Top 13 bài phân tích diễn biến tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc

Diễn biến tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc

Diễn biến tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng Dầu theo giặc trong truyện ngắn Làng đã được nhà văn Kim Lân miêu tả rất chi tiết. Qua tác phẩm người đọc có thể cảm nhận được lòng yêu nước sâu sắc của nhân vật ông Hai. Sau đây là một số bài văn mẫu phân tích diễn biến tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc hay và chi tiết sẽ giúp các bạn học sinh có thêm ý tưởng khi làm bài.

Phân tích diễn biến tâm trạng ông Hai - Ông Hai là một người nông dân yêu nước trong truyện ngắn Làng của Kim Lân. Tâm trạng ông Hai trước khi nghe tin làng theo giặc được tác giả miêu tả qua những chi tiết như ông rất hay khoe làng, lúc nào ông lão cũng vui sướng khi nghe được các tin về làng và bộc lộ tình yêu làng sâu sắc. Tuy nhiên tâm trạng của ông Hai từ khi nhận tin làng mình theo giặc đã được tác giả miêu tả qua những chi tiết đối lập với lúc trước. Ông lão sửng sốt rồi trải qua tâm trạng tủi hổ, bao nhiêu điều tự hào về quê hương như sụp đổ. Có thể thấy Kim Lân đã rất tài tình khi khắc họa những diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai để làm nổi bật lên tình yêu nước, yêu làng quê tha thiết của người nông dân nghèo.

Diễn biến tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng Dầu theo giặc

1. Dàn ý diễn biến tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng theo giặc

I) Mở bài:

Kim Lân là nhà văn chuyên viết về cuộc sống nông thôn.

Một trong những tác phẩm của ông là truyện ngắn Làng với nhân vật chính là ông Hai – một người phải rời làng của mình để đến nơi tản cư.

II) Thân bài:

* Luận cứ 1: Tình yêu làng

- Niềm tự hào, kiêu hãnh của ông hai về làng của mình

- Dù đã rời làng nhưng ông vẫn:

  • Nghĩ về làng của mình, nghĩ về những buổi làm việc cùng anh em
  • Lo lắng, nhớ đến làng: “Chao ôi! Ông lão nhớ cái làng này quá”

* Luận cứ 2: Tâm trạng của ông hai khi nghe tin làng chợ Dầu đi theo giặc:

  • Cổ ông nghẹn, giọng lạc hẳn đi.
  • Lúc đầu ông không tin nên hỏi lại.
  • Ông quá xấu hổ nên đã chép miệng, đánh trống lảng: "Hà, nắng gớm, về nào… " rồi cúi mặt mà đi.
  • Khi về nhà, ông nằm vật ra giường. Tối hôm đó thì trằn trọc không ngủ được.
  • Ông nhìn đám trẻ ngây thơ mà bị mang tiếng việt gian rồi khóc.
  • Ông điểm lại mọi người trong làng nhưng thấy ai cũng có tinh thần cả nên ông vẫn không tin lại có ai làm điều nhục nhã ấy.
  • Lo sợ sẽ bị bà chủ nhà đuổi vì ông biết rằng nơi đây ai cũng khinh bỉ và không chứa chấp Việt gian.

III) Kết bài:

Ông hai là một người rất rất yêu làng và yêu nước của mình.

Hai điều trên đã được tác giả làm rõ qua cách xây dựng nhiều tình huống truyện khác nhau, miêu tả tâm lí nhân vật qua những cuộc đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm đa dạng.

2. Sơ đồ tư duy Phân tích tâm trạng nhân vật ông Hai

Phân tích diễn biến tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc

3. Tâm trạng ông Hai từ khi nhận tin làng mình theo giặc diễn biến như thế nào?

Ông Hai là một nông dân chất phác. Ông có tình yêu với làng quê và luôn tự hào về làng Chợ Dầu của mình. Chính vì vậy, ở nơi tản cư, ông luôn khoe với mọi người về quê hương, ngôi làng với truyền thống tốt đẹp của mình. Ông luôn nói rằng làng Dầu có truyền thống đấu tranh hào hùng, tham gia các buổi tập chiến, phong trào kháng chiến, khoe cả những điểm nhỏ nhất như những cái ụ, hào giao thông do làng dựng lên... Từ ngày đến nơi tản cư, ông nhớ làng da diết, ông nhớ những ngày tháng còn cùng bà con làng xóm làm việc, xây dựng quê hương, "sao mà độ ấy vui thế". Để khỏa lấp nỗi nhớ, hằng ngày ông luôn chăm chú nghe ngóng tin tức kháng chiến, coi đó là món ăn tinh thần không thể thiếu.

Chính vì tình yêu ấy mà khi nghe tin làng mình theo giặc, ông Hai khó có thể chấp nhận được. Diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật ông Hai từ lúc nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc đến khi kết thúc truyện như sau:

  • Ban đầu, ông cảm thấy vô cùng đột ngột, "cổ họng ông lão nghẹn đắng lại, da tê rân rân,... ông không thể không tin..."
  • Ông đi về nhà, mặt cúi gằm xuống đất, về đến nhà ông vật ra gường, nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão tràn ra. Ông đau đớn rít lên, nguyền rủa bọn phản bội.
  • Suốt ngày ông Hai ở trong nhà, chẳng chịu đi đâu, ông luôn chột dạ …
  • Sau đó, vì tình yêu nước, ông quyết đoạn tuyệt với làng để đi theo kháng chiến, theo cách mạng "Làng thì yêu thật nhưng làng làm Việt Gian thì phải thù".
  • Khi đi nghe tin cải chính làng chợ Dầu không theo giặc, ông Hai như sống lại, "cái mặt bỗng tươi vui rạng rỡ hẳn lên", đi khắp nơi khoe việc nhà mình bị thằng giặc nó đốt.

=> Qua diễn biến tâm trạng của ông Hai, chúng ta có thể thấy rõ ban đầu khi nghe tin làng theo giặc, ông Hai cảm thấy vô cùng tủi nhục, đau đơn bởi ông luôn yêu và tin tưởng làng mình, nói chính xác là những người dân trong làng. Tin tức họ theo giặc khiến niềm tin của ông bị lung lay, phản bội, Ông ăn không ngon, ngủ không yên, lúc nào cũng canh cánh trong lòng bởi tủi nhục với cái chuyện phản bội ấy. Ông "không dám bước chân ra đến ngoài", không nói chuyện với bất cứ ai, tuyệt giao với mọi người vì xấu hổ. Rồi ông quyết định đoạn tuyệt với làng để đi theo kháng chiến, làng là quê hương, nơi yêu thương thật nhưng làng theo giặc thì ông phải thù.

Diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai đã cho thấy tình cảm chân thành với Tổ quốc, đất nước của một người nông dân chất phác. Tuy những người nông dân nghèo vật chất nhưng luôn giàu tình cảm, tình yêu quê hương, đất nước và tuyệt đối trung thành với cách mạng, với Chủ tịch Hồ Chí Minh.

4. Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân

Kim Lân là một nhà văn của nông thôn Việt Nam. Nói như thế quả thực không sai bởi các tác phẩm của ông khi viết về nghười nông dân ngheo hay làng quê Việt Nam sao mà hay và chân thực đến thế. Một trong số các tác phẩm xuất sắc của ông phải kể đến tác phẩm Làng. Truyện ngắn Làng là tác phẩm tiêu biểu viết về người nông dân, nông thôn xoay quanh nhân vật ông Hai, một người nông dân nghèo yêu quê hương đất nước.

Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc, ông Hai đau đớn tủi hổ vô cùng. Tác giả đã diễn tả rất cụ thể diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai trước cái tin dữ đó. Thoạt đầu, nghe được tin đột ngột từ người đàn bà tản cư nói ra, ông Hai bàng hoàng đến sững sờ. "Cổ họng ông nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân, ông lão lặng đi tưởng như không thở được". "Ông sinh ra nghi ngờ, cố chưa tin vào cái tin ấy. Nhưng những người tản cư đã kể rành rọt quá làm ông không thể không tin". Từ lúc ấy, tâm trạng ông Hai bị ám ảnh, ray rứt với mặc cảm là kẻ phản bội. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông cúi gằm mặt xuống mà đi.

Về đến nhà, ông nằm vật ra giường, tủi thân khi nhìn đàn con. "Nước mắt ông lão cứ giàn ra". "Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư?" Ông giận lây và trách cứ những người trong làng phản bội. Tủi thân, ông Hai thương con, thương dân làng chợ Dầu, thương thân mình phải mang tiếng là dân làng Việt gian.

Suốt mấy ngày hôm sau, ông Hai không dám đi đâu, chỉ quanh quẩn ở xó nhà, nghe ngóng tình tình bên ngoài. Ông sống trong tâm trạng nơm nớp lo sợ, xấu hổ và nhục nhã. Cứ thoáng nghe thấy Tây, Việt gian, cam-nhông là ông lại "lủi ra một góc nhà nín thít".

Ông Hai tiếp tục bị đẩy vào một tình huống thử thách căng thẳng, quyết liệt khi nghe tin mụ chủ nhà sẽ đuổi hết người làng chợ Dầu ở nơi tản cư. Ông cảm nhận được hết nỗi nhục nhã, lo sợ vì tuyệt đường sinh sống: "Biết đi đâu bây giờ". Bị đẩy vào đường cùng, tâm trạng ông Hai vô cùng bế tắc, mâu thuẫn nội tâm được đẩy đến đỉnh điểm. Ông nghĩ hay là quay về làng nhưng lại hiểu rõ thế là phản bội cách mạng, phản bội Cụ Hồ. Thế rồi ông đã dứt khoát theo cách của ông: "Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù". Rõ ràng, tình yêu nước đã rộng lớn hơn, bao trùm lên tình cảm với làng quê. Nhưng ông vẫn không thể dứt bỏ được tình cảm với làng. Vì thế mà ông càng đau xót, tủi hổ.

Bài phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân hay nhất

Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy, ông chỉ còn biết trút nỗi lòng của mình vào những lời tâm sự với đứa con út. Qua lời tâm sự với con, chúng ta thấy rõ một tình cảm sâu nặng và bền chặt với cái làng chợ Dầu, một tấm lòng thủy chung với kháng chiến, với cách mạng của con người ông Hai. Tình cảm đó là sâu nặng và thiêng liêng.

Khi nghe tin làng chợ Dầu không theo giặc, ông Hai sung sướng vô cùng. Cái nét mặt buồn thiu hàng ngày bỗng vui tươi, rạng rỡ hẳn lên. Ông còn thay đổi thái độ với các con: Mua bánh rán về chia cho các con. Sau đó ông chạy đi báo cho mọi người biết cái tin Tây nó đốt nhà mình rồi. Nhà bị giặc đốt mà ông không buồn không tiếc, lại lấy đó là niềm tự hào bởi đây là bằng chứng duy nhất chứng minh lòng trung thành của gia đình ông, của làng ông với kháng chiến. Tình yêu làng của ông Hai luôn gắn chặt với lòng yêu nước. Ông biết đặt tình yêu nước lên trên tình cảm cá nhân của mình. Phải chăng đó là nét đẹp trong con người ông Hai nói riêng và những người nông dân Việt Nam nói chung trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

Nhân vật ông Hai được khắc họa nhờ những yếu tố nghệ thuật đặc sắc. Diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai từ khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc đến khi tin đó được cải chính được miêu tả một cách cụ thể, gợi cảm qua ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ. Ngôn ngữ nhân vật ông Hai mang đậm tính khởi ngữ, là lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân, bộc lộ rõ tâm trạng và thái độ của nhân vật. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật chân thực, sinh động.

Tóm lại, truyện ngắn "Làng" của nhà văm Kim Lân đã diễn tả rất cụ thể diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai từ khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc đến khi tin đó được cải chính. Qua diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai, ta thấy được một tình yêu làng yêu nước tha thiết gắn với tinh thần kháng chiến của nhân vật ông Hai. Ông Hai chính là hình ảnh tiêu biểu cho người nông dân VN trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

5. Diễn biến tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng Dầu theo giặc

Nhà văn Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1920 quê ở Từ Sơn, Bắc Ninh. Tác giả kim Lân đã được nhiều bạn đọc yêu mến qua các tác phẩm nổi tiếng của ông như Vợ nhặt, tập truyện ngắn Con chó xấu xí... Trong đó chúng ta không thể không nhắc tới tác phẩm Làng đã được nhà văn Kim Lân chấp bút viết về đề tài người nông dân yêu nước được thể hiện rất thành công qua nhân vật ông Hai.

Làng được viết và đăng báo trên tạp chí Văn nghệ năm 1948 – giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong thời kì này thì người dân nghe theo chính sách của chính phủ: kêu gọi nhân dân ta tản cư, những người dân ở vùng địch tạm chiếm đi lên vùng chiến khu để chúng ta cùng kháng chiến lâu dài.

