm mại của con sông Đà có điểm tương đồng với con sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường “Người ta nhìn bao giờ cũng thấy sông như mềm mại tấm lụa, với những con thuyền ngược xuôi, nhỏ như con thoi”, “ở đây như tìm được đúng đường về, sông càng vui giữa biển khơi”. Rồi lại có nét trầm buồn như con sông trong bài “Tràng Giang” của Huy Cận:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng

Chất trữ tình đã thấm sâu vào trong từng con chữ khiến hình ảnh của những con sông hiện lên đầy tâm sự, giống như một con người. Những câu văn hay câu thơ bay bổng thể hiện sự thăng hoa của tâm hồn con người, người viết như đưa chất thơ lãng mạn vào sông nước khiến con sông mang vẻ đẹp tuyệt mỹ lạ thường.

Một hình ảnh chiếm vị trí quan trọng trong tuỳ bút này không thể không nhắc đến người lái đò sông Đà. Đó là một người đàn ông đã lớn tuổi nhưng sự khỏe mạnh, vạm vỡ và rắn chắc của cơ bắp chẳng kém những thanh niên tuổi đôi mươi. Quá nửa đời người gắn bó với con sông Đà này người lái đò đã thuộc lòng những trận đá, những con thác, những ngón đòn hung bạo của con sông Đà. Mỗi lần vượt thác của ông là một lần chinh phục con sông tử thần. Phẩm chất tài hoa của ông đã được khắc họa rõ nét thông qua khung cảnh vượt thác sông Đà. Trước sự hung bạo và hiểm ác của con sông Đà, người lái đò vẫn giữ được sự bình tĩnh, tỉnh táo để chinh phục được ma trận, trước cái thạch trận ấy người lái đò vẫn chẳng hề nao núng. Ông giữ chặt tay chèo cho thuyền khỏi bị hất lên, giữa vòng vây trùng điệp của sóng ông lái đò vẫn bình tĩnh chỉ huy để con thuyền cập bến an toàn. Vẻ đẹp trong lao động của người lái đò sông Đà có nét gần gũi với vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao trong “Chữ người tử tù”. Nguyễn Tuân đã cho thấy khát khao chinh phục những nét đẹp tiềm tàng của con người, trân trọng giá trị của con người.

Với tuỳ bút người lái đò sông Đà người đọc thực sự ấn tượng với những trang văn đậm chất thơ, chất hội hoạ, phóng sự và của nhiều lĩnh vực khác nữa. Tác phẩm đã cho thấy tài năng, nhân cách cùng vẻ đẹp của tâm hồn Nguyễn Tuân, con người suốt đời đi tìm cái đẹp của con người.

Liên hệ mở rộng Người lái đò sông Đà - Mẫu 2

Mở bài mở rộng Người lái đò sông Đà

Có một Đà giang đã từng chảy qua trang thơ của Quang Lâm:

"Sông chảy qua, lòng vang lên lời hát

Dòng Đà giang là lạ gió vùng cao"

(Nhớ sông Đà)

Đó cũng là con sông gợi thương gợi nhớ trong thơ Trần Quang Quý:

"Sông Đà dâng lên những quả đồi đất đỏ trung du

Tôi ôm dòng sông nghe giai điệu bè trầm ngàn xưa kể chuyện

Gác lên sông những lườn cong nhớ

Môi phù sa khép bóng hoàng hôn

mãi khuấy trong tôi nhịp những con thuyền"

(Sông Đà)

Như vậy, sông Đà không phải lần đầu tiên đi vào thơ văn. Nhưng qua cảm nhận của mỗi người nghệ sĩ, sông Đà lại được khám phá với những góc nhìn riêng, vẻ đẹp riêng. Bởi lẽ "Thế giới không phải được tạo lâp một lần mà mỗi một lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện là một lần thế giới lại được tạo lập", nên cũng là dòng sông ấy, qua trang văn tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên như một công trình mỹ thuật tuyệt vời của tạo hóa với hai vẻ đẹp đầy ấn tượng: Hùng vĩ, dữ dội và đằm thắm, trữ tình. Con sông của tạo hóa vốn đã độc lạ, con sông chảy qua trang văn Nguyễn Tuân còn độc lạ gấp nhiều lần. Với "Người lái đò sông Đà", ngòi bút Nguyễn Tuân như "tung hoành sảng khoái giữa dòng thác cuồn cuộn của ngôn từ, buộc ngôn từ dựng lên ghềnh thác, buộc nhịp điệu dựng lên sóng gió" khiến cho sự hung bạo dữ dằn của sông Đà khúc thượng nguồn hiện lên thật sống động và truyền cảm. Đoạn văn:
"Còn xa lắm mới đến cái thác dưới [..] Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới" là minh chứng sinh động điều đó.

2. Thân bài mở rộng Người lái đò sông Đà

- VD 1. Phân tích các câu văn: "Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy", ta có thể liên hệ đến ngữ liệu trong "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" của Hoàng Phủ Ngọc Tường như sau:

Sau những câu văn miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ của vách đá sông Đà, là những câu văn gây ấn tượng về sự hung bạo của sông Đà quãng mặt ghềnh Hát Loóng: "dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy". Câu văn có nhịp ngắn, nhanh, dồn dập kết hợp với các thanh sắc, những từ ngữ trùng điệp nối tiếp thế chỗ nhau trong các cụm từ ngữ đã tái hiện một cách sinh động sự dữ dội đến hung bạo của con sông qua hình ảnh nước, sóng, gió, và đá sông Đà. Mặt nước sông Đà quãng này cuồn cuộn những con sóng dữ vút lên, chồm lên nhau tạo cảm giác ghê rợn, hãi hùng.

Từ láy "gùn ghè" kết hợp hình ảnh so sánh mang đậm sắc thái nhân hóa về việc sóng gió trên mặt ghềnh Hát Loóng "lúc nào cũng đòi nợ xuýt" bất cứ người lái đò sông Đà nào qua đấy đã khiến người đọc hình dung rõ nét sự hung hãn, lì lợm, cuồng bạo của dòng sông Tây Bắc.

Đọc câu văn của Nguyễn Tuân miêu tả về sông Đà, bất chợt khiến ta nhớ đến dòng sông Hương vùng thượng nguồn trong trang kí Hoàng Phủ Ngọc Tường - dòng sông như "một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn". Những ngòi bút tài hoa đã tạo nên trang viết "nở hoa" - trang viết có khả năng khơi dậy trong trí tưởng tượng của người đọc về hai dòng sông hùng vĩ, dữ dội cuồn cuộn trôi đi giữa cơ thể đất nước.

- VD2. Phân tích câu văn: "Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân..", ta có thể liên hệ đến ngữ liệu trong "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" của Hoàng Phủ Ngọc Tường như sau:

Có thể nói, "Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân.." là một câu văn tuyệt bút, ghi dấu ấn tài hoa của Nguyễn Tuân trong nghệ thuật tả cảnh, từ cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh, đến âm hưởng, giọng điệu. Nhịp điệu ngân nga, trầm bổng của câu văn góp phần gợi tả những nét thi vị thật đặc biệt của dòng sông. Câu văn dài chỉ có một dấu ngắt duy nhất, kết hợp với điệp ngữ "tuôn dài" đem đến ấn tượng về sự liền mạch, bất tận của dòng sông, gợi hình ảnh dòng sông uốn lượn quanh co tuôn chảy từ những dãy núi hùng vĩ của biên giới Tây Bắc, miên man chảy về đồng bằng, lặng lẽ hòa vào sông Hồng rồi tha
thiết đổ ra biển.. Những thanh bằng liên tiếp ở đầu câu văn cũng làm tăng thêm sự yên ả, êm đềm, bình lặng cho dòng sông những quãng trung lưu về đến hạ nguồn. Dưới con mắt tài hoa đậm chất nghệ sĩ của Nguyễn Tuân, Sông Đà như mái tóc mềm mại đang ôm lấy thân hình trẻ trung, gợi cảm đầy sức sống của người thiếu nữ Tây Bắc. Cách so sánh dòng sông như một áng tóc trữ tình đã đem đến cho sông Đà nét đằm thắm, duyên dáng đầy nữ tính mà không hề làm mất đi sự hùng vĩ của nó.

Về vẻ đẹp mềm mại, nữ tính này, sông Đà có nét rất giống với sông Hương trong bút kí: "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" của Hoàng Phủ Ngọc Tường: "người ta luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi", "từ đây, như đã tìm đúng đường về, dòng sông vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long". Các câu văn đều được viết bằng sự thăng hoa của tâm hồn, các nhà văn như "đề thơ vào sông nước", khiến chúng hiện lên với vẻ đẹp đậm chất thẩm mĩ.

- VD3. Phân tích thác dữ sông Đà (Đoạn "Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng..") , ta có thể liên hệ như sau: Sông Đà không chỉ hùng vĩ, dữ dội ở cảnh "đá bờ sông dựng vách thành", cảnh mặt ghềnh Hát Loóng "nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm", cảnh những cái hút nước "xoáy tít đáy".. mà còn nguy hiểm ở trùng trùng điệp điệp những thác nước sông Đà.

Sông Đà có cả thảy bảy mươi ba cái thác như bảy mươi ba cạm bẫy luôn rình rập và sẵn sàng ăn chết bất cứ chiếc thuyền nào đi ngang qua đó. Sự chất chồng, liên tiếp của thác dữ sông Đà đã từng đi vào câu ca xưa:

"Đường lên Mường Lễ bao xa

Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh"

- VD4. Khi phân tích các câu văn: "Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về", ta có thể liên hệ:

Dòng sông mang màu sắc diệu ảo biến đổi theo mùa. Mùa xuân "dòng xanh ngọc bích" – một sắc xanh tinh khiết, trong trẻo làm say đắm lòng người. Nguyễn Tuân còn so sánh sắc xanh ấy với sắc xanh canh hến của sông Gâm sông Lô như một cách để khẳng định sắc màu rất riêng của sông Đà. Mùa thu nước sông Đà lại "lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa". Phép so sánh, kết hợp với từ láy tượng hình (lừ lừ), tình từ (bầm đi) vừa gợi tả dòng chảy nặng nề, điềm đạm và chậm rãi của con sông mang nặng phù sa thượng nguồn, vừa thể hiện sức mạnh tiềm tàng ẩn chứa bao hiểm nguy, cuồng loạn của một dòng sông vẫn "năm năm báo oán đời đời đánh ghen" với con người. Như vậy, trong cái hùng vĩ dữ dội, dòng sông vẫn có nét thơ mộng trữ tình, và trong cái thơ mộng trữ tình, nó vẫn ẩn chứa vẻ dữ dằn, nguy hiểm.

Đó cũng là hai nét tính cách đối lập làm nên vẻ đẹp đầy cá tính của sông Đà trong thơ Quang Lâm:

"Đẹp ngàn đời biển trời sông bát ngát

Cá dầm xanh, anh vũ nhảy theo mùa

Khi mùa lũ thác reo gầm dữ dội

Thu chớm lạnh sóng nước lặng lờ trôi"

(Nhớ sông Đà)

- VD 5. Phân tích vẻ đẹp của người lái đò sông Đà, ta có thể liên hệ đến những câu thơ
của Vũ Quần Phương:

Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, người lái đò được khắc họa như linh hồn muôn thuở của sông nước miền Tây Bắc. Ông làm nghề lái đò đã hơn mười năm. Trên sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay ông giữ lái độ sáu chục lần.. Kinh nghiệm và sự từng trải của người lái đò còn thể hiện, dòng sông Đà với bảy mười ba con thác nhưng ông đã lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả các con thác hiểm trở. Đối với ông đò, sông Đà như một trường thiên anh hùng ca mà ông thuộc lòng đến cả những cái chấm than chấm câu và cả  những đoạn xuống dòng. Đến đây, ta băn khoăn tự hỏi, có phải chính vẻ đẹp của ông đò trong thiên tùy bút này đã gợi cảm hứng để nhà thơ Vũ Quần Phương viết lên những dòng thơ mộc mạc:

"Tôi thuộc ngầm thuộc đá
Tôi thuộc lũ, thuộc dòng
[..]
Sống cuộc đời sông nước
Tôi lấy nước làm nhà
Nước là bầu là bạn
Tôi nhìn nước trên sông
Gắng hiểu dòng dưới đáy"
(Với sông Đà - Vũ Quần Phương)

- VD6. Khi phân tích tình cảm của Nguyễn Tuân dành cho sông Đà qua những câu văn: "Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân" ta có thể liên hệ:

Nếu Quang Lâm nhớ sông Đà bằng cả trái tim, tấm lòng khi phải xa cách:

"Lòng ở đây nhưng người không ở lại
Nhớ sông Đà bằng trọn cả con tim"
(Nhớ sông Đà)

Thì Nguyễn Tuân lại vui đến ngỡ ngàng khi gặp lại con sông. Cảm xúc khi gặp lại sông Đà của Nguyễn Tuân được cụ thể hóa trong những so sánh bất ngờ, thú vị: "Chao ôi, trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng". Nắng "giòn tan" là một ẩn dụ đẹp gợi tả cái nắng thật trong, thật sáng, nó tương phản hoàn toàn với cái u ám trĩu nặng của bầu trời những ngày "mưa dầm". Ai từng trải qua những ngày mưa dầm dãi đến thối đất thối cát lại chẳng mong một ngày nắng đẹp? Sự so sánh đậm chất thơ ấy giúp người đọc dễ dàng hình dung cảm giác trìu mến, nâng niu, vui sướng đến ngỡ ngàng của nhà văn khi gặp lại "cố nhân".