Tư tưởng của truyện được cụ thể hóa qua hình tượng nhân vật ông Hai. Ông Hai là một lão nông hiền lành, chân chất. Ông rất yêu và tự hào về cái làng Chợ Dầu của mình. Ông yêu mến từng cái cây, con đường, hàng gạch, lối đi và tất cả những gì mà làng Chợ Dầu có. Ông yêu mến con người của làng Chợ Dầu hiền lành, thân thiện và quả cảm.

Ông mường tượng tất cả đều gắn chặt với cuộc đời ông không thể tách rời và mỗi khi có ai đó chê bai hay này nọ về cái làng của ông, ông đều tỏ ra không hài lòng. Ông yêu cái làng của mình như đứa con yêu mẹ, tự hào về mẹ, tôn thờ mẹ, một tình yêu hồn nhiên như trẻ thơ. Cứ xem cái cách ông Hai náo nức, say mê khoe về làng mình thì sẽ thấy. Mỗi hình ảnh của làng đều đem đến cho ông một tình yêu mến vô hạn. Đó cũng là tình cảm vốn có từ ngàn đời nay của người nông dân Việt Nam gắn bó máu thịt với quê cha đất tổ, nơi chôn nhau cắt rốn của tổ tông. Thế nhưng, ở nhân vật ông Hai, đó là một tình cảm đặc biệt, thiêng liêng lắm.

Cũng vì quá yêu làng như thế mà ông nhất quyết không chịu rời làng đi tản cư. Ông thắm thía lắm cái cảnh tha hương cầu thực. Đến khi buộc phải cùng gia đình đi tản cư ông buồn khổ lắm, sinh ra bực bội, ít nói, ít cười, lúc nào cũng lầm bầm.

Biểu hiện của ông Hai cũng là biểu hiện của đông đảo nông dân thời bấy giờ. Họ không muốn rời làng, không muốn thay đổi. Kháng chiến thì cứ kháng chiến sao lại phải rời đi? Họ quyết bám chặt đất đai dù có bị cùm kẹp, áp bức, bị giết hại. Đối với họ, thay đổi nơi ăn chốn ở, rời bỏ mồ mả tổ tiên là một việc trọng đại. Làng nước là chốn thiêng liêng, không thể nói bỏ là bỏ trong một sớm một chiều. Thế nhưng, để ủng hộ kháng chiến, ủng hộ cách mạng, gia đình ông cũng tản cư về chỗ mới nhưng tình yêu làng mãi còn quấn quýt trong ông.

Ở nơi tản cư, ông dần dần hiểu ra mọi chuyện. Giờ đây, không những ông Hai yêu làng mà còn yêu cách mạng, yêu kháng chiến nữa. Từ miễn cưỡng thực hiện tản cư, đến yêu mến rồi nhiệt tình ủng hộ cách mạng, ủng hộ kháng chiến đó là một sự chuyển biến mạnh mẽ trong tình cảm của người nông dân. Ông Hai đã nhận thấy kẻ thù tàn bạo, chúng hủy hoại làng và cuộc sống của của nhân dân. Ông muốn tham gia chiến đấu cùng anh em nhưng ở tuổi này làm sao được.

Thế nhưng ông lại không muốn đứng ngoài cuộc, ông muốn làm gì đó chứ không chịu ngồi im khi trong lòng ông đang rộn ràng. Hằng ngày, ông đi nghe báo, ông đi nghe nói chuyện, ông bàn tán về những sự kiện nổi bật của cuộc kháng chiến…Tuy ít học, không biết chữ nhưng lại rất thích nói chữ, thích nói chuyện chính sự dù cũng không hiểu lắm các thuật ngữ chính trị, thích nói những chuyện to tát cho nó có cái không khí cách mạng. Và ông cho rằng đó là cách ông yêu nước, yêu kháng chiến, ông muốn cuộc chiến của dân tộc nằm trong lòng ông, không xa rời.

Từ chuyện làng, ông chuyển sang chuyện kháng chiến, chuyện đánh tây. Tình yêu làng trong ông vẫn lớn nhưng giờ đây nó hòa quyện trong tình yêu cách mạng, yêu kháng chiến, tình yêu nước. Tình cảm cá nhân ông Hai đã hòa hợp với tình yêu tổ quốc. Yêu làng cũng là yêu nước. Tản cư nghĩa là ủng hộ cách mạng, nghĩa là ủng hộ sự nghiệp giải phóng đất nước mà ủy ban kháng chiến đã đề ra. Có lẽ ông Hai chưa nhận ra điều đó nhưng trong tình cảm của ông tình yêu nước đã sớm nảy nở và ngày càng sâu sắc hơn. Kim Lân đã rất bình tĩnh khi thể hiện sự chuyển biến âm thầm mà mạnh mẽ này.

Sự việc ông Hai nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc là một sự thử thách lớn đối với tình yêu làng, yêu nước của ông. Đồng thời nó cũng quyết định lập trường cách mạng của người nông dân trong tình thế ngặt nghèo của đất nước. Ông Hai đã sững sờ, chết lặng người đi, rồi cảm giác xấu hổ, uất ức nghẹn trào khi nghe tin dữ đó.

Đối với ông, đó làm một cái tin không thể tin được, không thể chấp nhận được. Từ đỉnh cao của niềm vui,niềm tin ông Hai rơi xuống vực thẳm của sự đau đớn, tủi hổ vì cái tin ấy quá bất ngờ. Làm sao làng chợ Dầu có thể theo giặc? Làm sao người chợ Dầu có thể phản bội ông, phản bội cách mạng? Khi trấn tĩnh lại được phần nào, ông còn cố chưa tin cái tin ấy.

Nhưng rồi những người tản cư đã kể rành rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên” làm ông không thể không tin. Niềm tự hào về làng thế là sụp đổ tan tành trước cái tin sét đánh ấy. Cái mà ông yêu quí nhất nay cũng đã quay lưng lại với ông. Không chỉ xấu hổ trước bà con mà ông cũng tự thấy ông mất đi hạnh phúc của riêng ông, cuộc đời ông cũng như chết mất một lần nữa.

Tình huống truyện đã đặt nhân vật trong sự dằn vặt, đấu tranh ghê gớm. Đó là một “chất liệu xúc tác” có năng lực thanh lọc những tình cao cao quý của con người. Trước vận mệnh của đất nước và sự chuyển biến mạnh mẽ của dân tộc bắt buộc họ phải thay đổi hướng về nhiệm vụ chung. Thế nhưng, điều đó không phải dễ dàng và thật khó phát hiện. Tình yêu làng của ông Hai không có gì sai, thậm chí là rất cao đẹp. Nhưng ngay lúc này, đất nước đang cần có một tình cảm lớn hơn, đó là tinh thần yêu nước, cùng góp sức mình trong mặt trận chống kẻ thù.

Từ lúc nghe tin, trong tâm trí ông Hai chỉ còn có cái tin dữ ấy, nó xâm chiếm, nó trở thành một nỗi ám ảnh, day dứt không nguôi. Nghe đâu chửi bọn Việt gian là ông thấy đau nhói trong tim. Bao nhiêu điều tự hào về làng, về quê hương như đỗ vỡ trong tâm hồn người nông dân rất mực hiền lành ấy. Ông cảm thấy như chính ông mang nỗi nhục của một tên bất lương bán nước theo giặc. Và các con ông cũng sẽ mang nỗi nhục khủng khiếp ấy.

Đó là trách nhiệm của một công dân tốt, của một người cha hết lòng vì con. Tuy không trực tiếp phản bội cách mạng nhưng cái tiếng phản bội ấy có liên quan đến gốc cội của ông. Người Việt Nam muôn đời sống có tình có nghĩa, quê hương nguồn cội là cái nôi của lòng tự hào, nay mang tiếng theo giặc bảo sao không khỏi tủi nhục. Nhưng cái nhục của ông Hai là cái nhục cao quý, khi cái tự tôn trong ông bị đập đổ, bị phản bội. Nhà văn Kim Lân đã rất bản lĩnh khi khắc họa điều này. Sự thay đổi trong tình cảm tốt đẹp của người nông dân đã được tôn trọng, diễn ra từ từ và hết sức hợp lí, đúng đắn, xuất phát từ nhận thức cao độ và khẳng định sâu sắc.

Sự tủi hổ của ông Hai những ngày sau đó khẳng định mạnh mẽ điều này. Ông Hai rơi vào tình trạng bế tắc, tuyệt vọng khi nghĩ tới tương lai. Ông không biết đi đâu, về làng thì không được, vì về làng lúc này là đồng nghĩa với theo Tây, phản bội kháng chiến. Ở lại thì không xong, vì mụ chủ nhà đã đánh tiếng xua đuổi. Còn đi thi biết đi đâu bởi ai người ta chưa chấp dân làng Chợ Dầu phản bội.

Nếu như trước đây, tình yêu làng và tình yêu nước hòa quyện trong nhau thì lúc này, ông Hai buộc phải có sự lựa chọn. Quê hương và Tổ quốc, bên nào nặng hơn? Đó không phải là điều đơn giản vì với ông, làng Chợ Dầu đã trở thành một phần của cuộc đời, không dễ gì vứt bỏ; còn cách mạng là cứu cánh của gia đình ông, giúp cho gia đình ông thoát khỏi cuộc đời nô lệ.

Cuối cùng, ông đã quyết định: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Sau bao đắn đo, bao lựa chọn, bao lí do, cuối cùng ông hai đã thật sự đứng về phía cách mạng, ủng hộ cách mạng, ủng hộ kháng chiến. Tình yêu làng dẫu có thiết tha, mãnh liệt đến đâu cũng không thể mãnh liệt hơn tình yêu đất nước.

Đó là biểu hiện vẻ đẹp trong tâm hồn của con người Việt Nam, khi cần họ sẵn sàng gạt bỏ tình cảm riêng tư để hướng tới tình cảm chung của cả cộng đồng. Họ có thể vì cách mạng vì đất nước mà hi sinh tình riêng, hướng đến sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng nước nhà.

Cuộc giải bày của ông Hai khi nói với đứa con nhỏ thật cảm động. Dù đã quyết liệt nhưng ông Hai không khỏi đau lòng, ấm ức. Và khi tình huống truyện đạt đến cao trào, tình cảm dâng lên đỉnh điểm thì Kim Lân lại cho nó bùng phát một lần nữa cởi trói cho nhân vật yêu mến của mình. Đúng lúc ông Hai quyết định rõ ràng lập trường của mình thì cái tin làng Chợ Dầu phản bội đã được cải chính. Nỗi niềm đau khổ của ông Hai trong những ngày qua lớn lao bao nhiêu thì niềm phấn khởi và hạnh phúc cũng dạt dào bấy nhiêu. Ông muốn nhảy cẫng lên, muốn hét thật lớn để giải thoát bao ấm ức, bao kìm nén, bao tủi nhục bấy lâu, lên tiếng minh oan cho chính mình.

Phần xử lí cốt truyện tài tình thể hiện sự cảm thông sâu sắc và tình yêu mến lớn lao của nhà văn đối với người nông dân hiền lành, yêu nước. Thế rồi, ông lại đi khắp nơi, gặp ai ông cũng nói làng chợ dầu không theo giặc, làng chợ dầu kháng chiến với niềm hân hoan tột cùng.

Có thể nói, cái tài tình của Kim Lân là đã sáng tạo tình huống truyện có tính căng thẳng, đầy thử thách, cách xử lí cốt truyện mang đậm chất tâm lí. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn tự nhiên mà sâu sắc, tinh tế. Đặc biệt ngôn ngữ đặc sắc, sinh động, mang đậm chất khẩu ngữ, gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày của người nông dân vốn là thế mạnh của nhà văn nông dân tài hoa này.

Những chuyển biến âm thầm nhưng mới mẻ trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp được biểu hiện rõ ràng qua nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân. Từ một người nông dân yêu làng, ông Hai trở thành người công dân nặng lòng với kháng chiến. Tình yêu làng, yêu nước đã hòa làm một trong ý nghĩ, tình cảm, việc làm của ông Hai. Tình cảm ấy thống nhất, hòa quyện như tình yêu nước được đặt cao hơn, lớn rộng lên tình làng. Đây là nét đẹp truyền thống mang tinh thần thời đại. Ông Hai là hình ảnh tiêu biểu của người nông dân trong thời kì kháng chiến chống Pháp.

6. Viết đoạn văn tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc

Xem chi tiết tại đây.

7. Phân tích diễn biến tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc - mẫu 1

Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân là một tác phẩm đặc sắc thể hiện tình yêu của người nông dân đối với quê hương, đất nước mình trong kháng chiến chống Pháp một cách cảm động. Làm nên thành công của tác phẩm không thể không nhắc đến nghệ thuật miêu ,tả tâm lí nhân vật.củạ nhà văn. Diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai trong tác phẩm khi nghe tin làng Dầu của mình theo giặc được thể hiện một cách sinh động đã thể hiện điều đó.

“Làng” ra đời năm 1948. Tác phẩm lấy bối cảnh là cuộc tản cư kháng chiến của nhân dân. Ông Hai là nhân vật chính của tác phẩm, có lẽ phần vì tuổi cao, phần vì chân ông vẫn bị thương “đi tập tễnh” nên ông được vận động tản cư kháng chiến cùng gia đình. Nhưng trong thâm tâm, ông rất muốn ở lại làng để cùng anh em chiến đấu. Và chính ở nơi tản cư, ông đã bộc lộ sâu sắc tình yêu cái làng của mình.

Ông yêu cái làng của mình như đứa con yêu mẹ, tự hào về mẹ, tôn thờ mẹ, một tình yêu hồn nhiên như trẻ thơ. Ngày ngày, ông sang nhà hàng xóm chơi hoặc đi nghe tin, đi nói chuyện,… Đến đâu ông cũng khoe về cái làng của mình. Trước Cách mạng tháng Tầm, ông khoe cái sinh phần của viên tổng đốc làng ông: “Chết! Chết, tôi chưa thấy cái dinh cơ nào mà lại được như cái dinh cơ cụ thượng làng tôi.”. Và mặc dù chẳng họ hàng gì nhưng ông cứ gọi viên tổng đốc là “cụ tôi” một cách rất hả hê! Sau Cách mạng, “người ta không còn thấy ông đả động gì đến cái lăng ấy nữa”, vì ông nhận thức được nó làm khổ mình, làm khổ mọi người, là kẻ thù của cả làng: “Xây cái lăng ấy cả làng phục dịch, cả làng gánh gạch, đập đá, làm phu hồ cho nó. Cái chân ông đi tập tễnh cũng vì cái lăng ấy”. Bây giờ ông khoe làng ông khởi nghĩa, khoe “ông gia nhập phong trào từ hồi kì còn trong bóng tối”, rồi những buổi tập quân sự, khoe những hố, những ụ, những giao thông hào của làng ông,… Cũng vì yêu làng quá như thế mà ông nhất quyết không, chịu rời làng đi tản cư. Đến khi buộc phải cùng gia đình đi tán cư ông buồn khổ lắm, sinh ra hay bực bội, “ít nói, ít cười, cái mặt lúc nào cũng lầm lầm”, ở nơi tản cư, ông nhớ cái làng của ông, nhớ những ngày làm việc cùng với anh em: “Ô, sao mà độ ấy vui thế. Ông thấy mình như trẻ ra.[…l Trong lòng ông lão lại thấy náo nức hẳn lên.”. Lúc này, niềm vui của ông chỉ là hàng ngày đi nghe tin tức thời sự kháng chiến và khoe về cái làng Chợ Dầu của ông đánh Tây.

Thế mà, đùng một cái ông nghe được cái tin làng Chợ Dầu của ông theo Tây làm Việt gian. Càng yêu làng, hãnh diện, tự hào về làng bao nhiêu thì bây giờ ông Hai lại càng thấy đau đớn, tủi hổ bấy nhiêu. Nhà văn Kim Lân đã chứng tỏ bút lực dồi dào, khả năng phân tích sắc sảo, tái hiện sinh động trạng thái tình cảm, hành động của con người khi miêu tả diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật ông Hai trong biến cố này.

Ông lão đang náo nức, “ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!” vì những tin kháng chiến thì biến cố bất ngờ xảy ra. Cái tin làng Chợ Dầu theo giặc đã làm ông điếng người: “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được. Một lúc lâu ông mới rặng è è, nuốt một cái gì vướng ở cô […] giọng lạc hẳn đi”, “Ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi” và nghĩ đến sự dè bỉu của bà chủ nhà. Ông lão như vừa bị mất một cái gì quý giá, thiêng liêng lắm. Những câu văn diễn tả tâm trạng thật xúc động: “Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ tràn ra… Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu…”. Nỗi nhục nhã, mặc cảm phản bội hành hạ ông lão đến khổ sở. “Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn buôn bán ra sao? Ai người ta chứa. Ai người ta buôn bán mấy. Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước…”. Cả nhà ông Hai sống trong bầu không khí ảm đạm: “Gian nhà lặng đi, hiu hắt, ánh lửa vàng nhờ nhờ ở ngọn đèn dầu lạc vờn trên nét mặt lo âu của bà lão. Tiếng thở của ba đứa trẻ chụm đầu vào nhau ngủ nhẹ nhàng nổi lên, nghe như tiếng thở của gian nhà.” Ông Hai ăn không ngon, ngủ không yên, lúc nào cũng nơm nớp, bất ổn trong nỗi tủi nhục ê chề. Thậm chí ông không dám nhắc tới, phải gọi tên cái chuyện phản bội là “chuyện ấy”. Ông tuyệt giao với tất cả mọi người, “không dám bước chân ra đến ngoài” vì xấu hổ. Và cái chuyện vợ chồng ông lo nhất cũng đã đến. Bà chủ nhà bóng gió đuổi gia đình ông, chỉ vì họ là người của làng theo Tây. Gia đình ông Hai ở vào tình thế căng thẳng. Ông Hai phải đối mặt với tình cảnh khó khăn nhất: “Thật là tuyệt đường sinh sống! […] đâu đâu có người Chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi. Mà cho dẫu vì chính sách của Cụ Hồ người ta chẳng đuổi đi nữa, thì mình cũng chẳng còn mặt mũi nào đi đến đâu”.

Từ chỗ yêu tha thiết cái làng của mình, ông Hai đâm ra thù làng: “Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến. Bỏ Cụ Hồ…”. Và “Nước mắt ông giàn ra”. Ông lại nghĩ đến cảnh sống nô lệ tăm tối, lầm than trước kia. Bao nỗi niềm của ông không biết giãi bày cùng ai đành trút cả vào những lời trò chuyện cùng đứa con thơ dại:

– Húc kia! Thầy hỏi con nhé, con là con của ai?

– Là con thầy mấy lị con u.

– Thế nhà con ở đâu?

– Nhà ta ở làng Chợ Dầu.

– Thế con có thích về làng Chợ Dầu không?

Thằng bé nép đầu vào ngực bố trả lời khe khẽ:

– Có.

Ông lão ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu lại hỏi:

– À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?

Thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt:

– Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!

Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông nói thủ thỉ: Ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ.

Những lời đáp của con trẻ cũng là tâm huyết, gan ruột của ông Hai, một người lấy danh dự của làng quê làm danh dự của chính mình, một người son sắt một lòng với kháng chiến, với Cụ Hồ. Những lời thốt ra từ miệng con trẻ như minh oan cho ông, chân thành và thiêng liêng như lời thề đinh ninh vang lên từ đáy lòng ông:

Anh em đồng chí biết cho bố con ông

Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông.

Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai.

Nhà văn đã nhìn thấy những nét đáng trân trọng bên trong người nông dân chân lấm tay bùn. Nhân vật Ông Hai hiện ra chân thực, từ cái tính hay khoe làng, thích nói về làng bất kể người nghe có thích hay không; chân thực ở đặc điểm tâm lí vì cộng đồng, vui cái vui của làng, buồn cái buồn của làng và chân thực ở những diễn biến của trạng thái tâm lí hết sức đặc trưng của một người nông dân tủi nhục, đau đớn vì cái tin làng mình phản bội. Nếu như trong ấy tâm trạng của ông Hai đau đớn, tủi cực, bao nhiêu thì khi vỡ lẽ ra rằng đó chỉ là tin đồn không đúng, làng Chợ Dầu của ông không hề theo giặc, sự vui sướng càng tưng bừng, hả hê bấy nhiêu. Ông Hai như người vừa được hồi sinh. Một lần nữa, những thay đổi của trạng thái tâm lí lại được khắc hoạ sinh động, tài tình: “Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ hấp háy…”. Ông khoe khắp nơi: “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn! […] Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả.”, “Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đất nhẵn.[…] Ra láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả!”. Đáng lẽ ra ông phải buồn vì cái tin ấy chứ? Nhưng ông đang tràn ngập trong niềm vui vì thoát khỏi cái ách “người làng Việt gian”. Cái tin ấy xác nhận làng ông vẫn nhất quyết đứng về phía kháng chiến. Cái tin ấy khiến ông lại được sống như một người yêu nước, lại có thể tiếp tục sự khoe khoang đáng-yêu của mình, … Mâu thuẫn mà vẫn hết sức hợp lí, điểm này cũng là sự sắc sảo, độc đáo của ngòi bút miêu tả tâm lí ‘nhân vật của nhà văn Kim Lân.

Người đọc sẽ không thể quên được một ông Hai quá yêu cái làng của mình như thế. Mặt khác, cũng như các nhân vật quần chúng (chị cho con bú loan tin làng Chợ Dầu theo giặc), bà chủ nhà, … cái khó quên ở nhân vật này còn là nét cá thể hoá rất đậm về ngôn ngữ. Lúc ông Hai nói thành lời hay khi ông nghĩ, người đọc vẫn nhận thấy rất rõ đặc điểm ngôn ngữ của vùng quê Bắc Bộ, của một làng Bắc Bộ: “Nắng này là bỏ mẹ chúng nó”, “không đọc thành tiếng cho người khác nghe nhờ mấy”, “thì vưỡn”, “có bao giờ dám đơn sai”, … Đặc biệt là nhà văn cố ý thể hiện những từ ngữ dùng sai trong lúc quá hưng phấn của ông Hai. Những từ ngữ “sai sự mục đích cả” là dấu ấn ngôn ngữ của người nông dân ở thời điểm, nhận thức đang chuyển biến, muốn nói cái mới nhưng từ ngữ chưa hiểu hết. Sự sinh động, chân thực, thú vị của câu chuyện phần nào cũng nhờ vào đặc điểm ngôn ngữ này.

Xây dựng thành công diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai là thành công lớn nhất của truyện ngắn Làng. Điều đó đã thể hiện được tài năng của nhà văn Kim Lân trong việc khám phá chiều sâu tâm lí nhân vật. Và hơn hết, điều đó đã xây dựng trong lòng độc giả một chân dung sống động, chân thực về một tấm lòng yêu quê hương, đất nước thiết tha cảm động của người nông đản Việt Nam chất phác, thật thà.

8. Phân tích diễn biến tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc - mẫu 2

Kim Lân là một nhà văn có sở trường về truyện ngắn. Các tác phẩm của ông thường viết về cảnh ngộ của người nông dân và cuộc sống sinh hoạt của làng quê. "Làng" là 1 tác phẩm tiêu biểu của ông viết về đề tài đó. Truyện được sáng tác năm 1948 - thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong truyện ngắn "Làng", nhà văn Kim Lân đã thể hiện 1 cách sinh động và tinh tế diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai từ khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc đến khi tin đó được cải chính.

Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc, ông Hai đau đớn tủi hổ vô cùng. Tác giả đã diễn tả rất cụ thể diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai trước cái tin dữ đó. Thoạt đầu, nghe được tin đột ngột từ người đàn bà tản cư nói ra, ông Hai bàng hoàng đến sững sờ. "Cổ họng ông nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân, ông lão lặng đi tưởng như không thở được". "Ông sinh ra nghi ngờ, cố chưa tin vào cái tin ấy. Nhưng những người tản cư đã kể rành rọt quá làm ông không thể không tin". Từ lúc ấy, tâm trạng ông Hai bị ám ảnh, ray rứt với mặc cảm là kẻ phản bội. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông cúi gằm mặt xuống mà đi.

Về đến nhà, ông nằm vật ra giường, tủi thân khi nhìn đàn con. "nước mắt ông lão cứ giàn ra". "Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư?" Ông giận lây và trách cứ những người trong làng phản bội. Tủi thân, ông Hai thương con, thương dân làng chợ Dầu, thương thân mình phải mang tiếng là dân làng Việt gian.

Suốt mấy ngày hôm sau, ông Hai không dám đi đâu, chỉ quanh quẩn ở xó nhà, nghe ngóng binh tình bên ngoài. Ông sống trong tâm trạng nơm nớp lo sợ, xấu hổ và nhục nhã. Cứ thoáng nghe thấy Tây, Việt gian, cam-nhông là ông lại "lủi ra một góc nhà nín thít".

Ông Hai tiếp tục bị đẩy vào một tình huống thử thách căng thẳng, quyết liệt khi nghe tin mụ chủ nhà sẽ đuổi hết người làng chợ Dầu ở nơi tản cư. Ông cảm nhận được hết nỗi nhục nhã, lo sợ vì tuyệt đường sinh sống: "Biết đi đâu bây giờ". Bị đẩy vào đường cùng, tâm trạng ông Hai vô cùng bế tắc, mâu thuẫn nội tâm được đẩy đến đỉnh điểm. Ông nghĩ hay là quay về làng nhưng lại hiểu rõ thế là phản bội cách mạng, phản bội Cụ Hồ. Thế rồi ông đã dứt khoát theo cách của ông: "Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù". Rõ ràng, tình yêu nước đã rộng lớn hơn, bao trùm lên tình cảm với làng quê. Nhưng ông vẫn không thể dứt bỏ được tình cảm với làng. Vì thế mà ông càng đau xót, tủi hổ.

Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy, ông chỉ còn biết trút nỗi lòng của mình vào những lời tâm sự với đứa con út. Qua lời tâm sự với con, chúng ta thấy rõ 1 tình cảm sâu nặng và bền chặt với cái làng chợ Dầu, 1 tấm lòng thủy chung với kháng chiến, với cách mạng của con người ông Hai. Tình cảm đó là sâu nặng và thiêng liêng.