Mấy ai có thể nối lại giấc chiêm bao đứt quãng, nên sự nối lại giấc mơ càng hi hữu bao nhiêu, càng đem lại cảm giác sung sướng, thú vị bấy nhiêu. Qua so sánh "vui như nối lại chiêm bao đứt quãng" có thể thấy đối với Nguyễn Tuân, cảm giác khi gặp lại dòng sông lần nào cũng tươi mới kỳ diệu như giấc mơ đứt quãng, được nối lại bằng một kết thúc đẹp. Và lần đối diện với dòng sông, Nguyễn Tuân cũng như được tận hưởng niềm vui chưa từng có trong đời, lần nào cũng như lần đầu tiên..

- VD7. Phân tích nét độc đáo trong ngôn ngữ Nguyễn Tuân, ta có thể liên hệ: Ngôn ngữ của Nguyễn Tuân là thứ ngôn ngữ chính xác, gợi hình, biểu cảm. Đó là thứ ngôn từ gợi lên sự liên tưởng, tưởng tượng, gợi lên những rung cảm thẩm mĩ và ấn tượng khó phai ở người đọc.

Không những thế, Nguyễn Tuân còn không ngừng làm mới những từ ngữ sẵn có để tạo nên một thứ ngôn ngữ độc đáo, mới lạ. Ví như khi ông tả hình dáng con sông, ông dùng những chữ "áng tóc trữ tình" chứ không phải là mái tóc, suối tóc, hay khi tả màu nắng, ông dùng những chữ "nắng giòn tan", nắng "Đường thi" chứ không phải nắng rực rỡ, tươi tắn như ngôn ngữ thông dụng. Ông đã mang đến một màu vị mới cho ngôn từ, khiến người đọc không thể không nán lại mà thưởng thức, chiêm ngưỡng. Có thể nói, từng câu, từng chữ mà ông đặt lên trang giấy là cả một quá trình sáng tạo công phu, cẩn trọng và thiêng liêng. Ông lựa chọn ngôn từ một cách trau chuốt, tỉ mỉ, đúng như nhà thơ Nga, Maiacốpxki có viết:

"Phải tổn phí nghìn cân quặng chữ
Mới thu về một chữ mà thôi
Nhưng chữ ấy làm cho rung động
Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài".

3. Kết bài mở rộng Người lái đò sông Đà

Nguyễn Tuân thích sáng tạo, độc đáo cả trong đời thực lẫn trong văn chương. Nhà nghệ sĩ lớn ấy đi săn tìm cái đẹp suốt cả cuộc đời để rồi mang lại cho ta "chất vàng mười" của nghệ thuật. Đọc "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân, chúng ta thực sự bị cuốn hút vào dòng thác của cuồn cuộn của sông chữ, sông đời; thực sự như bị lạc vào dòng "sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình". Giống như Nguyễn Du đã làm giàu và làm sang cho ngôn ngữ dân tộc bằng "Truyện Kiều", Nguyễn Tuân cũng thế. Những trang văn của ông không chỉ thấm đượm linh hồn quê hương mà còn là sự thể hiện sự giàu có của tiếng nói dân tộc Việt. Có nhà nghiên cứu nhận xét rất đúng về ngôn ngữ Nguyễn Tuân, đó là "sự giàu có và giá trị tạo hình cao, như muốn ganh đua cùng tạo hóa".

Liên hệ mở rộng Người lái đò sông Đà - Mẫu 3

Trích:… Từ đó, anh (chị) hãy đánh giá nét độc đáo trong quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân.

"Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá . Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ đúng lúc ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.

Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy. Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.

Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số nhấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới. Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nao muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút sông.. - từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một côt nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ảnh. Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược contre-plongée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xoáy tít đáy, truyền lại cho người xem phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn."

(Trích "Người lái đò sông Đà" - Nguyễn Tuân, SGK Ngữ văn 12, NXB Giáo dục)

Nhắc đến Nguyễn Tuân, ta nhớ ngay đến một nghệ sĩ tài hoa uyên bác, người luôn luôn kiếm tìm, khám phá và thể hiện cái đẹp với một niềm say mê kì lạ. Niềm say mê cái đẹp ấy đã khiến nhà văn tạo ra cho mình một cái nhìn nghệ thuật riêng: Khám phá và thể hiện thiên nhiên, con người từ góc độ văn hóa, thẩm mĩ. Đặc sắc phong cách đó của Nguyễn Tuân thể hiện rõ nét qua tác phẩm "Người lái đò sông Đà" (in trong tập tùy bút "Sông Đà" – kết quả của chuyến đi thực tế lên Tây Bắc của Nguyễn Tuân năm 1958). Với kiệt tác này, Nguyễn Tuân đã đặc biệt thành công trong việc biến vùng sông nước ấy thành nghệ thuật, thành một niềm gợi cảm mênh mông. Sông Đà qua ngòi bút tài hoa độc đáo của Nguyễn Tuân, không còn là thực thể vô tri vô giác mà như một cá thể có tính cách riêng, vừa hung bạo, dữ dằn, vừa trữ tình, đằm thắm.

Đoạn văn: "Hùng vĩ của sông Đà không chỉ có thác.. cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn" vừa dựng lên bức tranh hùng vĩ, tráng lệ về Đà giang khúc thượng nguồn vừa thể hiện những nét độc đáo trong quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân.

Là người nghệ sĩ thích chơi "ngông", thích tranh tinh xảo với tạo hóa, Nguyễn Tuân không chấp nhận những cách diễn đạt bình thường, dễ dãi, không hạ mình nói lại những gì người ta đã nói, ông đã ghi dấu ấn riêng, màu sắc riêng của mình trên từng trang viết bằng một phong cách nghệ thuật độc đáo, tài hoa. Ông được coi là một định nghĩa sống về "người nghệ sĩ" từ "cái râu cái tóc ông chẳng giống ai" đến ý thức trách nhiệm với nghề, ý thức sáng tạo. Và sự độc đáo đã tạo ra cái độc đáo. Sông Đà dù không phải lần đầu tiên đi vào thơ văn, nhưng khó nhà văn nào có thể "vượt mặt" được ông trong việc xây dựng hình tượng này.

Nguyễn Tuân đến với sông Đà như đến với "cố nhân", đến với người bạn tương phùng tương đắc. Vẻ đẹp vừa dữ dội, mãnh liệt vừa thơ mộng tuyệt vời của sông Đà có sức hút với ông hết sức mạnh mẽ. Ngòi bút của ông vì thế có cơ hội thăng hoa. Ông đã được thỏa chí tung hoành trong trí tưởng tượng phong phú của chính mình và để lại trên trên trang viết những dòng văn đậm chất Nguyễn Tuân: "Hùng vĩ của sông Đà không chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời"

Qua ngòi bút Nguyễn Tuân, cảnh vách đá sông Đà thật hùng vĩ, tráng lệ . Nguyễn Tuân dùng từ "vách thành" chứ không phải là "thành vách" như thói quen dùng từ thường lệ. Thế mới "lạ", mới chẳng giống ai. Phải chăng, "vách thành" mới diễn tả trọn vẹn sự sừng sững, uy nghiêm, chứa đầy hiểm nguy của vách đá đôi bờ sông Đà?

Vách đá ấy dựng đứng, cao vòi vọi, khiến ánh nắng mặt trời chỉ lúc đúng ngọ mới có thể chạm tới mặt sông. Cái tài của Nguyễn Tuân là ông không dùng một chữ "cao", mà ta vẫn cảm nhận được độ cao hun hút của vách đá.

Tác giả còn phát huy cao độ trí tưởng tượng để gợi tả độ hẹp của dòng sông: "Có vách đá chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai, con hổ đã có lần vọt từ bờ này qua bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một cái khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện".

Nghệ thuật so sánh được Nguyễn Tuân sử dụng vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ và lạ lùng: "vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu". Động từ "chẹt" và hình ảnh so sánh với cái "yết hầu" đã đem đến ấn tượng mãnh liệt cho người đọc về độ hẹp của lòng sông khi trôi giữa hai vách đá sừng sững. Đặc biệt, Nguyễn Tuân còn tạo ra ấn tượng về sự tương phản của xúc giác với chi tiết "ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh" như cực tả sự âm u đến gai lạnh của quãng sông chật hẹp ít ánh sáng mặt trời này. Trong câu văn tiếp theo nhà văn còn tạo ra ấn tượng của thị giác khi lấy hè phố để miêu tả mặt sông, lấy
nhà cao gợi tả vách đá, và tiếp tục truyền đến người đọc những hình dung về cái tăm tối lạnh lẽo đột ngột khi con thuyền đi từ ngoài vào khúc sông có đá hun hút dựng vách thành qua hình ảnh so sánh về "một khung cửa sổ nào trên cái tầng thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện".

Nếu những câu văn trên gây ấn tượng với người đọc bởi vẻ đẹp hùng vĩ của sông Đà, thì những câu văn tiếp theo, lại gây ấn tượng về sự hung bạo của sông Đà quãng mặt ghềnh Hát Loóng: "dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy". Câu văn có nhịp ngắn, nhanh, dồn dập kết hợp với các thanh sắc, những từ ngữ trùng điệp nối tiếp thế chỗ nhau trong các cụm từ ngữ đã tái hiện một cách sinh động sự dữ dội đến hung bạo của con sông qua hình ảnh nước, sóng, gió, và đá sông Đà. Mặt nước sông Đà quãng này cuồn cuộn những con sóng dữ vút lên, chồm lên nhau tạo cảm giác ghê rợn, hãi hùng. Từ láy "gùn ghè" kết hợp hình ảnh so sánh mang đậm sắc thái nhân hóa về việc sóng gió trên mặt ghềnh Hát Loóng "lúc nào cũng đòi nợ xuýt" bất cứ người lái đò sông Đà nào qua đấy đã khiến người đọc hình dung rõ nét sự hung hãn, lì lợm, cuồng bạo của dòng sông Tây Bắc. Đem lại những ấn tượng mạnh mẽ hơn nữa là hình ảnh những cái hút nước ở quãng Tà Mường Vát: ".. Những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn". Hàng loạt những so sánh sống động, đặc sắc khiến hút nước thiện ra khi mang hình hài của một "cái giếng bê tông" xoáy tít, khi trong âm thanh của một "cửa cống cái bị sặc", khi là hình ảnh và âm thanh khi mặt nước bị "rót dầu sôi".

Ngoài ra, các từ láy tượng hình "lừ lừ", tượng thanh tăng nghĩa "ặc ặc" cùng những chi tiết so sánh kết hợp nhân hóa "thở và kêu như cửa cống cái bị sặc".. tất cả góp phần làm hiện ra cả hình ảnh và âm thanh của hút nước như một quái vật đang trong cơn giận dữ cuồng loạn sẵn sàng gieo chết chóc cho con người. Nên không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân lại điểm vào chi tiết những cánh quạ đàn quay lừ lừ.. Chẳng phải đó là hình ảnh gợi lên sự chết chóc hay sao?

Sự nguy hiểm của hút nước sông Đà khiến "không thuyền nào dám men gần những cáihút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số nhấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra người bờ vực". Giữa chốn núi rừng hoang sơ, Nguyễn Tuân đã thổi vào không khí của phố thị khi so sánh chiếc thuyền với ô tô, đoạn sông có những cái hút nước với quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Từ đó khẳng định những cái hút nước này chính là mối đe dọa mà bất cứ ai cũng phải sợ, phải thật điêu luyện, thật bình tĩnh nhưng nhanh chóng mới có thể "thoát chết" khi đi ngang qua đây.

Nhà văn còn phát huy trí tưởng tượng phong phú khi hình dung ra những bè gỗ to lớn nghênh ngang bị "lôi tuột xuống" đáy hút nước, hay "những chiếc thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷu sông dưới".

Bằng những quan sát tỉ mỉ, tinh tường, kết hợp cách dùng hàng loạt động từ "lôi", "hút", "trồng", "dìm", "đi ngầm", "tan xác".. Nguyễn Tuân đã diễn tả hình ảnh chiếc thuyền bị hút nước nuốt chửng một cách đáng sợ. Con sông mang trên mình những cái hút nước khổng lồ ấy khiến ta hình dung nó chẳng khác nào một loài thủy quái hung bạo, dữ dằn. Nó sẵn sàng nuốt tất cả mọi thứ vào lòng sâu của cái chết. Con thủy quái ấy cứ như chỉ chờ có thuyền nào qua là lôi tuột, nuốt chửng con thuyền tội nghiệp cho hả cơn giận dữ.