Khi nghe tin làng chợ Dầu không theo giặc, ông Hai sung sướng vô cùng. Cái nét mặt buồn thiu hàng ngày bỗng vui tươi, rạng rỡ hẳn lên. Ông còn thay đổi thái độ với các con: mua bánh rán về chia cho các con. Sau đó ông chạy đi báo cho mọi người biết cái tin Tây nó đốt nhà mình rồi. Nhà bị giặc đốt mà ông không buồn không tiếc, lại lấy đó là niềm tự hào bởi đây là bằng chứng duy nhất chứng minh lòng trung thành của gia đình ông, của làng ông với kháng chiến. Tình yêu làng của ông Hai luôn gắn chặt với lòng yêu nước. Ông biết đặt tình yêu nước lên trên tình cảm cá nhân của mình. Phải chăng đó là nét đẹp trong con người ông Hai nói riêng và những người nông dân Việt Nam nói chung trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

Nhân vật ông Hai được khắc họa nhờ những yếu tố nghệ thuật đặc sắc. Diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai từ khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc đến khi tin đó được cải chính được miêu tả một cách cụ thể, gợi cảm qua ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ. Ngôn ngữ nhân vật ông Hai mang đậm tính khởi ngữ, là lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân, bộc lộ rõ tâm trạng và thái độ của nhân vật. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật chân thực, sinh động.

Tóm lại, truyện ngắn "Làng" của nhà văn Kim Lân đã diễn tả rất cụ thể diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai từ khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc đến khi tin đó được cải chính. Qua diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai, ta thấy được một tình yêu làng yêu nước tha thiết gắn với tinh thần kháng chiến của nhân vật ông Hai. Ông Hai chính là hình ảnh tiêu biểu cho người nông dân VN trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

9. Diễn biến tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng theo giặc

Nhà văn Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, ông sinh năm 1920 quê ở Bắc Ninh. Ông là nhà văn hiện thực sâu sắc của văn học Việt Nam, ông còn được mệnh danh là nhà văn nông thôn với nhiều tác phẩm viết về nông thôn xuất sắc. Tuy Kim Lân viết không nhiều nhưng tác phẩm nào cũng để lại ấn tượng rất tốt trong lòng độc giả. Ông được sinh ra ở nông thôn, là con đẻ của nông thôn nên ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của nông dân nghèo. Nhân vật của ông thường hiền hậu, chất phác và khao khát sự bình yên. Làng là một tác phẩm viết về đề tài nông thôn xuất sắc của Kim Lân. Tác phẩm sáng tác năm 1948 trong thời kì đầu kháng chiến chống Pháp. Trong đó, nhân vật chính là ông Hai, ông yêu cái Làng vô cùng vì thế khi Pháp đánh chiếm ông quyết định ở lại Làng làm du kích, đánh giặc dù tuổi đã cao.

Đối với mỗi con người trong chúng ta, ai cũng đều có quê hương và có một tình yêu quê hương tha thiết, nồng nàn nhưng ở mức độ khác nhau. Có người yêu đến nỗi không thể rời xa, có người tuy yêu nhưng vẫn có thể đi nơi khác để tìm kế sinh nhai, phát triển. Dù là tình yêu ở mức độ nào cũng đều đáng được trân trọng. Còn ông Hai, ông chính là người nông dân hiền lành chất phác có một tình yêu Làng tha thiết không thể rời xa.

Ông yêu Làng là thế nhưng vì vợ con, ông buộc phải theo vợ con đi nơi tản cư. Ở đây lúc nào ông cũng nghe ngóng về tin Làng, về kháng chiến. Ông thường qua nhà ông Thức trọ ở bên để tâm sự về kháng chiến, nghe ngóng tin. Và mỗi lần kể về Làng ông đều háo hức, hạnh phúc vô cùng. Cho đến khi ông nghe tin làng chợ Dầu theo giặc làm Việt gian thì ông sững sờ, nỗi bất hạnh lớn nhất đã sụp xuống đầu ông, ông tưởng như không thể thở được.

Tác giả đã đặt ông vào một tình huống vô cùng éo le để có một sự chuyển biến tâm trạng. Ông yêu làng như thế vậy mà làng lại theo Tây? Trong tình huống này tâm trạng ông có một sự giằng xé đau đớn, còn yêu và tin làng nữa không hay từ bỏ?

Hàng ngày, ông vẫn luận về chính trị, về kháng chiến, và không quên khoe, tự hào về làng. Vậy mà hôm nay ông nghe tin làng theo Tây. Tin dữ đến bất ngờ khiến ông choáng ngợp: “Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ”.

Từ khi nghe cái tin ấy, ông Hai chỉ cổ cái tin dữ ấy xâm chiếm. Nó ám ảnh day dứt đến nỗi ông nghe đâu cũng sợ người ta nói về mình, chỉ nghe tiếng chửi bọn Việt Gian ông đã cúi gằm mặt đi, không dám ngẩng lên. Về nhà thì ông nằm vật ra, ông tủi thân, ông thương cho mình, cho gia đình, nước mắt trào ra vì nghĩ “Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ tràn ra… Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư”

Niềm tự hào về Làng dường như sụp đổ. Làng chính là sĩ diện, là tình yêu của ông. Ông khoe làng với mọi người trong niềm tự hào vậy mà giờ Làng theo tây thì ông còn mặt mũi nào mà gặp ai, ông xấu hổ đến nỗi không dám ra ngoài, thấy một đám đông tụ tập ông cũng chột dạ. Lúc nào cũng lo người ta đang nói ông, nói đến cái chuyện làng theo tây mà thôi.

Trong gia đình ông cũng căng thẳng vì chuyện ấy, không ai nói với ai điều gì. Tâm trạng ông giằng xé đau đớn, ông liệt kê lại từng người, ông vẫn cố gắng níu kéo làng không theo tây, toàn người có tinh thần cả mà, làm sao theo tây được. Nhưng giờ có cái tin ấy thì ông biết phải làm sao, không có lửa sao có khói “Ai người ta hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì. Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn, buôn bán ra sao? Ai người ta chứa.”

Tác giả đã tả cụ thể nỗi ám ảnh nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông Hai, cùng với nỗi tủi hổ đau xót khi nghe tin làng theo giặc. Hễ đâu có đám đông là ông sợ. Ông không dám nhìn mặt ai, lúc nào đi cũng cúi mặt rất khác với ông mọi khi. Ông ở trong nhà mấy ngày liền không qua nhà ông Thứ vì xấu hổ. Đã ba bốn hôm nay, ông Hai không bước chân ra đến ngoài, cả đến bên bác Thứ ông cũng không dám sang. Suốt ngày ông chỉ quanh quẩn ở trong cái gian nhà chật chội ấy mà nghe ngóng. Nghe ngóng xem binh tình bên ngoài ra sao? Một đám đông xúm lại ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”.

Nhìn kĩ, ta sẽ thấy ông Hai yêu làng quê và tinh thần yêu nước của ông có một sự xung đột. Trước đây ông yêu làng bằng tình cảm cố hữu mà bất kì người nông dân nào cũng thế. Khi có kháng chiến, ông cùng mọi người đào hầm, đắp ụ, còn không muốn đi tản cư vì muốn ở lại bảo vệ làng, tham gia kháng chiến. Nghĩa là khi ấy ông chưa ý thức được việc bảo vệ đất nước, ông chỉ nghĩ đến tình yêu với làng mà thôi. Mọi hành động của ông là đều để bảo vệ làng.

Tuy nhiên, khi đọc kĩ và khi thấy những tâm trạng giằng xé trong ông nghe tin làng theo Tây ông lo lắng vô cùng, ông giằng xé đau khổ ta mới thấy ông yêu Làng và quan trọng hơn là ông yêu cái tinh thần kháng chiến của Làng. Đó mới là giá trị thực mà ông yêu quý và giữ gìn. Thế nên, khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc ông đã chết lặng người. Khi Làng theo giặc thì vẻ đẹp của làng vẫn còn nhưng vẻ đẹp kháng chiến thì không còn nữa. Và lúc này đây ông mới thấy tủi nhục, xót xa vì cái vẻ đẹp kháng chiến mất đi.

Nhất là sau khi ông tự dằn vặt mình “Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến. Bỏ Cụ Hồ… Nước mắt ông giàn ra, về làng tức là chịu quay lại làm nô lệ cho thằng Tây”. Đây mới chính là tình yêu là tinh thần của ông. Thì ra ông yêu Làng tha thiết ngoài cái tình yêu cố hữu thì đó chính là tinh thần kháng chiến, vì cụ Hồ. Vì làng có những con người có tinh thần kháng chiến, chống giặc nên ông càng yêu, càng nhớ làng, nhớ những công việc làm kháng chiến, đắp ụ, xây hầm.. Một người đã yêu làng như thế mà kiên quyết không về làng vì làng theo tây “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.”

Tình yêu đất nước, tinh thần kháng chiến của ông đã cao hơn cả tình yêu Làng. Làng theo Tây phải thù. Làng mà trước kia ông yêu tha thiết, lúc nào cũng muốn trở về vậy mà vì tin dữ ấy mà ông thù làng, ông quyết không về, về để làm nô lệ à?

Tình cảm của ông khi bị tin dữ ấy đến càng như bị thách thức. Nhất là khi mụ chủ nhà biết chuyện ngỏ ý muốn đuổi khéo gia đình ông đi. Nhưng đi đâu đây, đi đâu người ta cũng không muốn chứa chấp cái làng Việt Gian. Ông đã thoáng hay trở về Làng nhưng tâm trạng lại giày vò, dằng xé trong ông vì làng theo tây rồi không thể trở về. Tình cảm đó mới đáng trân trọng làm sao. Một người ngần này tuổi như ông mà đau đớn, nước mắt chảy vì danh dự của mình và danh dự của làng. Làng chính là danh dự của ông. Làng đánh mất danh dự rồi ông còn dám nhìn ai.

Đó cũng là suy nghĩ thường tình khi Làng chính là quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn. Con người ta có ai cũng có một quê hương để trở về, một nơi để nương tựa. Trong hoàn cảnh này ông Hai đáng thương biết bao nhiêu. Giờ đây đến quê hương cũng không thể trở về.

“Làng đã theo Tây, về làng nghĩa là rời bỏ Kháng chiến, bỏ cụ Hồ, là cam chịu trở về kiếp sống nô lệ” thì ra, ông nghĩ đến cụ Hồ, nghĩ đến kháng chiến nhiều hơn nghĩ cho bản thân mình. Nhưng bản thân không có gì thì sao lo cho đất nước đây. Tâm trạng ông được đặt trong một sự bế tắc thực sự, giữa đi và ở, giữa tình yêu cố hữu và tình yêu quê hương đất nước, tình yêu kháng chiến, ông đã chọn kháng chiến. Nhưng ông phải đi đâu làm gì đây khi đã có mác là người ở làng Việt gian. Ông không biết tâm sự cùng ai, may có thằng bé con con ông, nó nói nó vẫn muốn trở về làng nhưng nó yêu kháng chiến, nó ủng hộ cụ Hồ. Nó nói đúng tâm trạng của ông, phải ủng hộ cụ Hồ “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông. Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai”.

Cuối cùng, vài ngày sau có một đồng chí cán bộ đến tận nhà ông báo, đó chỉ là tin giả, làng của ông không phải Việt gian, không theo Tây. Dường như mọi đau khổ, giằng xé bây giờ mới được giải tỏa. Ông hạnh phúc, ông hãnh diện vì Làng, cái mặt buồn thiu mọi ngày nay bỗng tươi vui rạng rỡ hẳn lên. Vậy là sợi dây buộc trong lòng ông nay đã được gỡ nút. Ông vội vàng đi nói với mọi người tin giả này. Ông nói nhà ông bị Tây đốt sạch rồi mà vui như mở hội. Có lẽ tình yêu làng, tình yêu kháng chiến yêu quê hương đất nước, yêu cụ Hồ lớn hơn cả vật chất, ông không sợ gì chỉ sợ người ta không tin ông theo kháng chiến, chỉ sợ người ta nói ông và làng ông là làng Việt Gian.

“Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính, ông ấy cho biết… Cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng tôi là Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả.

Qua đây ta càng hiểu rằng, ông Hai yêu Làng chính là yêu cái Làng kháng chiến, yêu những con người đồng lòng theo cách mạng chứ không phải yêu cái giàu, cái đẹp bề ngoài của ngôi làng mà ông hay khoe. Vậy nên khi Làng bị đốt sạch, đốt nhẵn, ngay nhà ông cũng bị đốt ông vẫn thấy vui và hạnh phúc vô cùng.

Truyện ngắn đã khắc họa thành công nhân vật ông Hai, một người yêu làng, yêu kháng chiến và yêu nước tha thiết. Đặc biệt nhân vật bị đẩy vào tình huống gay cấn càng bộ lộ rõ tình yêu nước nồng nàn. Với nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ, độc thoại, đậm chất nông thôn nhưng hết sức gợi cảm, nhiều cảm xúc đã thể hiện lên bức chân dung sống động đẹp đẽ của người nông dân thời kì đầu kháng chiến.