Sự miêu tả như thế kể cũng đã kì thú lắm, nhưng vẫn còn chưa khiến ta phải thán phục, phải ghê gớm cho tài nghệ của Nguyễn Tuân như trong những câu cuối đoạn này: "Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn [..] chiếc lá rừng bị bứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn".

Như vậy, không dừng lại trong những liên tưởng, tưởng tượng về cái bè gỗ hay một con thuyền bất hạnh nào đó phải làm mồi cho hút nước, Nguyễn Tuân còn tạo ra một giả tưởng ly kỳ đưa người đọc vào trò chơi cảm giác, kéo họ xuống tận đáy hút nước xoáy tít, sâu hoắm cùng một anh bạn quay phim táo tợn. Hút nước vì thế đã được miêu tả bằng thủ pháp điện ảnh, khi nhà văn hình dung đến cảnh quay của người nghệ sĩ quay phim ấy khi anh dũng cảm ngồi trên chiếc thuyền thả mình vào hút nước rồi hất ngược ống quay lên ghi lại những thước phim sống động mà rùng rợn. Thước phim chân thật từng chi tiết, từ hình khối của "một thành giếng xây toàn bằng nước" cho đến màu sắc của dòng sông "nước xanh ve", và thậm chí cho đến cả cảm giác sợ hãi của con người khi phải đứng trong lòng một "khối pha lê xanh như sắp vỡ tan", bất cứ lúc nào cũng như sắp đổ ụp vào người.

Một sức bút bình thường làm sao có nổi một cái so sánh vừa chính xác, tinh tế, lại vừa bất ngờ và lạ lùng đến thế. Dõi theo từng câu chữ Nguyễn Tuân, chắc hẳn nhiều người trong số chúng ta sẽ nhận ra mình nghèo nàn biết bao nhiêu cả về từ ngữ và ý tưởng. Phải chăng khi viết những câu văn này, Nguyễn Tuân đã phải luôn lục lọi đến tận cùng kho cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn bề, nhằm tìm ra những chữ nghĩa chính xác nhất, có khả năng động người đọc nhiều nhất.

Nguyên Tuân từng viết: "Giàu ngôn ngữ thì văn sẽ hay.. Cũng cùng một vốn ngôn ngữ ấy nhưng sử dụng có sáng tạo thì văn sẽ có bề thế và kích thước. Có vốn mà không biết sử dụng chỉ như nhà giàu giữ của. Dùng chữ như đánh cờ tướng, chữ nào để chỗ nào phải đúng vị trí của nó. Văn phải linh hoạt. Văn không linh hoạt gọi là văn cứng đơ thấp khớp". Với một quan niệm nghệ thuật như thế, Nguyễn Tuân đã mang đến một áng văn bề thế và độc đáo, sắc sảo và uyên bác. Một áng văn chỉn chu, trau chuốt đến từng câu chữ. Đoạn văn trên chính là minh chứng cho quan niệm "khắt khe" của Nguyễn Tuân về nghệ thuật, cũng là thành quả ngọt ngào của cả quá trình "rèn chữ" khổ luyện công phu.

Bằng các thủ pháp đối lập, nhân hóa, so sánh, những liên tưởng, tưởng tượng táo bạo, bất ngờ, cùng hệ thống ngôn từ giàu có, phong phú, và sự uyên bác trong kiến thức lịch sử, thơ ca, hội họa, quân sự, thể thao.. đoạn trích trên đã giúp người đọc hình dung ra vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của sông Đà vùng thượng nguồn . Đằng sau hình tượng dòng sông mà ông dụng công tạo tạc ấy là tình yêu tha thiết mà Nguyễn Tuân dành cho thiên nhiên và con người Tây Bắc. Bởi tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là là kết quả của tình yêu lớn lao.

Đồng thời, đoạn trích còn thể hiện những nét độc đáo trong quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân: Dù trước hay sau cách mạng, Nguyễn Tuân luôn nhìn sự vật ở phương diện văn hóa, thẩm mĩ. Với cách nhìn này, sông Đà trong mắt ông hiện lên như một kì quan của tạo hóa. Nguyễn Tuân còn quan niệm cái đẹp phải gây ấn tượng mạnh. Vì vậy, trong đoạn trên, ông đã miêu tả dòng sông Tây Bắc vùng thượng nguồn không còn là thực thể vô tri vô giác mà hung hiểm, dữ dằn như mang tâm địa của một loài thủy quái. Đã trữ tình thì phải trữ tình đến độ đằm thắm, say mê, đã dữ dằn thì phải dữ dằn đến độ truyền cả cảm giác ghê sợ, hãi hùng đến cho người đọc. Bởi Nguyễn Tuân không chấp nhận sự dễ dãi trong cách xây dựng hình tượng, nên cái đẹp trong trang văn của ông cũng không nhàn nhạt, lờ mờ mà phải là tuyệt mĩ. Để tạo nên ấn tượng đó, Nguyễn Tuân đã tung ra đạo binh ngôn từ hùng hậu cùng tất cả sự tài hoa, uyên
bác trong ngòi bút của mình.

Liên hệ Người lái đò sông Đà với Chữ người tử tù

Dàn ý chi tiết so sánh ông lái đò với Huấn Cao

I. Mở bài: Giới thiệu tác giả và tác phẩm

– Sông Đà là tập tùy bút hay nhất của Nguyễn Tuân viết về cảnh và người Tây Bắc. Đó kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958 của nhà văn.

– Phong cảnh Tây Bắc dưới ngòi bút Nguyễn Tuân vừa hùng vĩ uy nghiêm, vừa tuyệt vời, thơ mộng. Trong bài Người lái đò sông Đà rút từ tập tùy bút Sông Đà, nhà thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn hết lời ngợi ca vẻ đẹp của con người Tây Bắc, nhất là những người lái đò trên con sông dữ dội và thơ mộng ấy.

II. Thân bài: So sánh hai tác phẩm Chữ người tử tù và Người lái đò sông Đà .

1. Phân tích nhân vật người lái đò sông Đà

* Vài nét về hình ảnh con sông Đà

- Hình ảnh sông Đà hiện lên thật hung tàn nhưng cũng không kém phần thơ mộng, trữ tình .

- Hình ảnh sông Đà vừa “ hung bạo ” vừa “ trữ tình ” là nền để người lái đò.

* Nhân vật người lái đò sông Đà - Ông lái đò:

- Ông là người anh hùng sông nước .

- Ông lái đò là nghệ sĩ tài hoa .

-> Đúng như nhà văn Nguyễn Tuân nhận xét, ông lái đò là một “tay lái đò tài hoa” => Nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Tuân rất tài hoa. Nhà văn lược bỏ hầu hết những cụ thể về đời tư của ông lái đò để đi sâu vào khắc họa ngoại hình, hành vi của nhân vật .

2. So sánh nhân vật người lái đò với nhân vật Huấn Cao

– Nhân vật Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là một con người tài hoa, khí phách hiên ngang quật cường, “ thiên lương ” trong sáng .

- Vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao là vẻ đẹp lãng mạn, có sức chinh phục, cảm hóa mãnh liệt so với những con người có tấm lòng “ biệt nhỡn liên tài ” .

=> Từ việc khám phá vài nét về vẻ đẹp hình tượng của nhân vật Huấn Cao tất cả chúng ta dễ thấy được những nét chung và điểm độc lạ trong cách tiếp cận con người của Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng tháng Tám .

* Nét chung:

– Nguyễn Tuân tiếp cận con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ .

- Vẫn là ngòi bút tài hoa, uyên bác, lịch sự, vận dụng tri thức tổng hợp của nhiều ngành văn hóa truyền thống, thẩm mỹ và nghệ thuật khác nhau trong miêu tả và biểu lộ .

- Vẫn sử dụng vốn ngôn từ rất là tinh lọc, nhiều mẫu mã, độc lạ. Khả năng tổ chức triển khai câu văn đầy giá trị tạo hình, có nhạc điệu trầm bổng, biết co duỗi uyển chuyển. Các phép tu từ được nhà văn phối hợp vô cùng điêu luyện .

* Khác biệt:

– Chữ người tử tù ca tụng cái đẹp của tài hoa, khí phách và thiên lương, qua đó phủ nhận thực tại phàm tục của xã hội thực dân phong kiến trước Cách mạng. Người lái đò sông Đà ca tụng con sông Đà và người lái đò sông Đà, bày tỏ niềm thương mến thiết tha vạn vật thiên nhiên quốc gia, niềm tin yêu đời sống mới, con người mới .

+ Huấn Cao là con người của quá khứ, của lịch sử dân tộc, nay chỉ còn “ vang bóng ” ; ông lái đò là con người của hiện tại, của ngày hôm nay .

+ Huấn Cao là người đặc biệt quan trọng, siêu phàm ; ông lái đò là con người thông thường của đời sống thường nhật .

+ Huấn Cao trái chiều thâm thúy với xã hội, trở thành kẻ tử tù của xã hội bất công ; ông lái đò là một con người đang ngày đêm đem sức lực lao động và trí tuệ kiến thiết xây dựng quê nhà, quốc gia .

- Về cảm hứng thẩm mĩ :

+ Qua nhân vật Huấn Cao : tài hoa nghệ sĩ chỉ có ở những con người kiệt xuất thuộc quá khứ “ vang bóng một thời.

+ Qua nhân vật ông lái đò: tài hoa nghệ sĩ có cả ở nhân dân đại chúng, biểu lộ trong lao động và chiến đấu .

- Về cách tiếp cận con người :

+ Trong Chữ người tử tù : ca tụng những “con người đặc tuyển, những tính cách khác thường”, ca tụng cái đẹp và nhấm nháp những cảm xúc mới lạ .

+ Trong Người lái đò sông Đà: ca tụng những nhân vật tài hoa hoàn toàn có thể tìm thấy ngay trong cuộc chiến đấu, lao động hàng ngày của nhân dân, ca tụng cái đẹp gắn với nhân dân lao động, với đời sống đang nảy nở sinh sôi đồng thời lên án, tố cáo chính sách cũ, khẳng định chắc chắn thực chất nhân văn của chính sách mới .

III. Kết bài

– Qua Người lái đò sông Đà và nhân vật người lái đò, ta thấy nổi lên một Nguyễn Tuân tài hoa độc lạ, uyên bác, tận tâm, có tấm lòng yêu thương, tự hào da diết về vẻ đẹp của vạn vật thiên nhiên, con người miền Tây Bắc .

– Hai tác phẩm Người lái đò sông Đà và Chữ người tử tù đã nói lên phần nào đặc thù phong thái nghệ thuật và thẩm mỹ của Nguyễn Tuân với sự không thay đổi lẫn sự hoạt động trong phong thái ở hai tiến trình trước và sau Cách mạng.

Bài văn so sánh liên hệ người lái đò sông Đà với nhân vật Huấn Cao (Chữ người tử tù)

Nguyễn Tuân là một người nghệ sĩ tài hoa, ông có sở trường về tùy bút. Sông Đà là tập tùy bút hay nhất của Nguyễn Tuân viết về cảnh và người Tây Bắc, là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958 của nhà văn. Ở Tây Bắc, ông sống với bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân làm đường và đồng bào các dân tộc ít người. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã mang lại cho Nguyễn Tuân nguồn cảm hứng sáng tạo dồi dào. Phong cảnh Tây Bắc dưới ngòi bút Nguyễn Tuân vừa hùng vĩ uy nghiêm, vừa tuyệt vời, thơ mộng. Trong bài Người lái đò sông Đà rút từ tập tùy bút Sông Đà, nhà thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn hết lời ngợi ca vẻ đẹp của con người Tây Bắc, nhất là những người lái đò trên con sông dữ dội và thơ mộng ấy.

Vẻ đẹp của nhân vật người lái đò trong bài tùy bút này được bộc lộ ở nhiều góc cạnh khác nhau .Trong tùy bút, hình ảnh sông Đà hiện lên thật hung ác :“ Lúc này nước sông Đà reo như đun sôi lên một trăm độ muốn hất tung đi một cái thuyền đang phải đóng vai một cái nắp ấm của một ấm nước sôi khổng lồ. Ngấn mạn thuyền thấp hơn ngấn nước tứ vi bên ngoài, cạp mui thuyền cắm ngập dưới ngấn nước đang sôi trắng lên. Mặt sông cũng có ổ gà như mặt đường cạn, đi vào ổ gà sông là thuyền bị giật xuống bị dồi lên. Đã gọi là thác, tức là chỗ khúc sông phức tạp có nhiều luồng nước. Có luồng nước đi lầm vào thì chết ngay, có luồng nước đi vào đúng luồng rồi nhưng mà không trúng tim luồng thì cũng vẫn hoàn toàn có thể là thập tử nhất sinh như thường … ” .Nhưng hình ảnh sông Đà hiện lên không kém phần thơ mộng, trữ tình :“ Tôi có bay tạt qua sông Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình một góc nhìn nhìn một cách nhìn về con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình … ” ; “ Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ tức giận ở một người bất mãn tức bực gì mỗi độ thu về. Chưa hề khi nào tôi thấy dòng sông Đà là đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phết vào map … ” .Hình ảnh con sông Đà vừa “ hung bạo và trữ tình ” là cái nền để người lái đò Open. Ông lái đò là người anh hùng sông nước : trong cuộc chiến đấu gay go với con sông dữ, ông là người chỉ huy tài ba, trí dũng, can trường. Vượt qua hết những vực xoáy, luồng chết, cửa tử, … để đưa con đò đến nơi sóng yên nước lặng. Về tư thế : “ ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình ”, về phong thái : “ tỉnh táo, tự tin, cố nén vết thương do sóng nước gây ra ”, về hành vi : “ hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái ”, “ đánh đòn tỉa ”, “ đánh đòn âm vào chỗ hiểm ”. Sau khi “ phá xong cái trùng vi thạch trận, vòng thứ nhất ”, ông không một phút “ nghỉ tay nghỉ mắt ”, phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn “ giải pháp “. Khi nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông “ ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy ”. Thế là những luồng tử đã “ bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh ”. Sau đó, ông bước vào trận chiến với “ một trùng vây thứ ba ”. Ông liền “ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa ” có bọn đá hậu vệ của con thác. Rồi “ vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động hóa lái được, lượn được ”. Thế là hết thác. Sóng nước lại thanh thản .Hơn nữa, ông lái đò còn là nghệ sĩ tài hoa. Trong nghề chèo đò vượt thác, ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở. Ở vòng đầu lũ đá ấy đã mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngọn sông nhưng ông đã thuộc lòng những cửa này. Ở vòng thứ hai, cửa tử tăng lên để đúng lừa con thuyền của ông vào, và cửa sinh lại sắp xếp lệch qua phía bờ hữu ngạn nhưng ông vẫn cứ hiểu được điều nguy khốn ấy. Ông mày mò ra cách chinh phục chúng : cưỡi lên thác sông Đà, phải cưỡi đến cùng như thể cưỡi hổ. Khi bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn lớn cửa tử, nhờ nhớ mặt bọn này nên đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến, ở trùng vây sau cuối, mặc dầu ít cửa hơn nhưng ông nhận ra rằng ở bên phải bên trái đều là luồng chết cả, lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cho nên, ông dùng đòn “ phóng thẳng ”. Thế là ông thắng lợi trọn trong cuộc đi qua cửa ải nước đủ tướng dữ, quân tợn vừa qua. Đúng như nhà văn Nguyễn Tuân nhận xét, ông lái đò là một “ tay lái ra hoa ” .Còn cô lái đò là một người phụ nữ Nước Ta yêu nước tha thiết, đảm đang, tháo vát, tâm hồn dạt dào xúc cảm và tràn ngập chất thơ : “ … Một buổi chiều Quỳnh Nhai khác, tôi lại tìm đến một cô lái đò đã từng chở đò dọc đưa gạo kháng chiến từ Quỳnh Nhai về thác Tà Hè đổ lên kho quân lương. Cô lái đò châu Quỳnh Nhai giảng cho tôi hiểu biết thêm về ý nghĩa kiến trúc của cái thuyền then vút đuôi én trên sông Đà : “ Các eng bảo thuyền giống con cá, bảo cái thuyền như một con cá nó quẫy mạnh đuôi trên mặt sông thì cũng được thôi. Chúng em chỉ biết cái đuôi thuyền nó vẫy lên cao như thế để có cái chỗ mà treo cái bu gà. Gà sống này, con nào đẹp lông và gáy hay, thì phải mua đến mười đồng bạc mới. Con gà sống là cái đồng hồ đeo tay của người lái đò sông Đà đấy. Đi đường xa, qua bờ này bến khác, có tiếng gà gáy đem theo, nó đỡ nhớ nương ruộng bản mường mình. Hai bên bờ sông Đà, ai ai cũng biết hát cả đấy. Đang phát nương, nhìn xuống dòng sông Đà mà thấy thuyền những eng đi qua, là người phụ nữ Thái chúng em đều hát gửi xuống một hai câu và có khi hát cả một bài. Hồi Pháp chiếm đóng, tiếng hát của phụ nữ đều lánh xa bờ xa bến. Nhiều tiếng hát chạy xa lên tận đỉnh núi. Nay độc lập, hết địch rồi tiếng hát mới lại xuống dần tới mặt bến … ” .Nhìn chung, thẩm mỹ và nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Tuân rất tài hoa. Nhà văn lược bỏ hầu hết những chi tiết cụ thể về đời tư của ông lái đò, cô lái đò để đi sâu khắc họa ngoại hình, hành vi của nhân vật .Chúng ta thử so sánh nhân vật người lái đò với nhân vật Huấn Cao ( Chữ người tử tù ). Nhân vật Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là một con người tài hoa, khí phách hiên ngang quật cường, “ thiên lương ” trong sáng. Huấn Cao viết chữ rất đẹp : “ Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm ( … ). Có được chữ ông Huấn mà treo là có một bảo vật trên đời ”. Trong thị hiếu nghệ thuật và thẩm mỹ của cố nhân, từ Nước Trung Hoa đến Nước Ta, viết chữ đẹp là một thủ pháp nghệ thuật và thẩm mỹ và chơi chữ đẹp là một thú chơi cao khiết, thanh nhã. Bởi vậy, qua những do dự, giám sát, mưu mẹo, biệt đãi, nhẫn nhục, đau khổ, hoảng loạn, hy vọng, vô vọng, hoảng sợ, lúng túng, tôn kính của viên quản ngục thì cái tài hoa quý và hiếm của nhân vật Huấn Cao càng đươc tôn lên đỉnh điểm chói lọi .Về khí phách, Huấn Cao không chịu vào luồn ra cúi, không chịu sống cảnh “ cá chậu chim lồng ”, ông đi làm giặc triều đình. Đến khi bị bắt đưa vào ngục tử tù, ông không tỏ ra mảy may sợ hãi hay hụt hẫng. Cổ mang gông, chân vướng xiềng, bước vào ngục tử tù chờ ngày ra pháp trường, ông vẫn hiên ngang, đường hoàng như bước tiến trên đường cái. Chính cái khí phách khác thường của ông đã làm cho ngục quan – một người đầy uy quyền so với ông – phải tỏ ra “ khép nép ” khi vào gặp ông tại nhà lao. “ Thiên lương ” của ông vô cùng trong sáng : cái tài của Huấn Cao chính là nơi phát lộ cái tâm của ông. Tiền bạc, uy quyền không hề lung lạc được ông : “ Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối khi nào ”. Ông đúng là một nhân cách lí tưởng : “ Bần tiện bất năng di, phong phú bất năng dâm, uy vũ bất năng khuất ” .Vì vậy, khi chưa hiểu được những phẩm chất tốt đẹp của ngục quan ( biết trân trọng, thật lòng yêu cái đẹp dù phải sống trong thực trạng xấu xa ) thì Huấn Cao có thái độ cứng rắn với ông. Đến lúc cảm được “ cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài ” của ngục quan, Huấn Cao mềm lòng thốt lên : “ Nào ta biết đâu một người như thầy quản đây và lại có những sở trường thích nghi cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ ”. Và Huấn Cao sẵn sàng chuẩn bị cho ngục quan những dòng chữ sau cuối của một đáng tài hoa, một bậc anh hùng nghĩa sĩ trong một cảnh tượng “ lâu nay chưa từng có ở chốn lao tù ” : “ Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng lâu nay chưa từng có, đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, khí ẩm, tường đầy mạng nhện rác rưởi, đất bừa bãi phân chuột, phân gián. Trong một không khí tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chú ý trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ. Khói bốc tỏa cay mắt, làm họ dụi mắt lia lịa. Một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đậm tô nét chữ trên một tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng xu tiền kẽm lưu lại ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực. Thay bút con, đề xong lạc khoản, ông Huấn Cao thở dài, buồn bã đỡ viên quản ngục đứng thẳng người dậy và đĩnh đạc bảo :“ Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo bức lụa trắng với những nét vuông tươi tắn nó nói lên cái tham vọng tung hoành của một đời con người. Thoi mực, thầy mua ở đâu mà tốt và thơm quá vậy. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không ? … Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi ” .Lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo. Ba người nhìn bức châm, rồi lại nhìn nhau. Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào : “ Kẻ mê muội này xin bái lĩnh ” .Đoạn văn tả cảnh Huấn Cao cho chữ trên đây thể hiện toàn vẹn nhất vẻ đẹp sáng ngời của nhân cách Huấn Cao. Trong không khí sang trọng và quý phái, thiêng liêng, trong cảm hứng phát minh sáng tạo mãnh liệt, mê say, ông Huấn Cao đã quên hẳn gông xiềng, nhà ngục chật hẹp, tối tăm, khí ẩm, quên cả cái chết đang chờ đón mình. Tâm hồn ông trọn vẹn hướng tới sư bất tử của cái đẹp, cái “ thiên lương ” trong sáng. Lời khuyên nhủ của ông so với quản ngục đã biểu lộ ý niệm biện chứng của ông giữa cái tâm và cái tài, giữa cái đẹp và cái thiện. Trong nhân sinh quan cao vời của ông, người nghệ sĩ mê hồn cái đẹp trước hết phải là người phải biết đặt “ thiên lương ” lên vị trí tột cùng. Lời di huấn thiêng liêng ấy của Huấn Cao về thẩm mỹ và nghệ thuật, về đạo lí làm người đã được quan ngục bái lĩnh bằng toàn bộ tấm lòng chân thực của mình và người đời trân trọng lắng nghe .Có thể nói, cảnh ông Huấn Cao cho chữ là sự thắng lợi kiêu hùng của ánh sáng so với bóng tối, của “ thiên lương ” so với tội ác, của cái chân – thiện – mỹ đốì với cái xấu xa, thô bỉ. Hơn nữa, đó còn là hình tượng của việc tài hoa lên ngôi trong cảnh lao tù. Người tử tù đang tiến dần đến cõi chết, nhưng còn tài hoa của họ đang nhiệt huyết, từ tốn bước vào cõi bất tử, vĩnh hằng .Nhìn chung, vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao là vẻ đẹp lãng mạn, có sức chinh phục, cảm hóa mãnh liệt so với những con người có tấm lòng “ biệt nhỡn liên tài ” .Từ việc tìm hiểu và khám phá vài nét về vẻ đẹp hình tượng của nhân vật Huấn Cao tất cả chúng ta dễ thấy được chỗ thống nhất và độc lạ trong cách tiếp cận con người của Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng tháng Tám. Về nét chung ( tính thống nhất ) : Nguyễn Tuân vẫn tiếp cận con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Ông vẫn là ngòi bút tài hoa, uyên bác, lịch sự, vận dụng tri thức tổng hợp của nhiều ngành văn hóa truyền thống, thẩm mỹ và nghệ thuật khác nhau trong miêu tả và biểu lộ : điện ảnh, hội họa, điêu khắc .. Ông vẫn sử dụng vốn ngôn từ rất là tinh lọc, phong phú và đa dạng, độc lạ, giàu sang. Khả năng tổ chức triển khai câu văn xuôi đầy giá trị tạo hình, có nhạc điệu trầm bổng, biết co duỗi uyển chuyển. Mặt khác, những phép ví von, so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa, tượng trưng, đối ngữ, liệt kê … được nhà văn phối hợp vô cùng điêu luyện, về nét riêng ( tính độc lạ ) : Trước Cách mạng tháng Tám, con người Nguyễn Tuân hướng tới và ca tụng là những “ con người đặc tuyển, những tính cách khác thường ”. Các nhân vật ông Nghè, ông Cử, ông Huấn Cao ( Vang bóng một thời ), ông Thông phu, cô đào Tám ( Lư đồng mắt cua ) là những dẫn chứng sinh động. Sau Cách mạng tháng Tám, nhân vật tài hoa nghệ sĩ của Nguyễn Tuân hoàn toàn có thể tìm thấy ngay trong cuộc chiến đấu, lao động hàng ngày của nhân dân. Đó là anh bộ đội Tây Bắc ngụy trang bằng hoa đào, đuổi giặc giữa rừng đào. Đó là người chiến sỹ cộng sản Tô Hiệu trồng đào trong xà lim hay cô nhân quán Quảng Bình ngồi gác máy bay dưới gốc hoàng mai. Đó là những cô gái lái đò sông Đà trên những chiếc thuyền đuôi én cao ráo … Đặc biệt là ông lái đò sông Đà vượt thác sông Đà “ tay lái ra hoa ”. Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân là một người tài tử, thích chơi “ ngông ”, mắc cái bệnh ham mê thanh sắc, thích chiêm ngưỡng và thưởng thức, chắt chiu cái đẹp và nhấm nháp những cảm xúc mới lạ. Khi ấy, ở Nguyễn Tuân, phần nhiều cái gì cùng trở thành “ chủ nghĩa ” : chủ nghĩa hình thức, chủ nghĩa duy mĩ, chủ nghĩa xê dịch, chủ nghĩa hưởng lạc, chủ nghĩa cảm xúc, chủ nghĩa tài tử, chủ nghĩa ẩm thực ăn uống …, và bao trùm lên toàn bộ là chủ nghĩa độc lạ. Sau Cách mạng tháng Tám, nhà văn nhạy cảm với con người mới, đời sống mới từ góc nhìn thẩm mĩ của nó. Nhưng không còn là một Nguyễn Tuân “ thẩm mỹ và nghệ thuật vị nghệ thuật và thẩm mỹ ” nữa. Ông đã nhìn ra cái đẹp của con người dưới góc nhìn của những yếu tố xã hội ( Xòe ). Cụ thể là cái đẹp gắn với nhân dân lao động, với đời sống đang nảy nở sinh sôi ; đồng thời lên án, tố cáo chính sách cũ, khẳng định chắc chắn thực chất nhân văn hóa của chính sách mới .