10. Diễn biến tâm trạng ông Hai trong truyện ngắn Làng

Trong văn học hiện đại Việt Nam, Kim Lân được xem là nhà văn của nông thôn, của những người lao động bình thường, chân chất. Làng của ông là một minh chứng cho những truyện ngắn đặc sắc của ông về mảng đề tài đó. Câu chuyện xảy ra trong kháng chiến chống thực dân Pháp, trong đó người nông dân đã có những chuyển biến sâu sắc trong nhận thức của mình về làng quê, về đất nước, về cách mạng,… Điều đó đã đem đến cho trang sách của ông những tình cảm đẹp đẽ, tươi mới về người nông dân Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám.

Có lẽ sau khi đọc truyện Làng, ai cũng bị ấn tượng bởi tình yêu làng của ông Hai. Đó là một tình yêu sâu nặng, chân thành. Một tình yêu mộc mạc mà chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp ở mọi người dân quê Việt Nam. Nhưng đặc biệt ở chỗ, tình yêu làng ở ông Hai trở thành niềm say mê, hãnh diện, thể hiện rõ ở thói quen “khoe làng” của ông.

Trước Cách mạng tháng Tám, ông Hai khoe làng Chợ Dầu của mình đẹp, giàu có, trù phú “nhà ngói san sát, đường làng lát toàn đá xanh, khi đi trời mưa, bùn không bén gót chân”. Trong mắt ông Hai, làng Chợ Dầu là ngôi làng đẹp nhất, sầm uất nhất, là niềm tự hào, hãnh diện của mình. Ông có thể ngồi hàng giờ nói về làng của mình, thậm chí gặp ai ông cũng kể về làng Chợ Dầu. Tình yêu làng Dầu khiến ông Hai trở nên mụ mẫm đến nỗi tất cả những gì thuộc về làng Dầu đều là một niềm kiêu hãnh, cả cái dinh quan tổng đốc làng ông, cái công trình khiến bao người dân vô tội như ông phải đổ mồ hôi thậm chí cả máu để xây dựng nên nhưng cuối cùng “cái đình ấy như của riêng mấy thằng kì lí chuyên môn khua khoét, hống hách”. Cái đình chứa bao “sự ức hiếp đè nén” trong mắt ông cũng rất đẹp, đẹp như chính làng Chợ Dầu của ông vậy.

Nhưng khi đã được giác ngộ cách mạng, ông Hai không còn khoe về sự giàu có của làng Dầu. Ông khoe về tinh thần chiến đấu của làng mình, về các “cụ già râu tóc bạc phơ mà vẫn tập một hai“, về các “anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá…”, về cái đài phát thanh, thậm chí cả cái chòi gác dựng ở đầu làng ông. Chính Cách mạng tháng Tám đã làm thay đổi con người ông, từ sau khoá bình dân học vụ, ông đã biết đọc, biết viết và quan trọng hơn, ông đã có nhận thức về kháng chiến, về Đảng, Bác Hồ. Ở nơi tản cư, ông trở nên bận rộn hơn và đường như lúc nào ông cũng làm việc quan trọng: ông vào phòng thông tin nghe đọc báo, ngồi nói chuyện với mọi người. Tâm trạng ông lúc nào cũng vui mừng, náo nức, nhất là khi nghe tin đột kích. Chúng ta có thể nhận thấy tình yêu làng của người nông dân như ông Hai đã trở thành tình yêu đất nước, Tổ quốc. Nhưng dù trong hoàn cảnh nào, ở đâu, lòng ông cũng hướng về làng Chợ Dầu. Khi ngồi nói chuyện với mấy người mới đến tản cư, nhắc đến làng Chợ Dầu ông “quay phắt lại, lắp bắp hỏi” thông tin. Và tình yêu làng của ông được bộc lộ rõ nét nhất khi ông Hai nghe tin đồn làng Dầu theo Tây, làm Việt gian.

Khi nghe tin ấy, ông Hai sững sờ: “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được”. Khi trấn tĩnh lại được phần nào, ông còn cố không chịu tin vào cái tin ấy. Nhưng rồi những người tản cư đã kể rành rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên” làm ông không muốn tin cũng phải tin. Từ lúc ấy, trong tâm trí ông Hai chỉ còn cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó thành một nỗi ám ảnh day dứt. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông “cúi gằm mặt xuống mà đi”, về đến nhà, ông nằm vật ra giường rồi tủi thân nhìn đàn con “nước mắt ông lão giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư ? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư ?”. Rồi ông “Nắm chặt hai tay lại mà rít lên” chửi bọn ở làng “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này ?”.

Có lẽ chúng ta không thể tin được một con người như ông Hai, một người vui vẻ, suốt ngày chỉ ra ngoài để nói về chuyện đột kích, chuyện làng Dầu nay lại ru rú ở nhà than khóc, chửi bới. Tâm trạng ông rối bời, nửa tin nửa ngờ vào cái chuyện khủng khiếp ấy. Suốt mấy ngày hôm sau, ông không dám đi đâu, chỉ quanh quẩn ở nhà nghe ngóng tình hình bên ngoài. Vợ ông nhắc đến chuyện đó, ông gạt đi. “Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông,.., là ông lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi ! Lại chuyện ấy rồi.”.

Khi nghe tin làng theo giặc, hai tình cảm: một bên là làng, một bên là nước dẫn đến một cuộc xung đột nội tâm ở ông Hai. Ông đã dứt khoát chọn theo cách của ông: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”, tình yêu nước đã rộng lớn hơn, bao trùm lên tình cảm với làng quê. Nhưng dù đã xác định như thế, ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm với làng, vì thế mà ông càng đau xót, tủi hổ. Ông Hai đã bị đẩy vào thế bế tắc, tuyệt vọng khi mà mụ chủ nhà muốn đuổi gia đình ông đi. Đi đâu bây giờ ? Không ai muốn chứa chấp dân của cái làng “Việt gian”. Mặc dù chưa biết đi đâu nhưng ý nghĩ quay về làng là không có. Vì trở về làng có nghĩa là “chịu quay lại làm nô lệ cho thằng Tây”, là phản bội lại Đảng, Cụ Hồ. Chính lúc này, chúng ta mới thấy hết được tình yêu làng của ông Hai. Thật cảm động khi ông ôm đứa con út vào lòng, trò chuyện với nó.

Khi tâm trạng bị dồn nén, ông trút nỗi lòng vào những lời thủ thỉ, tâm sự với đứa con nhỏ, rất ngây thơ. Qua đó, ông muốn tự nhủ với mình, tự giãi bày với lòng mình. Ông muốn đứa con ghi nhớ câu “Nhà ta ở làng Chợ Dầu” và muốn nó biết tấm lòng thuỷ chung với kháng chiến, với cách mạng mà biểu tượng là Cụ Hồ “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông. Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai.”. Đó chính là tình cảm sâu nặng, thiêng liêng mà chân thành, bền vững của ông Hai – một người nông dân với quê hương, đất nước, với Cách mạng và Bác Hồ và các tình cảm đó không chỉ còn là niềm tự hào mà còn là niềm tự tôn, là danh dự của ông Hai.

Khi nghe tin cải chính làng Dầu không theo Tây, ông “tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy”. Ông vội vã đi hết nhà này đến nhà khác để báo tin “Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn! Ông chủ tịch làng em vừa mới lên trên này cải chính… cải chính tin làng Chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả.”. Chúng ta tự hỏi điều gì khiến cho ông Hai vui mừng khi làng Dầu thân yêu của ông bị “đốt nhẵn”? Đó là bằng chứng cho danh dự của làng ông, cho tấm lòng son sắt, thuỷ chung của người dân làng Dầu. Và cũng từ hôm đó, ông Hai lại đi kể cho hàng xóm chuyện làng Dầu. Chuyện “hôm Tây vào khủng bố. Chúng nó có bao nhiêu thằng, bao nhiêu Tây, bao nhiêu Việt gian, đi những đường nào, đốt phá những đâu đâu, và dân quân tự vệ làng ông bố trí, cầm cự ra sao, rành rọt, tỉ mỉ như chính ông lão vừa dự trận đánh giặc ấy xong thật… ”

Chúng ta có thể gặp một ông Hai như thế trong bất kì người nông dân Việt Nam nào. Tác giả Kim Lân rất tài tình khi tạo tình huống truyện văn miêu tả tâm lí nhân vật. Có lẽ ông phải rất gần gũi với những người nông dân mới xây dựng nên một nhân vật ông Hai giản dị mà thân thuộc đến vậy.

Qua nhân vật ông Hai, chúng ta thấy rõ tình yêu làng, yêu nước của những người nông dân Việt Nam thời kháng chiến đã có sự chuyển biến. Nó trở thành một tình cảm thiêng liêng, cao đẹp, một trách nhiệm của người công dân. Đọc xong truyện ngắn Làng chúng ta có thêm niềm tin vào sự thắng lợi của cuộc kháng chiến vì có những người như ông Hai.

11. Phân tích tình yêu làng, yêu nước của nhân vật ông Hai qua cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt của ông khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc

Sinh ra và lớn lên ở làng Phù Lưu thuộc tỉnh Bắc Ninh, một làng quê đẹp, thơ mộng, vốn nổi tiếng giàu truyền thống văn hoá, nên ngay từ thuở thiếu thời nhà văn Kim Lân đã rất yêu và am hiểu sâu sắc về làng quê của mình. Trước và sau Cách mạng tháng Tám, ông đã có rất nhiều bài viết đặc sắc về làng quê và cuộc sống của người nông dân Việt Nam. Trong số đó, ta có thể kể đến tác phẩm “Làng”, một truyện ngắn đặc sắc được ông sáng tác trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Nổi bậc lên trong tác phẩm là tấm lòng yêu làng, yêu nước của nhân vật ông Hai đã được khẳng định rõ ràng qua cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt của nhân vật ông Hai sau khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc.

Truyện ngắn Làng khai thác một tình cảm lớn, bao trùm và phổ biến trong mỗi con người Việt Nam thời kháng chiến đó là tình yêu làng, yêu nước, yêu cách mạng. Đó là một tình cảm mang tính cộng đồng ai cũng có những sự thành công của Kim Lân là đã diễn tả một cách sinh động, sâu sắc tình cảm chúng ấy trong một con người cụ thể, đó là nhân vật ông Hai.

Trước hết, nổi bật ở ông Hai là tình cảm yêu làng nồng nàn tha thiết, gắn bó máu thịt với mảnh đất mình đã sinh ra và lớn lên. Ông luôn tự hào về làng quê của mình. Đi đâu, gặp ai ông cũng khoe về làng của ông mà không biết chán, biết mệt. Ông tự hào vì làng chợ Dầu của ông là một trong những làng sầm uất nhất tỉnh. Con đường làng toàn lát đá xanh, dù trời mưa bùn cũng không dính gót. Mùa khô, phơi thóc, phơi rơm tốt thượng hạng. Phòng thông tin rộng rãi và sáng sủa nhất vùng.. Đài phát thanh cao bằng ngọn tre

Những gì ông Hai tự hào về làng quê của mình đối với người khác có thể họ sẽ thấy tầm thường vụn văt, không có gì đáng để tự hào nhưng đối với ông Hai, ông lại tự hào về tất cả những thứ đó bởi ông mang trong mình một tình yêu làng nồng nàn tha thiết. Đối với ông cái gì của làng cũng đẹp, cũng hay, cũng đáng để tự hào, ca ngợi.

Yêu làng một cách mãnh liệt, đôi lúc ông có những hành động, suy nghĩ lệch lạc, thái quá. Ông vẫn luôn tự hào về cái sinh phần của viên quan tổng đốc trong làng. Nó to lớn bề thế mà không có một làng nào có được. Ông đã từng dẫn một người bà con xa đến xem để mà ca ngợi, khâm phục. Mãi sau ông mới hiểu ra rằng cái sinh phần ấy để có được nó là biết bao mồ hôi, công sức và xương máu của người dân trong làng. Nó đã gây ra đau khổ cho làng ông và bản thân ông mà ông không hề hay biết.

Từ hồi tản cư, sống trong không khí kháng chiến, tình yêu làng trong ông Hai bắt đầu có sự thay đổi, chuyển biến. Yêu làng, nhưng ông không còn tự hào về những cái tầm thường, vụn vặt ấy nữa mà thay vào đó là niềm tự hào lớn lao về cái tinh thần kháng chiến của người làng chợ Dầu. Giờ đây ông tự hào cái làng ông đã trở thành một làng kháng chiến, cũng góp sức mình vào cuộc đấu tranh chung của dân tộc.

Người làng chợ Dầu tinh thần dữ lắm. Ông vẫn còn nhớ như in ở làng ông trong những ngày kháng chiến không khi rất sôi nổi tươi vui, nào đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá; ngay cả những cụ già râu tóc bạc phơ cũng vác gậy tập một, hai. Chao ôi, độ ấy sao mà vui thế, ông thấy mình dường như trẻ lại, cũng đào đường đắp ụ, hát hỏng, bong phèn suốt cả ngày cùng anh em trai tráng trong làng mà không biết mệt, biết chán.