Qua Người lái đò sông Đà và nhân vật người lái đò, ta thấy nổi lên một Nguyễn Tuân tài hoa độc đáo, uyên thâm, tâm huyết, có tấm lòng yêu thương, tự hào da diết về vẻ đẹp của thiên nhiên, con người miền Tây Bắc xa xôi của Tổ quốc. Ca ngợi sự gan góc, thông minh, dũng cảm, kiên cường, tài hoa nhân hậu của con người Việt Nam trong công cuộc lao động xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao. Người lái đò sông Đà thật sự là một bài ca lãng mạn, trong sáng, hào sảng về lao động và về vẻ đẹp của con người trong lao động.

Bài nghiên cứu và phân tích so sánh hai nhân vật ông lái đò và Huấn Cao đạt điểm cao

Nguyễn Tuân ( 1910 – 1987 ) được ca tụng là một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp của cuộc sống và viết lên những áng văn hay cho hậu thế. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, ý niệm cái đẹp của Nguyễn Tuân là những thứ chỉ còn Open trong quá khứ ở những bậc cao nhân tài hoa. Còn sau cách mạng với sự đổi khác của thời đại quan điểm cái đẹp của ông đã đổi khác gắn liền với đời sống thường nhật từ những gì dung dị nhất. Thông qua hai nhân vật Huấn Cao trong ” Chữ người tử tù ” và ông lái đò trong ” Người lái đò sông Đà ” ta thấy rõ nhất sự chuyển dời trong cảm hứng sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân .

Có thể nói, “Chữ người tử tù” được xem là truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Tuân trong gia đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Truyện ngắn này được trích ra từ tập “Vang bóng một thời” đây là tập truyện kể về những con người tài hoa giờ đã vang bóng một thời. Nhân vật chính của truyện là Huấn Cao người mang vẻ đẹp của một người nghệ sĩ tài hoa với khả năng viết chữ thư pháp đẹp nức tiếng gần xa. Ngay cả Viên quản ngục của một huyện nhỏ vô danh cũng biết: “Chữ ông đẹp lắm, vuông lắm…có được chữ ông Huấn Cao mà treo trong nhà là có một vật báu ở trên đời”. Cho nên sở nguyện của Viên quản ngục là một ngày kia ngôi nhà của ông sẽ được treo một đôi câu đối do chính tay ông Huấn Cao viết.

Huấn Cao không chỉ có tài viết chữ đẹp mà ông còn có một thiên lương trong sáng. Ông không khi nào ép mình cho chữ vì tiền hay vì quyền thế. Ông chỉ cho chữ những người biết trân quý cái đẹp cái tài. Cho nên suốt đời Huấn Cao mới chỉ viết hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn mà ông thương mến. Lúc đầu, ông tỏ ra khinh bạc viên quản ngục vì nghĩ rằng hắn định có thủ đoạn đen tối gì với mình khi biệt đãi trong phòng giam. Rồi từ từ Huấn Cao mới cảm nhận được tấm lòng ” biệt nhỡn liên tài ” của ông quản ngục và viên thơ lại. Họ là những người biết yêu cái đẹp thành tâm xin chữ Huấn Cao. Và để không phụ lòng viên quản ngục ông đã cho chữ ngay trong nhà lao. Nguyễn Tuân đã mô tả cảnh cho chữ là một cảnh tượng lâu nay chưa từng có .Nhân vật Huấn Cao không chỉ đẹp ở năng lực mà còn đẹp ở cái tâm và ý chí quật cường hiên nang của người quân tử. Ở ông có khí phách của người anh hùng mà không phải ai cũng hoàn toàn có thể có được. Thông qua nhân vật Huấn Cao, nhà văn Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm tin bất diệt vào những cái đẹp mang giá trị cao quý ngay cả trong những nơi tối tăm, dơ bẩn nhất vẫn tỏa sáng .Nếu như Huấn Cao được ví như anh tài xuất chúng được kiến thiết xây dựng trong thực trạng độc nhất vô nhị thì nhân vật ông lái đò lại có chút bình dị hơn. Trong tùy bút ” Người lái đò sông Đà ” của Nguyễn Tuân nhân vật ông lái đò được thiết kế xây dựng rất là chân thực qua việc làm ông làm. Ông lái đò là người có ngoại hình rất đặc biệt quan trọng với hai tay ” lêu nghêu “, chân ” khuỳnh khuỳnh “, giọng nói thì ” ào ào như tiếng nước trước mặt gềnh “, đôi mắt thì ” vòi vọi như khi nào cũng mong một cái bến xa nào đó ” … Với đặc thù ngoại hình như thế tất cả chúng ta thấy được rất tương thích với thiên nhiên và môi trường lao động trên sông nước của ông .Ông lái đò được Nguyễn Tuân miêu tả là một người rất tài trí và có phong thái thư thả pha chút nghệ sĩ. Ông là người làm nghề rất có tâm hiểu biết tường tận từng ngóc ngách của con sông cũng như tính nết của nó. Ông nhớ như đóng đanh vào lòng những luồng nước và toàn bộ những con thác hiểm chở. Nắm bắt được trận đồ binh pháp của thần sông, thần đá. Thuộc làu quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở. Đặc biệt, ông còn chỉ huy được những cuộc vượt thác một cách tài tình biết rõ từng cửa sinh, cửa tử mà vượt qua .Nguyễn Tuân miêu tả ông lái đò như một vị tướng hiên ngang ” tả xung hữu đột ” trước muôn trùng sóng nước của sông Đà. Ông là người rất gan góc biết chịu cái đau của thể xác do vật lộn với sóng to gió lớn để thắng lợi thác dữ bằng những động tác táo bạo và vô cùng chuẩn xác. Ta thấy ông lái đò được kiến thiết xây dựng như một nghệ sĩ thực thụ chứ không phải là một người lái đò thông thường .

Cả hai nhân vật Huấn Cao và ông lão lái đò đều được xây dựng bằng biện pháp lý tưởng hóa. Xuất phát từ cơ sở cái nhìn độc đáo của nhà văn Nguyễn Tuân. Ông nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ có thể làm nổi bật lên những vẻ đẹp phi thường trong tài năng, cốt cách của họ. Nhà văn đã đặt hai nhân vật vào những tình huống đầy thử thách để giúp họ bộc lộ được phẩm chất đáng quý của mình.

Nếu như khi kiến thiết xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân sử dụng tri thức nghệ thuật và thẩm mỹ thì kiến thiết xây dựng nhân vật ông lái đò nhà văn lại vận dụng nhiều vốn tri thức đời sống. Chính điều này đã khiến cho ngòi bút Nguyễn Tuân thuyết phục được nhiều đối tượng người tiêu dùng fan hâm mộ. Những tác phẩm văn chương của ông không chỉ đẹp về mặt ngôn từ còn có giá trị thẩm mỹ và nghệ thuật rất rực rỡ mà hậu thế phải công nhận.

Cảm nhận về hai hình tượng Sông Đà và Sông Hương trong tác phẩm "Ai đã đặt tên cho dòng sông" và "Người lái đò sông Đà"

Dàn ý Cảm nhận về hình tượng Sông Đà và Sông Hương

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường, hai tác phẩm và hình tượng dòng sông Đà và sông Hương.

2. Thân bài

a. Điểm giống nhau

- Hai con sông đều có vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội.

- Hai con sông đều mang vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình.

b. Điểm khác nhau

• Sông Đà

- Vẻ đẹp hung bạo: Cảnh vách đá hai bên sông dựng đứng như vách thành và ở quãng sông hẹp. Có vách đá chẹt dòng sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bên bờ này sang bên kia. Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời.

+ Cảnh ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng: Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà… Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.

+ Cảnh ở quãng Tà Mường Vát: Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống dòng sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cái cửa cống bị sặc... những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Nhiều thuyền bè gỗ đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút nước ấy nó lôi tụt xuống.

- Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình: Khi từ tàu bay nhìn xuống: Sông Đà “tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình... đốt nương xuân”. Sông đà đổi màu theo từng mùa một cách độc đáo: mùa xuân xanh ngọc bích, mùa thu đỏ.

+ Khi đi rừng lâu ngày bất ngờ gặp lại con sông: Niềm vui vô hạn của tác giả khi bất ngờ gặp sông Đà: “như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm”, “nối lại chiêm bao đứt quãng”, “như gặp lại cố nhân”. Sông Đà gợi cảm như một cố nhân, có vẻ đẹp như trò chơi trẻ con tinh nghịch, có vẻ đẹp Đường thi.

+ Khi đi thuyền trên sông phía hạ lưu: Cảnh thiên nhiên thi vị, mơn mởn: trôi qua một nương ngô “nhú lá non”, con hươu thơ ngộ, “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”. Sông Đà như một “người tình nhân chưa quen biết”.

→ Hình tượng sông đà vừa mang nét hung bạo lại vừa trữ tình thơ mộng. Qua hình tượng sông Đà đã thể hiện tình cảm của Nguyễn Tuân với thiên nhiên Tây Bắc.

• Sông Hương:

- Vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội:

+ Sông Hương lúc ở thượng nguồn được miêu tả chi tiết qua những hình ảnh so sánh, nhân hóa: như một bản trường ca của rừng già, như một cô gái Di – gan phóng khoáng man dại, như người mẹ phù sa của một nền văn hóa xứ sở.

+ Trong cuộc hành trình tìm kiếm người tình mong đợi, sông Hương dường như muốn giấu đi vẻ hoang dại nơi rừng già của mình để thay đổi diện mạo, hoàn thiện bản thân hơn trước khi đến gặp người yêu.

+ Sau khi ra khỏi vùng núi, sông Hương như nàng tiên được đánh thức, bừng lên sức trẻ và niềm khao khát của tuổi thanh xuân, uốn mình liên tục.

+ Ở ngoại vi thành phố, sông Hương mang vẻ đẹp cổ kính khi uốn mình qua những lăng tẩm của vua chúa.

- Vẻ đẹp thơ mộng trữ tình:

+ Khi về gặp thành phố Huế sông Hương vui tươi hẳn lên, tiếp tục uốn mình mềm mại.

+ Sông Hương khi đi qua thành phố đã trôi đi chậm, thật chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh.

+ Tác giả so sánh sông Hương như Điệu “slow tình cảm” dành cho Huế, trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy.

→ Sông Hương khi chảy qua thành phố đẹp trữ tình, thơ mộng, cổ kính, gần gũi, giản dị, sinh động, có tâm hồn và gắn bó với bản sắc văn hóa Huế.

+ Sông Hương chia tay thành phố đầy luyến tiếc, vấn vương. Sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông - tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ.

→ Dù phải ra đi nhưng sông Hương luôn nhớ về thành phố của nó, vẫn giữ trọn lời thề ân tình thủy chung với xứ này.

3. Kết bài:  Khái quát lại giá trị nội dung, nghệ thuật hai tác phẩm.

Qua vẻ đẹp tương đồng của 2 dòng sông, ta bắt gặp sự tương đồng độc đáo của 2 tâm hồn có tình yêu thiên nhiên tha thiết và niềm tự hào với vẻ đẹp của non sông đất nước Việt Nam.

Mỗi nhà văn đều có 1 phong cách nghệ thuật độc đáo trong việc thể hiện hình tượng các dòng sông, giúp người đọc có những cách nhìn phong phú, đa dạng về vẻ đẹp của quê hương, đất nước mình.

Cảm nhận về hình tượng Sông Đà và Sông Hương - Bài làm 1

Từ xưa đến nay thiên nhiên luôn là một nguồn cảm hứng vô tận với các nhà thơ, nhà văn làm đề tài sáng tác. Nếu như những thi nhân, văn nhân trung đại hướng tâm hồn mình với mây, hoa, tuyết, nguyệt, cầm, kì, thi, tửu - những thú vui tao nhã ở đời thì những tác giả hiện đại lại hướng ngòi bút của mình về cảnh sắc thiên nhiên của đất nước, của con người trong thời đại đổi mới.