Chính vì vậy mà ta chợt hiểu vì sao trong những ngày xa làng đi tản cư, xa rời bầu không khí tươi vui ấy, ông Hai cảm thấy buồn bã, bứt rứt, ông nhớ quay quắt cái làng quê của mình. Cho nên sau mỗi buổi tối, khi cơm nước xong xuôi, ông liền chạy sang nhà bác Thứ, kể lể chuyện làng mình cho khuây khoả nỗi nhớ.

Tình yêu nước, yêu kháng chiến, yêu cách mạng thể hiện ngay trong đời sống sinh hoạt hằng ngày. Ở nơi tản cư, xa làng, xa anh em đồng chí, ông Hai lo lắng cho tình hình cách mạng. Ngày ngày ra phòng thông tin nghe ngóng tin tức. Từ tin tức nghe được, tinh thần kháng chiến của nhân dân bồi dưỡng thêm tình yêu làng, yêu nước ở ông hai. Ông khâm phục những hành động vô cùng dũng cảm của những con người sẵn sàng hi sinh bản thân mình vì nhân dân, đất nước. Đó là hình ảnh “một em nhỏ trong ban tuyên truyền xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm quốc kì lên Tháp Rùa”, là sự hi sinh anh dũng của “một anh đội trưởng sau khi giết được bảy tên giặc”. Ông hả hê trước những thất bại của kẻ thù. Cứ mỗi lần nghe thấy ở đâu quân ta thắng lớn, giặc thua to thì “ruột gan ông cứ múa cả lên.”

Yêu nước ông tin tưởng vào tương lai tiền đồ của đất nước, tin tưởng vào lãnh tụ. Ông tin rằng chẳng mấy chốc thằng Tây sẽ cút khỏi đất nước của mình, người dân lại được sống lại những tháng ngày hoà bình êm ấm. Nhưng có lẽ tình yêu làng, yêu nước yêu kháng chiến nồng nàn tha thiết của ông Hai thể hiện rõ ràng nhất là khi ông nghe tin làng chợ Dầu của mình theo giặc, trong ông đã diễn ra một cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt, kịch liệt.

Qua lời nói chuyện của người đàn bà vừa ở dưới quê mới lên, cái tin làng chợ Dầu theo giặc nhanh chóng lan rộng khắp nơi. Ông hai như chết lặng khi nghe cái tin dữ ấy. Bao nhiêu nỗi vui mừng hân hoan phần khởi ban nãy dường như tan biến mà thay vào đó là tâm trạng buồn bã, đau đớn, nhục nhã.

Cái tin làng chợ Dầu theo giặc đến một cách bất ngờ đột ngột quá khiến ông không khỏi bàng hoàng, sửng sốt, không nói được một lời nào, có cái gì đó đau đớn, tức tưởi, nhục nhã, xấu hổ. Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được. Đến khi bình tĩnh trở lại, không tin điều đó là sự thật ông hỏi đi hỏi lại người đàn bà kia nhưng bà ta cứ đinh ninh khẳng định mình “vừa ở dưới ấy lên” thì làm sao mà lầm được. Với lại bà ta kể lại rành rọt quá nào là Tây vào làng, chúng nó bảo nhau vác cờ thần ra hoan hô, nào là thằng chánh Bệu,..toàn những người làng cả làm sao mà không tin cho được.

Lúc về đến nhà ông “nằm vật ra giường”, “nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra”. Ông xót xa khi nghĩ đến một ngày con mình sẽ bị người ta coi thường, rẻ rúng, hắt hủi vì là trẻ con làng Việt gian bán nước. Xấu hổ nhục nhã biết chừng nào. Nó chỉ mới có mấy tuổi đầu nào có tội tình gì! Càng thương con ông càng căm ghét những kẻ Việt gian bán nước trong làng. Chúng ăn cái giống chi mà không biết suy nghĩ thiệt hơn lại đi làm cái chuyện phản dân hại nước để rồi gây ra biết bao đau khổ, nhục nhã cho ông và cho biết bao người dân vô tội trong làng.

Ông lo lắng không biết cuộc sống của cả gia đình mình rồi đây sẽ ra sao. Những suy nghĩ cứ luẩn quẩn trong đầu óc: “Ai người ta chứa. Ai người ta buôn bán mấy. Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước”. Đau đớn, buồn bã, đêm đến ông cứ thao thức trằn trọc không ngủ được. Hết trở mình bên này lại trở mình bên kia, thở dài ngao ngán.

Rồi suốt mấy ngày sau đó, ông cứ quanh quẩn ru rú trong nhà chẳng dám nhìn mặt ai. Thấy một đám đông túm lại ông cũng để ý, chột dạ vì nghĩ rằng người ta đang bàn tán đến chuyện ấy. Lúc nào ông cũng nơm nớp lo sợ. Rõ khổ, nếu ông không yêu cái làng của mình một cách nông nàn chân thành tha thiết thì có lẽ ông đã không phải khổ sở đến thế.

Khi mụ chủ nhà nghe phong phanh làng chợ Dầu theo giặc và có ý không muốn cho vợ chồng ông ở lại nhà mình nữa, ông cũng không phiền hà trách giận bởi ông biết: không chỉ riêng ở cái đất Thắng này mà ở đâu có người chợ Dầu, người ta cũng sẽ đuổi như đuổi hủi. Và dẫu cho có chính sách của cụ Hồ, người ta chẳng đuổi đi chăng nữa thì mình cũng chẳng còn mặt mũi nào đi đến đâu. Đến lúc ấy thì quả thật là tuyệt đường sinh sống.

Bị đẩy đến bước đường cùng, không còn cách nào khác ông đã từng nghĩ đến việc trở về làng. Nhưng khi ý nghĩ đó vừa loé lên thì ông lão đã vội gạt đi: “Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến bỏ cụ Hồ”. Thì ra cái lý do khiến ông lão băn khoăn lưỡng lự không muốn trở về làng chính là chỗ ấy “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ”, là quay lưng lại với đồng bào, đồng chí nhân dân, cam tâm làm tay sai cho kẻ thù, đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc. Ta nghe đâu đây tiếng nói của ông Hai đầy đau đớn, tức tưởi nhưng cũng rõ ràng, dứt khoát: “Không làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”.

Kim Lân đã để cho nhân vật của mình trải qua một cuộc đấu tranh tư tưởng vô cùng quyết liệt để rồi cuối cùng đi đến một quyết định vô cùng khó khăn, đau đớn. Đó là phải từ bỏ làng quê của mình để một lòng một dạ thuỷ chung với cách mạng, với Bác Hồ. Đối với ông Hai và biết bao người dân quê ngày đó làng là nơi rất đổi thiêng liêng, là mảnh đất nơi ta đã sinh ra và lớn lên chất chứa bao kỉ niệm, là nguồn cội tổ tiên, gia đình, quê hương bản quán mà tưởng chừng như suốt cuộc đời không thể nào từ bỏ được. Vậy mà cuối cùng con người cũng phải đành đoạn từ bỏ nó. Chính cái quyết định đầy đau đớn ấy đã nói lên rằng trong trái tim của mỗi người nông dân ngày đó.

Ngoài tình yêu làng họ còn có một tình yêu khác lớn lao hơn, mãnh liệt hơn đó là tình yêu đất nước, yêu kháng chiến. Vì đất nước, họ sẵn sàng từ bỏ những gì minh yêu quý mà không hề tiếc nuối. Kim Lân đã kịp thời phát hiện, trân trọng và ngợi ca những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân trong thời kì đầu kháng chiến chống Pháp. Ở họ, tình yêu làng hòa quyện trong tình yêu đất nước. Vì tổ quốc thiêng liêng, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, họ có thể từ bỏ tất cả.

Cái hay của nhà văn Kim Lân không chỉ dừng lại ở đó. Ông miêu tả cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt của nhân vật ông Hai một cách thật sâu sắc kể từ khi quyết định bỏ làng của mình. Từ sau khi quyết định từ bỏ làng quê của mình, buồn bã quá không biết tâm sự cùng ai, ngày ngày ôm thằng con Út vào lòng trò chuyện cùng nó. Có thể nói, khi nghe tin làng theo giặc, ông Hai rơi vào tình trạng bế tắc, tuyệt vọng khi nghĩ tới tương lai.

Để vợi bớt nỗi đau đớn, dằn vặt trong lòng và yên tâm về quyết định của mình, ông Hai tâm sự với đứa con trai út (thằng Húc). Qua lời tâm sự với con, ông Hai bày tỏ tình yêu sâu nặng với làng Chợ Dầu (nhà ta ở làng Chợ Dầu), bày tỏ tấm lòng thủy chung son, sắt với kháng chiến, với Cụ Hồ (chết thì chết có bao giờ dám đơn sai), một lòng sống vì đất nước (làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù). Dù cái tin làng chợ Dầu theo giặc cứ chồng chéo đan xen trong lòng ông lão nhưng trong ông vẫn cháy lên một niềm tin tưởng sắt đá, tin tưởng vào Cụ Hồ, tin tưởng vào cuộc kháng chiến của dân tộc. Niềm tin ấy đã phần nào giúp ông có thêm nghị lực để vượt qua khó khăn này.

Ở nhân vật ông Hai, tình yêu làng thống nhất, hòa quyện trong tình yêu nước. Từ tình yêu làng, yêu nước tự nhiên, thiết tha (tình yêu làng, yêu nước tự phát), chuyển biến lên thành tình yêu làng, yêu nước sâu đậm nhờ sự soi rọi của lý tưởng cách mạng (tình yêu làng, yêu nước tự giác, có ý thức). Tình yêu nước, lợi ích của đất nước được đặt cao hơn tình làng và lợi ích của cá nhân ông Hai. Đây là nét đẹp truyền thống mang tinh thần thời đại cách mạng. Ông Hai là hình ảnh tiêu biểu của người nông dân trong thời kì kháng chiến chống Pháp sớm giác ngộ và đứng về phía cách mạng.

Qua những lời nói đầy cảm động, thiết tha và nội tâm mãnh liệt, tác phẩm khẳng định mạnh mẽ tinh thần yêu kháng chiến, yêu cách mạng, yêu lãnh tụ của nhân vật ông Hai. Ông hỏi con cũng là tự hỏi mình. Câu trả lời của con cũng chính là câu trả lời của chính lòng ông đó thôi.

Nhưng rồi cái tin làng chợ Dầu theo giặc chỉ là một tin đồn thất thiệt. Thế là sau bao ngày tháng đau khổ giờ đây “cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui rạng rỡ hẳn lên”. Ông đi khắp nơi cải chính với mọi người cái tin làng chợ Dầu theo giặc, nào là Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ! Đốt nhẵn. Ông chủ tịch làng em vừa…cho biết…cái tin làng chợ Dầu chúng em Việt gian ấy mà. Ra láo. Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả.”. Đi đến đâu ông lão cũng bô bô như thế.

Có một điều thật lạ, Tây nó đốt nhà ông rồi. Mai mốt trở về lấy gì mà làm ăn sinh sống? Cả một đời lao động nhọc nhằn vất vả, tích cóp dành dụm mới có được mái nhà để dung thân, bây giờ Tây đốt nhẵn có, gia tài sản nghiệp tan thành mây khói . Nhưng ông lão vẫn cứ cười một cách sung sướng. Ông nào có tiếc nuối về cái nhà của mình, cái ông quan tâm đó là làng chờ Dầu không theo giặc. Từ đây, ông có thể ngẩng cao đầu mà sống, ông lại có thể tiếp tục khoe khoang làng của mình còn chuyện nhà mình có bị Tây nó đốt cũng chẳng sao, ông chẳng hề bận tâm lo lắng.

Chính chi tiết này một lần nữa nhà văn Kim Lân đã cho thấy tình yêu làng yêu nước nồng nàn của ông Hai nói riêng và của những người nông dân ngày đó nói chung. Yêu làng yêu nước con người có thể hi sinh những quyền lời của cá nhân mình mà không hề tiếc nối. Chính tình yêu làng yêu nước chân thành thắm thiết ấu đã biến thành sức mạnh giúp cho bao người nông dân ngày đó sẵn sàng xả thân mình để bảo vệ đất nước. Chính họ với những tình cảm cao đẹp chất phác đó đã biến họ thành những người anh hùng của thời đại, chính họ đã làm ra đất nước.