Họ luôn tìm thấy trên quê hương có những vùng núi non tuyệt đẹp, những di sản thiên nhiên đáng để con người trân trọng, luyến lưu. Và sông nước chính là một trong những cảnh thiên nhiên tươi đẹp ấy, dòng sông với dòng nước chảy, với lịch sử hình thành cũng như những đặc điểm độc đáo về địa lí đã khơi gợi trong lòng các nhà văn những cảm xúc dạt dào nhất khiến họ phải cầm bút và sáng tạo nghệ thuật. “Người lái đò Sông Đà” –Nguyễn Tuân và “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” – Hoàng Phủ Ngọc Tường được ra đời từ chính sự thôi thúc trước cái đẹp của các nhà văn. Tuy được sáng tác ở những khoảng thời gian khác nhau nhưng ở cả hai tác phẩm đều tái hiện thành công vẻ đẹp trữ tình, đằm thắm của những dòng sông quê hương.

Viết về đề tài sông nước đã có nhiều bài thơ, bài văn rất thành công. Ta đã được chiêm ngưỡng một dòng sông mênh mông, hoang vắng, buồn man mác thấm đượm nỗi nhớ nhà trong “ Tràng giang” của Huy Cận hay một khung cảnh đìu hiu, cách biệt của thiên nhiên sông nước Kinh Bắc trong bài thơ “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm. Nếu những bài thơ trên chỉ là điều kiện, chỉ là cái cớ để các nhà thơ bày tỏ lòng mình thì đến với “Người lái đò sông Đà” và “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” người đọc mới cảm nhận được rõ nét về một tác phẩm viết về dòng sông thực sự. Dưới ngòi bút của các nhà văn hình ảnh dòng sông “độc bắc lưu” và hình ảnh dòng sông của xứ Huế mộng mơ hiện lên mang nhiều nét chung độc đáo.

Cả hai nhà văn đều khắc họa hình tượng dòng sông với vẻ đẹp, dáng vẻ phong phú, đa dạng ở nhiều khoảng thời gian, không gian, với điểm nhìn khác nhau. Dòng sông Đà trước tiên được Nguyễn Tuân có lúc nhìn ngắm như một người xa lạ, có lúc lại như một cố nhân thân thuộc; có khi ngắm nhìn sông Đà từ trên cao, khi lại tiến đến cận cảnh để nhận ra rõ hơn vẻ đẹp của nó. Về thời gian, sông Đà được nhà văn chiêm ngưỡng ở cả bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông - mỗi mùa lại đem đến cho tác giả những xúc cảm, ấn tượng riêng. Qua đó nhà văn muốn đưa đến cho người đọc một cái nhìn đa dạng, toàn diện về vẻ đẹp của con sông yêu thương. Với dòng sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng thể hiện thành công vẻ đẹp hoàn chỉnh về nhiều góc độ của nó. Nhà văn đã ghi lại được vẻ đẹp phong phú của sông Hương lúc ở thượng lưu, ở ngoại vi, ở giữa lòng thành phố Huế. Và như vậy dường như vẫn chưa đủ, ông còn mang đến cho người đọc một cái nhìn đầy đủ hơn về sông Hương qua vẻ đẹp trong lịch sử, cuộc đời và thi ca. Có thể nói, cả hai nhà văn đã tái hiện thật độc đáo và đa dạng vẻ đẹp của dòng sông gắn bó tha thiết với mình qua nhiều phương diện khác nhau. Chính điều đó đã tạo nên sức hấp dẫn, sự lôi cuốn cho người đọc, để lại trong họ nhiều ấn tượng đậm nét.

Để có được tác phẩm hay như vậy, để làm nổi bật được vẻ đẹp trữ tình của hình tượng dòng sông đó, tất cả đều phải trải qua ngòi bút tài hoa, uyên bác của các nhà văn. Ở mỗi nhà văn lại có cách diễn đạt và cảm nhận riêng, song họ lại bắt gặp, đồng điệu tâm hồn trong sự khả năng quan sát tinh tế thông qua những liên tưởng, so sánh đầy tính tạo hình, biểu cảm. Vẻ đẹp của dòng sông cũng vì thế mà càng đậm nét hơn, ấn tượng hơn. Cả hai con sông đều được ví như những người con gái trẻ trung mang trong mình những vẻ đẹp trong sáng, tinh khôi “ Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình; đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai” ; “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”… Bằng vốn hiểu biết phong phú, bằng sự liên tưởng, tưởng tượng độc đáo các nhà văn đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên miền sông nước với vẻ đẹp trữ tình đằm thắm tạo nên ấn tượng mạnh mẽ trong tâm hồn người đọc đồng thời làm sống dậy trong họ tình cảm yêu thương, niềm tự hào với vẻ đẹp của quê hương, xứ sở, của Tổ quốc.

Bên cạnh những nét chung độc đáo, vẻ đẹp trữ tình của hai con sông còn mang những nét riêng vô cũng đặc sắc. Đầu tiên là vẻ đẹp của dòng sông Đà. Con Sông Đà hùng vĩ dài trên năm trăm cây số, ở nơi thượng nguồn nó mang một vẻ đẹp hào hùng và thách thức, vậy mà vượt qua đoạn thượng nguồn dòng sông hoàn toàn mang bộ mặt khác: thơ mộng, trữ tình, thanh bình, yên ả; nó giống như một cô thiếu nữ xinh đẹp trút bỏ cái vẻ “đỏng đảnh” để trở về với vẻ đẹp dịu dàng lãng mạn của mình - một nét tính khác của Sông Đà được Nguyễn Tuân dùng ngòi bút tài hoa để miêu tả mang đậm chất chữ tình. Và cũng giống như con Sông Đà khi hung bạo, nó được con người luôn khát khao tìm kiếm cái đẹp kia miêu tả ở nhiều góc độ. Lúc thì nhà văn nhìn con sông từ trên tàu bay, từ trên cao, có lúc lại nhìn qua đám mây mùa xuân, khi nhìn qua đám mây mùa thu, có khi tác giả cảm nhận dòng sông bằng nỗi nhớ của cố nhân, gặp thì vui mừng, xa thì nhớ nhung. Cũng có khi bằng đôi mắt lịch sử, của hồi ức, của quá khứ và ở điểm nhìn, con Sông Đà lại có một vẻ đẹp khác nhau. Khát khao tìm đến một cái vẻ đẹp mới hoàn mĩ cùng bản tính của một người nghệ sĩ luôn mong muốn tìm kiếm sự mới lạ độc đáo đã khiến cho dòng Sông Đà trở nên sinh động “đóng đinh” vào trong lòng người đọc. Con sông Đày ghềnh thác tung bọt trắng xóa nhìn từ trên xuống ngoằng ngoèo như một cái dây thừng. Rồi có lúc nó lại giống như một thiếu nữ mà có lẽ nói đúng hơn là một tiên nữ giáng trần khiến cho người ta phải mê mẩn: “Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”.

Cũng giống như rất nhiều những câu văn sau đó nữa, câu văn ngân vang lên như một bài thơ, dòng sông giờ đây trở nên thật hiền lành, nó như một nét vẽ đẹp tô điểm cho bức tranh của núi rừng Tây Bắc. Và vẻ đẹp của Sông Đà không bao giờ nhàm chán. Ở mỗi thời điểm khác nhau người ta lại thấy Sông Đà trong một dáng vẻ, hình hài khác nhau: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn, bực bội gì mỗi độ thu về…” Dường như ở con sông Đà không có chỗ cho những cái sơ sài, tất cả đều phải là tuyệt đỉnh.

Không gian lắng đọng trong vẻ đẹp của “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông Đà”. Nguyễn Tuân đã gợi lên vẻ đẹp của sông Đà bằng hai từ “gợi cảm”. Và quả thực, vẻ đẹp thơ mộng của dòng sông khiến cho người ngoạn cảnh gặp lại có cảm giác “đằm đằm ấm ấm”, gợi biết bao thi vị. Trong vẻ đẹp của Sông Đà, họ phát hiện ra nó đẹp như một bức tranh đường thi vẽ cảnh “Yêu hoa tam nguyệt há Dương Châu “của lí Bạch. Vẻ đẹp như trang nghiêm trong mạch cổ Đường thi, vừa lắng đọng về một thời Lí, Trần, Lê vừa bâng khuâng cảm giác về sự sống đâm chồi nảy lộc: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ thời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra nhưng nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Vừa vượt qua ghềnh thác Sông Đà, ai nghĩ Sông Đà lại có một quãng sông lặng tờ đến vậy? ấy thế mà điều đó lại đang hiện hữu. Đến quãng sông này, Sông Đà như môt dòng sông vắt qua thời gian, như một chứng nhân im lặng đang âm thầm đóng góp vẻ đẹp của mình cho đất trời. Nhà văn đã để cho dòng cảm xúc dào dạt thốt lên thành lời đối thoại với thiên nhiên, bờ bãi ven sông. Dường như con người muốn hoà mình cùng cảnh vật để chiêm ngưỡng vẻ đẹp đầy sức cuấn hút của dòng sông. Bờ sông lúc này như biến thành một bờ cổ tích. Giữa con người và thiên nhiên có một mối chan hoà, giao cảm và đồng điệu tuyệt vời: “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông, bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến”. Cuộc đối thoại tưởng tượng của nhà văn khiến cho thiên nhiên hiện hình với tất cả vẻ hoang sơ của nó, dường như nằm ngoài những biến động, âm thanh của cuộc sống con người. Có lẽ ở nơi đây chỉ có thiên nhiên làm chủ vẻ đẹp của chính mình và con người chỉ đóng vai trò là một “ông khách” thưởng ngoạn cái đẹp. Giữa con người và thiên nhiên có một mối quan hệ hòa hợp, thân thiện. Mọi chuyển động dường như đều cố gắng để không làm ảnh hưởng đến cái dòng chảy tĩnh lặng như thời tiền sử ấy. Quá khứ và hiện tại đan xen khẳng định vẻ đẹp bất biến theo thời gian.

Ngòi bút và ngôn ngữ của Nguyễn Tuân tràn đầy âu yếm và nâng niu. Mỗi câu chữ đều quyện chặt tình yêu với con sông thể hiện sinh động qua biện pháp nhân hóa. Màu sắc và hình ảnh hiện lên đẹp như một bức tranh. Nhà văn đã khiến cho bức tranh ấy mang một vẻ đẹp hoàn hảo, độc đáo và đầy ấn tượng. Có dòng sông, có nước sông, có cảnh vật hai bên bờ sông nhưng đó phải là con sông như một áng tóc trữ tình, bờ sông như một bờ tiền sử, như một nỗi niềm cổ tích ngày xưa. Sông Đà đẹp! đó là điều không thể phủ nhận. Nhưng với Nguyễn Tuân dòng sông mang một vẻ đẹp hoàn mĩ. Nó không chỉ đơn giản là một dòng sông chảy tràn qua núi rừng Tây Bắc mà trở thành một sinh thể sống động, một linh hồn tinh tế và nhạy cảm. Dòng sông Đà hùng vĩ, hiểm trở là kẻ thù, là thách thức, là một kẻ “hằng năm đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người” ; vượt qua đoạn thượng nguồn nó đã trở thành một cố nhân. Và khi trước cảnh: “Dải Sông Đà bọt nước lênh đênh - Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” Sông Đà trở thành “người tình nhân chưa quen biết”… Cứ thế, bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Tuân dẫn dắt người đọc chiếm lĩnh vẻ đẹp của con sông bằng tất cả niềm say mê, tình yêu với sông núi, giang san. Nhà văn đã hát lên những lời ngợi ca say sưa về vẻ đẹp trữ tình tuyệt vời của Sông Đà như một khúc ca hùng tráng, ngập tràn yêu thương đối với một vùng thiên nhiên tươi đẹp của đất nước.

Đến với dòng sông của xứ Huế thơ mộng, như một “hướng dẫn viên du lịch” tài năng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem đến cho người đọc một cái nhìn vô cùng toàn diện nhưng không kém phần hấp dẫn về vẻ đẹp trữ tình của sông Hương. Ở thượng nguồn sông Hương mang vẻ đẹp huyền bí, chẳng phải ngẫu nhiên nhà văn lại gọi dòng sông như một “bản trường ca của rừng già”. Ở nơi khơi nguồn của dòng chảy, gắn liền với đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, con sông toát lên vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, vừa hùng vĩ, vừa trữ tình như một bản trường ca bất tận của thiên nhiên.

Tại nơi rừng đại ngàn sông Hương “như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại” đây là một liên tưởng thú vị và độc đáo. Với hình ảnh so sánh này, nhà văn đã khắc vào tâm trí người đọc một ấn tượng mạnh mẽ về vẻ đẹp hoang dại nhưng cũng rất tình tứ của con sông. Không những thế tác giả còn nhân hóa dòng sông khiến nó hiện lên như một con người có cá tính, tâm hồn “rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”. Ra khỏi rừng già, sông Hương trở thành một “người mẹ phù sa” của một vùng văn hóa xứ sở. Nó không chỉ giúp người đọc có thêm một góc nhìn, một sự hiểu biết về vẻ đẹp hùng vĩ, man dại, đầy chất thơ của sông Hương mà còn mang đến một cái nhìn sâu sắc hơn muốn ghi công: sông Hương như một đấng sáng tạo đã góp phần tạo nên, gìn giữ và bảo tồn văn hóa của một vùng thiên nhiên, xứ sở. Sông Hương chính là một khởi nguồn, một sự bắt đầu của một không gian văn hóa- văn hóa Huế.