Làng được coi là một trong những truyện ngắn rất đặc sắc và tiêu biểu của Kim Lân về đề tài người nông dân sau cách mạng tháng Tám. Có thể nói, qua truyện ngắn này, với nhân vật ông Hai, ông đã khắc hoá thành công hình tượng một người nông dân giàu lòng yêu làng, yêu nước yêu cách mạnh với những diễn biến nội tâm vô cùng cụ thể, sinh động và mãnh liệt. Từ niềm vui mừng hân hoan trước những thắng lợi của quân ta và sự thất bại thảm hại của quân thù, cho đến nỗi xẩu hổ nhục ngã khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc, từ thái độ căm ghét, giận dữ đối với bọn Việt gian bán nước trong làng cho đến

Kim Lân rất thành công trong nghệ thuật tự sự, sử dụng ngôn ngữ nhân vật bình dị, đậm chất dân dã được lấy từ trong đời sống sinh hoạt hằng ngày của người bình dân chân thật. Nhà văn đã để cho nhân vật nói năng, hành động, suy nghĩ một cách rất tự nhiên chân thật, gần gũi để từ đó gợi lên biết bao tình cảm, vẻ đẹp tâm hồn những đặc điểm về tính cách, trình độ văn hoá xuất thân của nhân vật. Kim Lân đã sử dụng một cách khéo léo làm cho câu chuyện thêm phần sinh động hấp dẫn, thú vị. Phải yêu tha thiết và am hiểu, gắn bó với làng quê của mình thì ông mới có được cái vốn ngôn ngữ dân gian sinh động phong phú, đa dạng ấy.

Cũng khai thác về hình tượng người nông dân, so với những tác phẩm trước đây, người ta thấy có những chuyển biến mới mẻ trong tình cảm của người nông dân thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Ở truyện ngắn Làng, ta không còn hiện tượng trong tư thế của một kẻ bị áp bức bóc lột, cuộc sống đói nghèo, làm lũ, có gì đó tầm thường, nhỏ hẹp, bế tắc; quanh năm chỉ làm bạn với con trâu cái cày ruộng vườn, sống quẩn quanh chật hẹp. Giờ đây, con người trở nên lớn lao hơn bởi họ mang trong mình sức mạnh và những tình cảm lớn của thời đại, không còn là cuộc đời của những con người tầm thường, nhỏ bé nữa. Cuộc sống của họ, số phận của họ gắn liền với vận mệnh quốc gia dân tộc. Người nông dân đã nhận ra sứ mệnh lịch sử lớn lao của mình trong cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước trước kẻ thù xâm lược.

Khắc họa cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt của nhân vật ông Hai, Kim Lân đã không hề tô vẽ, không biến nhân vật thành một người phát ngôn cho chính sách của cách mạng. Với cách kể chuyện chân thực, xúc động, nhà văn từng bước thể hiện rõ vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật ông Hai. Từ một người nông dân yêu làng, ông Hai trở thành người công dân nặng lòng với kháng chiến. Tình yêu làng, yêu nước đã hòa làm một trong ý nghĩ, tình cảm, việc làm của ông Hai. Tình cảm ấy thống nhất,hòa quyện như tình yêu nước được đặt cao hơn, lớn rộng lên tình làng. Đây là nét đẹp truyền thống mang tinh thần thời đại. Ông Hai là hình ảnh tiêu biểu của người nông dân trong thời kì kháng chiến chống Pháp.

12. Phân tích diễn biến tâm lý của ông Hai từ trước đến sau khi ông nghe tin "làng mình theo giặc"

“Xiềng xích chúng bay không khóa được

Trời đầy chim và đất đầy hoa

Súng đạn chúng bay không bắn được

Lòng dân ta yêu nước thương nhà”

Trong cuộc kháng chiến chống xâm lược, sức mạnh lớn nào bằng lòng yêu nước của dân. Có lẽ Kim Lân đã thấu được điều ấy và đưa vào trong văn chương, để rồi làm vẻ đẹp ấy như được sáng bừng lên qua diễn biến tâm lý nhân vật “ông Hai” từ trước đến sau khi nghe tin sét đánh “làng mình theo giặc” trong tác phẩm “Làng”.

Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy cuộc sống; ông thường tìm thấy vẻ đẹp chân phương, mộc mạc nhất của con người sáng lên trong đói khổ. Làng là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của Kim Lân viết về làng quê và người dân Việt Nam, được sáng tác trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Chuyện kể về ông Hai – một người nông dân làng chợ Dầu, trong kháng chiến gia đình ông phải đi tản cư. Và thời gian ở đây, ông đã nghe tin làng theo giặc, tinh yêu nước của ông được thể hiện rõ nét qua quá trình này. Truyện “Làng” đã xây dựng được môt tình huống truyện độc đáo làm bộc lộ sâu sắc tình yêu làng quê, tình yêu đất nước của nhân vật ông Hai. Đó là tình huống : ông Hai, một người dân làng Dầu rất yêu và tự hào về làng mình đi tản cư lại nghe được tin làng Chợ Dầu đi theo giặc, làng Chợ Dầu làm việt gian, lập làng tề. Cái tin ấy ông nghe từ chính miệng những người tản cư đi qua.

Trước khi nghe tin làng theo giặc, ông Hai cùng gia đình phải đi tản cư ở nơi khác, xa ngôi làng yêu dấu. Dù phải xa làng nhưng tình yêu làng, tôn thờ làng cháy bỏng như không bao giờ ngơi nghỉ, ông yêu cái làng của mình như đứa con yêu mẹ, tự hào về mẹ, tôn thờ mẹ, một tình yêu hồn nhiên như trẻ thơ. Đi đâu ông cũng kể lể về làng mình, về những lần làng mình ra sức chiến đấu chống giặc, ông luôn khát khao được trở về làng, ông tự hào về làng chợ Dầu của ông. Từ đó ta thấy tình yêu làng xóm nhen nhóm từ những điều bình dị nhất, ngọt ngào nhất và không hề thay đổi, dù đi xa nơi đâu lòng vẫn hướng về làng thân yêu.

Yêu làng là thế nên khi ông nghe loáng thoáng được tin làng mình theo giặc ông đã bang hoàng như sét đánh bên tai “Khi nghe tin đột ngột, “cổ họng ông lão nghẹn ắng lại, da tê rân rân, …ông không thể không tin”. Ông đi về nhà, mặt cúi gằm xuống đất, về đến nhà ông vật ra gường, nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão tràn ra. Ông đau đớn rít lên, nguyền rủa bọn phản bội”. Diễn biến tâm lý một cách rõ rệt của ông Hai đã làm sáng lên tình yêu nước của ông, ông yêu làng yêu từ những điều nhỏ bé bờ tre, bến nước, cây đa, xóm giềng, yêu đến những cái lớn lao yêu kháng chiến, yêu dân tộc, yêu Tổ quốc. Tình yêu làng càng lớn thì nỗi đau khi làng theo Tây cũng càng lớn, khi nghe tin sét đánh xong ông Hai như biến thành một người khác, từ con người đi đâu cũng tự hào cất cao lời ca khen ngợi làng mình vì kháng chiến, vì tổ quốc ông Hai trở nên lầm lì, đi đâu cũng cúi gằm mặt xuống vừa tủi nhục, xấu hổ, vừa đau đớn. Yêu làng, yêu công lao của làng với kháng chiến bao nhiêu thì lại khó xử bấy nhiêu khi nghe tin làng theo giặc.

Tình yêu làng của ông Hai không đơn thuần là yêu nơi mình ở, mà đó là tình yêu sự trân trọng những giá trị to lớn của Tổ quốc, ông biết hướng đến những cái lớn hơn là tình yêu Tổ quốc. Nhà văn Kim Lân có một câu nói rất hay khi nói về tâm trạng của ông Hai khi nghe làng theo giặc “Làng thì yêu thật nhưng làng làm Việt Gian thì phải thù”. Ông rất tỉnh táo trong tình yêu với quê hương đất nước, yêu làng là thế nhưng tình yêu ấy chỉ lớn hơn khi gắn với tình yêu kháng chiến, ông Hai đã đau đớn, buồn tủi và lúc nào cũng chột dạ sợ người ta nói đến làng mình “Ông Hai ăn không ngon, ngủ không yên, lúc nào cũng nơm nớm, bất ổn trong nỗi tủi nhục ê chề. Thậm chí ông không dám nhắc tới, phải gọi tên cái chuyện phản bội là “chuyện ấy”. Ông tuyệt giao với tất cả mọi người, “không dám bước chân ra đến ngoài” vì xấu hổ”. Ông Hai đã nghĩ đến chuyện về làng nhưng rồi lại tự phản đối ngay, ông tự trả lời rằng về làm gì cái làng ấy nữa, nó theo Tây hết rồi, về tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ… Tác giả đã làm vẻ đẹp người nông dân Việt Nam trong kháng chiến hiện lên thật đẹp, một tình yêu không hề mù quáng, yêu làng nhưng luôn gắn tình yêu đó với tình yêu kháng chiến, yêu đất nước. Mãi đến khi ông Hai nghe tin làng cải chính, ông như được sống lại; ông chạy khắp làng trên xóm dưới khoe về tin cải chính của làng mình trong niềm hân hoan khôn xiết. Sau những ngày dài không dám đi đâu vì tủi nhục, vì xấu hổ, tin làng cải chính như giúp ông thoát khỏi sự lựa chọn khó khăn giwuax tình yêu làng xóm,quê nhà và lòng yêu kháng chiến, yêu đất nước. Kim Lân đã rất thành công khi sử dụng nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật được thể hiện qua tình huống, cách miêu tả cụ thể – đặc biệt sự đặc tả tâm trạng trong nỗi day dứt ám ảnh của ông Hai. Ngôn ngữ truyện mang đậm tính khẩu ngữ, gần gũi với đời sống.

Qua diễn biến tâm lý của ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân đã sáng ngời lên tình yêu quê hương, yêu đất nước được hòa quyện thật đẹp.

13. Phân tích diễn biến tâm trạng của ông Hai trong truyện ngắn Làng

13.1. Phân tích tâm trạng của ông Hai trong truyện ngắn Làng - Mẫu 1

Làng của Kim Lân là một trong những truyện ngắn đặc sắc về đề tài người nông dân, về chủ nghĩa yêu nước trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thần thánh xưa kia. Trong truyện, ta thấy được tình yêu làng xóm quê hương được nâng lên thành tinh thần yêu nước, yêu Tổ quốc sâu nặng trong tâm hồn những người nông dân bình dị, chân chất. Chuyển biến tốt đẹp đó chỉ có thể thấy được trong những hoàn cảnh nóng bỏng quyết tâm đánh đuổi kẻ thù xâm lược.

Truyện được tác giả viết vào những ngày đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Nói về người nông dân nhưng chủ yếu câu chuyện xoay quanh nhân vật ông Hai, một lão nông cần cù, chất phác như bao nhiêu người khác. Chỉ có điều đáng nói là ông lão yêu làng quê mình chả giống ai, yêu bằng một thứ tình cảm rất riêng biệt.


Kim Lân đã nắm bắt được nét đáng quý đó để thể hiện một cách chân thực nhưng cũng rất độc đáo và thú vị trong truyện ngắn của mình. Ông Hai yêu cái làng Chợ Dầu của mình vô cùng, tình yêu đó khiến ông trở thành người thích khoe khoang. Cái gì của làng Dầu cũng hay cũng khéo, nào là con đường làng lát toàn đá xanh, trời mưa trời gió thì sạch mà trời nắng phơi rơm rạ thì chả cái gì bằng được, nào là cái sinh phần của cụ Thượng,… Có khoe như vậy, người dân nơi khác mới trầm trồ, mới thán phục. Trong tất cả các câu chuyện của ông luôn luôn có đề tài về nơi “chôn rau cắt rốn” và cũng chỉ khi ấy trông ông mới trở nên sáng sủa, tinh nhanh. Quả thật, niềm hãnh diện về chốn “quê cha đất tổ” ở con người này thật hồn nhiên, trong sáng.

Cách mạng về, đem đến cho mọi người cuộc sống mới, không còn áp bức bóc lột, người dân cày được làm chủ ruộng đồng, làng quê và nhận thức của những người nông dân như ông được mở mang, hiểu biết hơn xưa… Rồi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Bác Hồ đã thổi bùng ngọn lửa yêu nước trong lòng toàn thể dân tộc và tất cả những người dân quê như ông Hai. Ông sớm nhận thức ra được giá trị đích thực của làng quê mình, con người quê hương mình. Cho nên nếu có nghe ông khoe về làng Dầu bây giờ chúng ta cũng thấy thật hồ hởi, phấn chấn. Nào là khí thế cướp chính quyền, nào là tập tự vệ, đào hào, đắp ụ, chuẩn bị chiến đấu,… tấm lòng chân thực và niềm tự hào chân chính của ông đã thể hiện một bước chuyển mình sâu sắc của người nông dân từ tình cảm cục bộ, cá nhân với làng quê của mình hòa thành lòng quyết tâm đánh giặc, bảo vệ quê hương, giành độc lập cho đất nước.

Ông ý thức rằng việc rời làng đi tản cư, đưa người già, con trẻ ra khỏi vùng có chiến sự cũng là tham gia kháng chiến. Đang say sưa cùng bà con xóm giềng, đang hào hứng cùng anh em tự vệ, giờ phải xa làng đối với ông là một cực hình, cả ngày, ngoài công việc mưu sinh ra là lòng ông lại vời vợi nhớ về làng quê. Nỗi nhớ đó khiến ông buồn bực, bứt rứt khôn nguôi. Ông cáu gắt, cấm cửa bất cứ lúc nào có thể, ông đay nghiến, trách cứ toàn là những việc không đâu. Có lẽ chỉ khi sang nhà bác Thứ vào mỗi tối, ông Hai mới được toại nguyện.