Khi ở ngoại vi thành phố Huế nhà văn đã cảm nhận “sông Hương như một người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” được người tình mong đợi đến đánh thức. Từ đây thủy trình của con sông khi nó bắt đầu về xuôi tựa như một cuộc tìm kiếm có ý thức trong một câu chuyện tình yêu lãng mạn, nhuốm màu cổ tích. Dòng sông lúc này mang một dáng vóc mới đầy khát khao và lãng mạn “sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Hành trình đến với “người tình mong đợi” của “người gái đẹp” khá gian truân và nhiều thử thách khi nó phải vượt qua một loạt chướng ngại vật: điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán… nhưng chính trong quá trình ấy nó lại có cơ hội khoe tất cả vẻ đẹp của mình - vẻ đẹp gợi cảm với những đường cong tuyệt mĩ. Hoàng Phủ Ngọc Tường còn thấy được ở dòng sông này một vẻ đẹp khác nữa sâu lắng hơn, bí ẩn hơn đó là vẻ trầm mặc như triết lí, như cổ thi của sông Hương đi giữa thiên nhiên. Sông Hương cũng chuyển mình ngày đêm bên những lăng tẩm thành quách của vua chúa thời Nguyễn, con sông hiền hòa ở ngoại vi thành phố Huế như đang nép mình bên giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa phong kín trong lòng.

Đến khi sông Hương đổ vào thành phố tương lai của nó, “nó đã kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam - đông bắc…, nó đã thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như vành trăng non”. Nhà văn đã dành cho sông Hương một tình cảm trìu mến, thân thương. Có như vậy, ông mới liên tưởng trạng thái sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang cồn Hến như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Đôi mắt sâu sắc của nhà văn đã nhìn ra mối quan hệ biện chứng giữa dòng sông Hương mềm mại với con người xứ Huế. Sông Hương dịu dàng, duyên dáng như đã góp phần hình thành nên tính cách nết na, ý nhị của người con gái cố đô. Với một trình độ văn hoá uyên bác, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã so sánh vẻ đẹp của sông Hương với nhiều dòng sông nổi tiếng thế giới như sông Xen của Pa ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, sông Nê-va của Nga,… Từ đó mà ông đã tôn vinh vẻ đẹp độc đáo của dòng sông Hương vào buổi đêm về, “vẫn lập lòe trong đêm sương, những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được”. Nhà văn quý điệu chảy lững lờ của sông Hương qua thành Huế. Ông cho rằng “Đây là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy… chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng.”

Có thể nói rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là một nhà văn hoá Huế thực sự, ông không chỉ nhìn sông Hương trôi ở trong hiện tại, ngày ngày mang phù sa và nguồn nước ngọt trao tặng vô tư cho những cánh đồng Châu Hóa, cho cuộc sống người dân xứ Huế; mà ông còn nhìn sông Hương như là khởi nguồn cho những giá trị tinh thần lịch sử. Sông Hương trong quá khứ qua các triều đại phong kiến vàng son, nó đã từng mang cái tên Linh giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam Tổ quốc nước Đại Việt. Nó đã từng vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của anh hùng Nguyễn Huệ, rồi nó đi suốt qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ góp phần làm nên những chiến công lẫy lừng vang dội cả thế giới như lời đại tướng Võ Nguyên Giáp đã phát biểu: “Lịch sử Đảng đã ghi bằng nét son tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc”.

Từ hiện thực kiêu hùng của Huế, mà Hoàng Phủ Ngọc Tường cho rằng: “Sông Hương là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết dưới màu cỏ lá xanh biếc”. Mặt khác, sông Hương cũng là cội nguồn của thi ca nghệ thuật. Có biết bao văn nhân, thi sĩ đã từng rung động với dòng sông Hương như Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Tản Đà, Tố Hữu. Nhà văn đã tin rằng “có một dòng sông thi ca về sông Hương và tôi hy vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”. Cao Bá Quát đã từng nhìn sông Hương mà thốt lên rằng: “Trường giang như kiếm lập thanh thiên”. Thu Bồn nhìn dòng nước lững lờ của sông Hương mà bâng khuâng:

“Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”

Và với Nguyễn Trọng Tạo, Hương Giang lãng đãng một bầu khí quyển huyền thoại thi ca giúp nhà thơ thăng hoa những vần thơ mê đắm:

“Con sông đám cưới Huyền Trân
Bỏ quên dải lụa phù vân trên nguồn
Hèn chi thơm thảo nỗi buồn
Niềm riêng nhuộm tím hoàng hôn đến giờ
Con sông nửa thực nửa mơ
Nửa mong Lí Bạch, nửa chờ Khuất Nguyên”

Qua những trang kí tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường sông Hương hiện ra với những vẻ đẹp dịu dàng, tinh tế, góp phần làm cho Huế trở nên một bức tranh sơn thuỷ hữu tình. Hơn thế, sông Hương còn là dòng sông lịch sử, văn hoá, thơ ca, nghệ thuật. Nó đã là một phần trong đời sống tâm linh của người Huế trầm mặc, sâu sắc.

Cùng là vẻ đẹp trữ tình, cùng được thể hiện qua ngòi bút tài hoa, uyên bác nhưng ở sông Đà, Nguyễn Tuân chủ yếu thể hiện vẻ đẹp hoang dại của thiên nhiên nhằm thỏa mãn thú ham xê dịch, còn sông Hương lại tập trung tái hiện vẻ đẹp văn hóa giàu chất trữ tình của dòng Hương giang. Sông Đà được miêu tả từ góc nhìn địa lí còn sông Hương lại được nhìn trên phương diện văn hóa, lịch sử. Tất cả điều đó đã tạo nên một ấn tượng độc đáo riêng của mỗi tác giả trong tâm hồn bạn đọc; đồng thời mang đến cho họ một cái nhìn mới mẻ, đa dạng về vẻ đẹp của thiên nhiên Tổ quốc.

Qua hai tác phẩm “Người lái đò Sông Đà”- Nguyễn Tuân và “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”- Hoàng Phủ Ngọc Tường, ta có thể cảm nhận thật rõ nét vẻ đẹp trữ tình đầy thơ mộng, hấp dẫn của hai con sông quê hương. Nó không chỉ mang nét đẹp của thiên nhiên mà nó còn mang nhiều giá trị văn hóa, địa lí, lịch sử độc đáo. Qua đó thể hiện vẻ đẹp đa dạng, phong phú của cảnh sắc quê hương, bộc lộ tình yêu thiết tha, gắn bó với đất Việt của các nhà văn.

Cảm nhận về hình tượng Sông Đà và Sông Hương - Bài làm 2

Viết về dòng sông, không ai dài hơi và độc đáo như Nguyễn Tuân với con sông Đà hung bạo và trữ tình, thâm hiểm mà bao dung. Hoàng Phủ Ngọc tường cũng góp vào đề tài ấy một hình ảnh con sông Hương hiền hòa và man dại, dịu dàng mà cuồng nhiệt, không kém phần đặc sắc. Trong dòng chảy bất tận, người đọc nhận thấy sông Hương sông Đà có những điểm hợp lưu kì thú.

“Độc đáo” là những nét riêng biệt, khác lạ được thể hiện qua cách nhìn cũng như nghệ thuật miêu tả của nhà văn. Hai bài kí “Người lái đò sông Đà” và “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” đã xây dựng được những hình tượng dòng sông mang những nét độc đáo đầy hấp dẫn, thú vị.

Trong đoạn trích “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân tập trung tô đậm nét hung bạo, dữ dội của sông Đà, hình dung dòng sông ấy như kẻ thù hiểm độc và hung ác. Trước hết, nét hung bạo ấy có thể thấy rõ qua diện mạo khác thường của dòng sông. Đó là cảnh “đá bờ sông dựng đứng vách thành” mà “mặt sông chỉ đúng lúc ngọ mới có mặt trời”, vách đá chen lòng sông như một cái “yết hầu” hay “có chỗ con nai con hổ có thể vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia”. Một nét đẹp thực hùng vĩ của bờ đã ven sông Đà! Cùng với đó là hình ảnh của sóng nước trên mặt ghềnh Hát lóng“dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”.

Trong tùy bút “Sông Đà”, Nguyễn Tuân đã có biệt tài miêu tả gió và ở đây để tả gió ông đã sử dụng từ ngữ vô cùng độc đáo “gùn ghè”. Ta tự hỏi sao tác giả không dùng chữ“gầm ghè” mà lại phải là “gùn ghè”? Đọc câu văn tên ta cảm nhận được cái “gùn ghè”ấy vừa mang sắc thái “gầm ghè” vừa gợi được thời gian dài đắng đẵng tạo nên sự ám ảnh da diết, ám ảnh về hinh tượng con sông Đà đầy hung bạo.

Và điều đặc biệt khiến người đọc không thể bỏ qua đó là những cái hút nước sông Đà đầy dữ dội: “Trên sông bỗng có những cái hút nước, giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”. Xen lẫn vào đó có cả những ấn tượng đáng sợ: “Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ… Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô lí là những cái giếng ấy nó lôi tuột xuống… thuyền trồng cây chuối ngược rồi vụt biến đi”.

Nhà văn cho người đọc thêm một góc nhìn khi đặt mình vào vị trí một nhà quay phim để thấy hết cảm giác về những hút nước dữ dội ấy. Con sông Đà hung bạo bởi những thác nước dữ dội khiến người ta sợ hãi khi nghe tiếng nước từ xa rồi nhìn thấy khi đến gần. Từ xa là những âm thanh đặc biệt: “Tiếng thác nước nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, như là khiêu khích”. Khi đến gần “nó rống lên như một nghìn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng nứa nổ lửa”.

Âm thanh được tái hiện hết sức cuồng nộ cho thấy rõ “cái ngông” trong bút pháp nghệ thuật của nhà văn, trong sở thích khám phá những cảm giác mạnh. Độc đáo hơn khi sông Đà được miêu tả với vẻ đẹp hung bạo thể hiện qua tâm địa. Đá sông Đà vốn do thiên tạo nhưng con mắt nghệ sĩ của Nguyễn Tuân, nó còn biết bày thạch thủy trận. Con sông Đà vốn là sự vật vô tri bỗng thành binh tướng dũng mãnh, thành loài thủy quái khổng lồ. Qua sự miêu tả ấy của nhà văn đã là nổi bật lên sự tài hoa, tài trí của người lái đò. Mỗi lần vượt thác của ông là mỗi lần ông phải chiến đấu mạnh mẽ với thần sông, thần đá.

Khác với Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường tự chọn cho mình lối chơi “độc bạch”, thiên nhiều về tư duy hướng nội, lắng đọng suy tư để miêu tả hình tượng sông Hương. Chính vì thế, sông Hương được tô đậm ở nét trữ tình, thơ mộng, gợi cảm và nữ tính, luôn mang dáng vẻ của một người con gái xinh đẹp, mong manh có tình yêu say đắm.

“ở thượng nguồn sông Hương như một cô gái Di gan phóng khoáng và man dại… rừng già đã hun đúc cho nó bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và phóng khoáng”. Tác giả đã miêu tả sông Hương ở thượng nguồn với sức sống mãnh liệt, hoang dại nhưng cũng dịu dàng, say đắm. Dòng sông đã được thổi bằng ngọn gió tâm hồn dạt dào, nhạy cảm, liên tưởng tự do, phong phú. Khi ra khỏi rừng, sông Hương được thay đổi tính cách “sông như chế ngự được bản năng con gái để mang một vẻ đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa cho một vùng văn hóa xứ sở”.

Sông Hương đã trở thành niềm tự hào của Huế vì vậy khi nhắc về nó thông thường người ta hình dung đến gương mặt kinh thành đầy trữ tình như Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tìm tận về nguồn cội để phát hiện bản chất của cô gái Di – gan, sự cá tính mạnh mẽ, bản lĩnh, gan dạ vững vàng… Đó là một phát hiện đấy lí thú về một dòng sông quen thuộc. Miêu tả sông Hương, nhà văn không nhìn nhận nó trong tư thế độc lập mà đặt trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với kinh thành Huế. Dòng sông mang linh hồn và cảm xúc như một tình nhân trên hành trình tìm kiếm tình yêu đích thực.

Qua đoạn chảy xuôi tìm đường trở về thành phố, sông Hương đã vượt qua những giới hạn khắc nghiệt để chứng tỏ tình yêu với Huế. Nó lặng lờ, duyên dáng qua những khúc chuyển mình đầy mềm mại. “Nó kéo một nét thẳng thực yên tâm”, “nó uốn một cánh cung nhẹ sang cồn Hến như một tiếng vân không nói của tình yêu”.

Đã có bao đêm sông Hương tình tự bên thành phố thân yêu của mình để rồi đến lúc phải rời đi nó lại chẳng muốn chia xa mà bịn rịn, quyến luyến. Sông Hương gặp lại thành phố Huế ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ như để nói một lời thề chung thủy với mảnh đất cố đô. Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông Hương thành giọng hò dân gian, là tấm lòng của người dân Châu Hóa xưa mãi chung tình với quê hương, xứ sở. Một cái nhìn nghệ sĩ tài hoa, đa tình mà có lẽ chỉ riêng Hoàng Phủ Ngọc Tường mới có được!

Có thể thấy cả hai nha nhà văn đều xuất phát từ chỗ ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên qua hình tượng dòng sông nổi tiếng đã từng là nguồn cảm hứng của nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng. Đó là lí do hai tác phẩm có thật nhiều nét tương đồng.

Trước hết, sông Đà và sông Hương đều được các tác giả miêu tả như một nhân vật trữ tình có tâm hồn, tích cách với những đặc trưng riêng biệt. Sông Đà vốn được biết đến là một con sông dữ dội lắm thác nhiều ghềnh nhưng dưới ngòi bút tài hoa, yêu thích cái đẹp của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên như kẻ thù số một của con người. Đá sông biết bày thạch thủy trận chiến đấu với người lái đò, biết sử dụng binh pháp, mưu lược để lật đổ những chiếc thuyền. Có khi sông Đà lại được nhìn như người con gái với mái tóc dài duyên dáng, yêu kiều.

Cùng với đó, sông Hương được Hoàng Phủ Ngọc Tường khắc họa như một người con gái, người mẹ phù sa, người tình với Huế. Sông Hương cùng với dòng chảy của nó như những nét tâm trạng không nói nên lời trong tình yêu của người con gái. Chính vì vậy mà người đọc mỗi trang văn dù miêu tả thiên nhiên nhưng ta vẫn thấy thấm đượm hồn người sâu sắc.

Không chỉ vậy, cả hai dòng sông đều được nhìn nhận, đánh giá ở hai phương diện đối lập hung bạo – trữ tình để thấy chúng là những sinh thể thống nhất. Bên cạnh vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội trước đó, sông Đà cũng mang những nét thơ mộng, trữ tình đầy mới lạ.

Nhìn từ trên cao xuống “con sông tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói Mèo đốt nương xuân”. Mảnh đất uốn lượn nơi đầu nguồn Tây Bắc đã gợi liên tưởng đến dáng hình người thiếu nữ với mái tóc dài thướt tha. Màu nước sông Đà thay đổi theo mùa: “mùa xuân dòng xanh màu ngọc bích, mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”.

Nhà văn đã cảm nhận sông Đà bằng cả niềm yêu nước và tự hào dân tộc. Cảnh đẹp bên bờ sông trầm mặc và cổ kính. Với vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình ấy, Nguyễn Tuân đã khéo léo đặt cho con sông một cái tên đầy ý vị “tình nhân chưa quen biết”.

Cũng như sông Đà, sông Hương trước khi mang vẻ đẹp trữ tình, lãng mạn, nó đã vô cùng dữ dội ở phía thượng nguồn. Bắt nguồn từ Trường Sơn hùng vĩ, nơi có rừng già, vực sâu, ghềnh thác, cây cối rậm rạp,… bởi vậy giống như bao dòng sông khác chảy qua đại ngàn, sông Hương có lưu tốc rất mạnh. Tác giả cho rằng “nếu chỉ ngắm khuôn mặt kinh thành sẽ không hiểu bản chất sông Hương, phần tâm hồn sâu thẳm của nó bởi dòng sông đã tự giấu mình, đóng kín ở cửa rừng…”. Nơi đầu nguồn của dòng chảy, dòng sông ấy đã từng là một bản trường ca của rừng già trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm. Vậy mới thấy được dù độc đáo nhưng sông Đà, sông Hương vẫn có điểm hợp lưu.

Một đặc điểm biệt không thể không kể đến đó là ngòi bút miêu tả tài hoa, uyên bác của hai nhà văn khi viết về hai dòng sông. Cả hai đều được miêu tả trên phương diện văn hóa, thẩm mĩ. Sông Đà là nơi hội tụ hai nét đẹp tiêu biểu, đặc trưng của thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, dữ dội vừa trữ tình, nên thơ.

Còn sông Hương, đó còn là dòng sông của âm nhạc, dòng sông của thi ca, lịch sử gắn liền với những nét đặc sắc về văn hóa, vẻ đẹp của người dân xứ Huế. Người đọc còn được thưởng thức và chiêm ngưỡng cái đẹp trên nhiều lĩnh vực qua ngòi bút đầy uyên bác của nhà văn. Từng khía cạnh được miêu tả đều cho thấy vốn tri thức phong phú, sâu sắc. Tất cả làm nên vẻ đẹp ấn tượng đặc sắc cho mỗi tác phẩm.

Vậy do đâu mà ở cả hai hình tượng dòng sông lại có những điểm chung và nét riêng độc đáo ấy? Phải chăng bởi tấm lòng say mê trước vẻ đẹp đất nước, tự hào trước thắng cảnh non sông mà hai nhà văn đã thấy ở hai dòng sông đó nhiều điểm chung như vậy? Cùng với đó, cá tính sáng tạo của mỗi nhà văn đã khiến cho hai tác phẩm dù có chung đề tài nhưng vẫn mang những nét độc đáo hấp dẫn riêng không thể trộn lẫn. Một nghệ sĩ lãng tử ham xô dịch, ưa cảm giác mạnh; một triết nhân lịch lãm. Họ như vắt kiệt cả “bầu máu nóng”, đem cả tâm hồn và tài năng của mình để viết nên những áng văn chương còn mãi với muôn đời.

Cùng đổ ra biển lớn, cùng hòa nước vào đại dương mênh mông nhưng chắc chắn người đọc sẽ không thể nào quên những hành trình riêng mà sông Đà, sông Hương đã chảy trong thế giới văn học. Chính những điểm gặp gỡ ấy càng làm nổi bật nét riêng độc đáo của mỗi hình tượng, mỗi nhà văn; nét độc đáo làm nên sức sống và linh hồn cho tác phẩm.

Cảm nhận về hình tượng Sông Đà và Sông Hương - Bài làm 3

Đề tài những dòng sông luôn trở đi trở lại trong biết bao nhiêu trang thơ trang văn của những người nghệ sĩ. Nếu như con sông Hồng được miêu tả trong tứ thơ Tràng Giang của Huy Cận thì một lần nữa hình ảnh những dòng sông lại được Nguyên Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường chọn để làm nên hai tác phẩm đó là Người lái đò sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông? Qua đó vẻ đẹp của hai con sông Đà và sông Hương xứ Huế được hiện lên thật đẹp và nên thơ. Có thể nói ngoài vẻ đẹp hung bạo và rậm rộ như bản trường ca của rừng già của hai dòng sông thì chúng ta còn thấy được vẻ đẹp trữ tình đầy thi vị của chúng.

Trước hết những con sông Việt Nam hiện lên qua vẻ đẹp của sông Đà và sông Hương qua vẻ đẹp về hình dáng. Vẻ đẹp ấy được bút pháp và tài nghệ của hai nhà văn tài hoa ấy thể hiện rất tinh tế và làm cho người đọc liên tưởng được những hình ảnh hấp dẫn.

Trước hết là hình dáng sông Đà, với sự tài hoa uyên bác của mình nhà văn Nguyễn Tuân đã mang đến trước mắt ta những vẻ đẹp vô cùng đẹp của con sông chỉ chảy riêng một hướng đó. Chính vẻ đẹp trữ tình của nó đã làm đẹp hơn và lấn át đi những vẻ đẹp hung bạo kia. Có thể nói vẻ đẹp hung bạo của nó khiến cho người ta khiếp sợ bao nhiêu thì vẻ đẹp trữ tình này lại khiến cho người đọc yêu nó, say cái đẹp của nó bấy nhiêu.

Sông Đà từ trên cao nhìn xuống nó mang vẻ đẹp của một người thiếu nữ Tây Bắc. Nhìn từ trên cao ấy sông Đà "tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình... đốt nương xuân". Phải chăng đó chính là mái tóc của người thiếu nữ Tây Bắc đẹp như làn nước vậy. Đặc biệt từ trên cao xuyên qua những đám mây ấy nhìn xuống vẻ đẹp ấy thật sự giống như mái tóc mượt mà của người con gái xứ Hoa Ban ấy. Không những thế mái tóc ấy còn hiện lên đẹp hơn khi "Đầu tóc chân tóc ẩn hiện trên mây trời Tây Bắc". Hình ảnh mang đến cho ta một sự hấp dẫn và nên thơ lạ thường. Con sông hung bạo với những trận bày thạch đá ấy, những thác nước dữ tợn ấy mà giờ đây lại hiền hòa như mái tóc của người con gái vậy. Thế rồi tác giả quan sát kĩ nhìn dòng sông cũng giống cả một dây thừng ngoằn nghèo nữa. Đó chính là vẻ đẹp thướt tha kiều diễm của sông Đà.

Không những thế sông Đà còn như một người cố nhân lâu ngày gặp lại chốc hiền hòa rồi lại bất ngờ cáu kỉnh lên đấy thôi. Tác giả vẽ lên những hình ảnh của người cố nhân ấy, nó mang vẻ đẹp như "vui như nắng giòn tan sau kì mưa rầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng". Có thể thấy với bút pháp tài hoa của mình Nguyên Tuân đã mang đến cho người đọc một người cố nhân đẹp.

Sông Đà còn trữ tình khi từ lòng sông nhìn sang hai bên bờ. Nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp ấy đã mang đến cho ta những hình ảnh con sông Đà thật hoang sơ cổ kính. Nhìn "bờ sông hoang sơ như một bờ tiền sử, hồn nhiên như nỗi niềm thuở xưa". Không những thế mà bờ sông còn hiện lên yên ắng lặng lẽ như tờ. Dường như từ thời nhà lí nhà Trần cũng yên lặng đến thế mà thôi. Nó còn hiện lên với vẻ đẹp tươi tắn của những lá nương ngô mới nhú đầu mùa, cỏ quanh đồi đang ra những nõn búp mới. Qua đây ta thấy sông Đà hiện lên thật hoang sơ cổ kính, cái vẻ đẹp ấy có từ thời rất xa xưa đến nay vẫn còn nguyên.

Đến con sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng mang đến cho chúng ta một nét đẹp của nó không kém phần sông Đà. Sông Hương xứ Huế cũng có những nét đẹp hung bạo nhưng nhà thơ không nói đến nó quá nhiều mà tập trung vào vẻ đẹp trữ tình của nó. Trước khi về đến thành phố thì dòng sông Hương cũng đã là một bản trường ca của rừng già, nó đi qua những bãi đỗ quyên đỏ rực.

Trước hết vẻ đẹp ấy giống như một cô gái Di-gan phong khoáng và man dại, nó dịu dàng đằm thắm hơn bao giờ hết. Nó không còn là bản trường ca của rừng già nữa mà nó mang vẻ đẹp của sụ hiền lành đáng yêu. Không những thế nó còn mang vẻ đẹp của người mẹ phù sa nơi đây. Sông mang về những phù sa màu mỡ để mang đến cho những cánh động Châu Hóa kia.

Tiếp theo vẻ đẹp của dòng sông Hương còn được thể hiện khi nó vào ngoại vi thành phố. Nhìn sông Hương "như người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy cỏ dại". Sông Hương cũng giông sông Đà mang một nét đẹp của người con gái. Thế nhưng ở đây sông Hương mang không đẹp như mái tóc người con gái mà đẹp bởi những đường cong quyến rũ. Để vào được đến thành phố sông Hương phải trải qua không biết bao nhiêu đoạn gấp khúc quanh co qua những đồi thiên Mụ... Và chính những đường gấp khúc ấy nó đã tạo nên những đường cong đẹp đẽ cho sông Hương.

Vẻ đẹp thứ hai của cả hai con sông đó chính là màu sắc. Những sắc nước ấy đã mang lại những điều tuyệt đẹp cho sông Việt Nam.

Với sông Đà thì sắc nước thay đổi theo mùa. Mùa xuân sắc nước sông Đà xanh màu xanh ngọc bích. Mùa thu nước sông Đà "lừ lừ chín đỏ như mặt của một người bầm đi vì rượu bữa" hay là tức giận ai điều gì. Sông Đà chưa bao giờ có màu đen như Pháp đã lếu láo đặt tên nó trên bản đồ.

Còn sắc nước sông Hương biến đổi theo ngày sớm xanh trưa vàng chiều tím. Đó là những màu sắc đi liền với Huế. Chính vị thế mà ngay cả màu của sông cũng mang hồn Huế.

Qua đây ta thấy cả hai nhà văn đều mang đến cho chúng ta những vẻ đẹp của hai con sông ấy. Qua những câu văn đầy tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân ta thấy được một vẻ đẹp vô cùng trữ tình của con sông Đà Tây Bắc, và cũng như thế chúng ta cũng biết thêm những nét đẹp của con sông Hương qua bút pháp miêu tả tài tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tóm lại vẻ đẹp của những con sông ấy hay chính là những vẻ đẹp của những con sông Việt Nam.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tài liệu của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
10 64.376
0 Bình luận
Sắp xếp theo