Ở đó, ông được nói thỏa sức về chuyện kháng chiến, chuyện Cụ Hồ và dĩ nhiên quanh quẩn lại trở về với làng Chợ Dầu của mình… Được nói, được khoe đối với ông là một nhu cầu không thể thiếu được, dù rằng bác Thứ có nghe hay không cũng không quan trọng. Những tình cảm đáng quý đó đã làm nên nét đẹp thuần khiết trong tâm hồn của những người lao động nói chung và cũng là của nhân vật ông Hai nói riêng.

Nhưng phải đợi cho đến lúc ông Hai bộc lộ các cảm xúc buồn vui, yêu ghét một cách mạnh mẽ và quyết liệt của mình trước những tình huống bất ngờ xảy ra ta mới thấy hết được mức độ chuyển biến sâu sắc của người nông dân Việt Nam trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Bắt đầu bằng việc cái tin làng Chợ Dầu theo giặc làm Việt gian qua các người dân đi tản cư mang đến. Tiếp nhận tin dữ đó, ông nghe như tiếng sấm đột ngột nổ bên tai, “cổ họng ông nghẹn ắng hẳn lại” rồi tiếng nói của ông không thoát ra nổi để trở thành “rặn è è trong cổ”. Bên ngoài ông cố tỏ ra bình thường nhưng tâm hồn ông bấn loạn khiến da mặt “tê rân rân” của sự xấu hổ xen lẫn hoài nghi và đau khổ. Cuộc sống của ông thay đổi hoàn toàn, từ lời ăn tiếng nói đến cách cư xử hằng ngày. Hình như ông không muốn ai nhìn thấy sự xuất hiện của mình ở trên đời này, ông đầm ra hay suy luận, bán tín bán nghi… khó có ai thấy lại được con người lao động cởi mở, hồn hậu, ăn to nói lớn của ống trước kia nữa.

Ông đau đớn, tủi hổ vì cái làng mà ông tự hào trước đây đã có hành động xấu hổ, nhục nhã như vậy. Những ý nghĩ đen tối, những nỗi đau khổ vật vã túc trực trong ông. Mới trước đây còn thiết tha hướng về làng quê, chỉ lo không được trở lại làng nữa, vậy mà trong phút chốc ông đau đớn đi đến quyết định trái ngược lại: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Cuộc trò chuyện tâm tình với đứa con út và những giọt nước mắt của ông đã cho chúng ta thấy tình cảm gắn bó, yêu thương làng quê của người nông dân xưa kia không thể tách rời tình yêu Tổ quốc, lòng căm thù không đội trời chung với giặc Pháp xâm lược. Lúc này, yêu làng là phải sát vai, chung sức đánh đuổi quân thù để đất nước được giải phóng, quê hương được yên bình. Nếu làm ngược lại là hành động phản bội không thể tha thứ được !

Tình hình nghiêm trọng đến mức ông chủ tịch làng Chợ Dầu phải lên tận nơi tản cư của dân làng mình để cải chính. Nghe tin đó ai cũng mừng, riêng ông Hai như được hồi sinh, trẻ ra chục tuổi. Niềm vui đến khiến ông trở thành trẻ con, hai tay “cứ múa lên” mà khoe, ông cuống quýt chạy từ người này sang người khác mà nói, mà khoe, mà thanh minh, cải chính,… Có lẽ, ông là người duy nhất trên thế gian này đi khoe làng mình cháy hết cả và cả nhà ông cũng cháy hết sạch, không còn gì. Thoáng nghe thấy lạ lùng, nhưng có như vậy mới khiến ta vỡ lẽ ra, tất cả sự mất mát mà ông đang ra sức khoe kia lại là minh chứng hùng hồn nhất cho cái làng Chợ Dầu của ông đã đánh Pháp đến cùng.

Có thế mới bị chúng tàn phá dã man “cháy tàn cháy rụi” như vậy. Ông Hai cũng như mọi người nông dân Việt Nam khác sẵn sàng đánh đổi mọi thứ hay thà mất hết tất cả miễn sao đánh đuổi được quân thù, giành lại độc lập tự do cho đất nước. Có vậy, ông mới mau được trở lại làng quê, lại có biết bao nhiêu thứ giỏi, thứ tài mà khen, mà khoe thoải mái ! Chuyển biến sâu sắc này là biểu hiện cao đẹp của chủ nghĩa yêu nước chân chính mà ông Hai cũng như những người nông dân ở mọi làng quê Việt Nam đã bộc lộ.

Bên cạnh nhân vật chính, chúng ta còn thấy nhiều người nông dân khác cũng thể hiện tấm lòng của mình. Dù ít hay nhiều, dù thoáng qua hay đầy góc cạnh… họ cùng tô điểm cho truyền thống yêu nước của người nông dân nói riêng hay của người Việt Nam nói chung. Một mụ chủ nhà ngoa ngoắt, tham lam nhưng khi kháng chiến nổ ra đã tự nguyện sẻ nhà sẻ cửa cho người tản cư. Vậy mà sẵn sàng đuổi khéo khi nghe tin làng quê của họ theo giặc phản bội nhân dân, phản bội Tổ quốc. Một ông chủ tịch xã lặn lội bao nhiêu đường đất, không quản nguy hiểm để đưa tin cải chính, bảo vệ thanh danh cho quê hương mình, đảm bảo tiếng tốt cho dân làng mình.

Không coi trọng tình cảm đối với kháng chiến, với cách mạng thì sao đủ dũng cảm làm như thế được ! Một câu chửi bâng quơ của người đàn bà tản cư dừng chân cho con bú cũng nói lên được tấm lòng sâu sắc của họ với đất nước: “Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó ! Đói khổ ăn cắp, ăn trộm bắt được người ta còn thương. Cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát !”. Những cử chỉ của họ tuy khác nhau nơi việc làm nhưng đều giống nhau nơi lòng nồng nàn yêu nước ghét giặc. Như vậy, bất kể người già hay trẻ, bất kể phụ nữ hay nam giới, cuộc kháng chiến chống Pháp đã lôi cuốn họ hoà vào dòng thác cách mạng để họ có điều kiện đem “thứ của quý” đó ra khỏi rương hòm và có dịp “trưng bày trong tủ kính hay bình pha lê” như lời Hồ Chủ tịch đã nói.

Tác phẩm đã nói lên sự mở rộng và thống nhất của tình yêu quê hương trong tình yêu đất nước và đó cũng là nét mới trong nhận thức và tình cảm của người nông dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp năm xưa. Họ đã cùng với nhân dân cả nước tô điểm cho trang sử oanh liệt chống ngoại xâm của cha ông ta.

13.2. Phân tích tâm trạng của ông Hai trong truyện ngắn Làng - Mẫu 2

Trong lời tự bạch của mình, Kim Lân nói rằng: “Nói đến tình yêu nước, nghe cảm thấy còn xa xôi, nhưng tình cảm đối với làng thì thật gần gũi, gắn bó. Đối với con người Việt Nam, làng xóm nuôi những con người lớn lên bằng cả vật chất cũng như đời sống tinh thần”. Chính tình yêu làng sâu sắc của bản thân Kim Lân đã lớn dần lên thành tình cảm cách mạng. Và truyện ngắn “Làng” chính là nơi nguồn tình cảm cao quý đó có dịp thăng hoa. Đến với tác phẩm, ta gặp một nhân cách ông Hai giản dị bình thường như bao người khác nhưng tràn đầy tình yêu làng, yêu nước và tinh thần kháng chiến.

Cả tác phẩm là cuộc chiến nội tâm, là thử thách đối với tình yêu làng của ông Hai khi ông nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc. Suốt mấy ngày ông đau khổ, dằn vặt chẳng dám gặp ai. Đến khi tin đồn được cải chính ông Hai lại hồ hởi đi khoe làng với tất cả niềm vui sướng của mình.

Với “Làng”, lồng trong tình huống truyện độc đáo là việc miêu tả chiều sâu tâm lí nhân vật cũng hết sức tinh tế, đặc biệt qua nhân vật ông Hai. Những rung động, xúc cảm lúc buồn lúc vui đã tạo nên hiệu ứng đặc biệt với bạn đọc.

Ấn tượng đầu tiên về ông Hai chính là hình ảnh người nông dân Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp gian khổ. Đó là con người chất phác, cần cù, siêng năng, đầy tinh thần lao động. Ông Hai đến đây chỉ là người dân đi tản cư và trong ông luôn đau đáu về quê hương mình, nơi mà ông gắn bó đã nửa đời. Ta thấy được tình yêu đó lớn thế nào, khi nghĩ đến cái cảnh ông vùng vằng nhất quyết ở làng kháng chiến và chỉ ngậm ngùi chịu ra đi khi được giảng giải rằng: “tản cư cũng là kháng chiến”. Lúc đó và bây giờ cũng chẳng khác nhau là mấy. Đang ở nơi đất khách quê người, ông luôn đau đáu về làng, luôn nhớ về cái “độ ấy”, cái lúc mà ông vui vẻ bên anh em bạn bè “cũng hát hỏng, cũng bông phèng, cũng đào cũng cuốc mê man suốt ngày”… Tâm trạng ông như trẻ ra cùng những nhớ nhung, hồi tưởng.

Nơi tản cư, ông đang trọ trong nhà mụ chủ khó tính,luôn xiên xỏ… nhưng ông vẫn vì kháng chiến mà chịu đựng, vẫn lạc quan. Ông tiếp tục sống trong tình yêu làng Chợ Dầu tha thiết, yêu nước yêu cách mạng, thù ghét bọn Tây cướp nước! Cũng ở nơi này, ông đã hình thành nên thói quen không thể bỏ - vào phòng thông tin đọc báo. Dù có biết chữ nhưng ông cũng chẳng dễ dàng gì đọc được thế là phải nghe lỏm, “điều này làm ông khổ tâm hết sức”. Nhưng ông chẳng nhụt chí vì ở đây luôn có những niềm vui lớn, ông được nghe “tinh những người tài giỏi” cứu nước. Cứ đến, ông lại náo nức, rạo rực và lại thêm tin tưởng đến thắng lợi. Ông bước đi cùng niềm vui “náo nức” để tiếp tục cho cuộc sống nơi quê người và cảm thấy thật nhẹ nhàng, khoan khoái, sẵn sàng thả hồn trên những con đường đầy nắng, chấp chới cánh cò…

Nhưng rồi, kịch tính đã xảy ra, một tình huống trớ trêu đã đến. Cái tin làng Chợ Dầu của ông theo Tây không biết từ đâu đã chạy theo những người tản cư mới lên tới đây, tới ngay trước cái mặt đang vênh lên vì phấn khích: “Thế ta giết được bao nhiêu thằng?”. Và rồi niềm phấn khích trong lòng ông bị dội gáo nước lạnh, cái tượng đài trong lòng ông - làng Chợ Dầu đã theo Tây! Thật là khó có thể chấp nhận. Ông như dính một cú sốc lớn: “Cổ ông nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được. Một lúc mới rặn è..è...”. Như cố ngoi lên tìm chút hy vọng, ông hỏi: “Liệu có thật không hở bác? Hay chỉ là lại…”. Nhưng không, người đàn bà đi tản cư đã khẳng định “Việt gian từ thằng chủ tịch… Thằng chánh Bệu…” thì khó mà bác bỏ được. Và câu hỏi “Sao bảo làng chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà?” như một đòn giáng vào tâm hồn gần như tê dại của ông rồi. Ông cảm thấy xấu hổ vô cùng nhưng cố làm ra vẻ bình thản để che dấu tâm trạng, cúi mặt mà đi về nhà. Ông đau lắm, đến nỗi chẳng dám nhận mình là người làng Chợ Dầu dù ông rất tin tưởng ở những người đồng hương kháng chiến.

Ông Hai cố gắng chạy trốn, cố gắng lảng tránh nhưng cũng chẳng được vì trong tâm tưởng ông luôn có làng. Chính vì thế mà những lời nói của đám người tản cư lúc nãy cứ bám theo ông về tận nhà. Ông đã sụp đổ thật rồi. Ông nghĩ mà tủi thân, giàn giụa cả nước mắt. Ông đang nghĩ cho những đứa trẻ “làng Việt gian”sẽ bị hắt hủi hay ông đang nghĩ cho chính bản thân mình? Ông đã trung thành với cách mạng vậy mà giờ đây phải mang tiếng bán nước… Ông đau đớn khôn cùng khi nghĩ về những anh em yêu nước của mình. Liệu họ có thể bán rẻ Tổ quốc? Nhưng những bằng chứng quá cụ thể đã nói lên tất cả mọi chuyện. Một mặt ông đang cố bảo vệ, mặt kia ông lên án để rồi tạo thành cuộc xung đột nội tâm ghê gớm. Nhục nhã quá! Ghê tởm thay cái giống Việt gian – quân bán nước!

Trong cái khung cảnh đau khổ thế này, bà Hai xuất hiện như một cái sự không cần thiết. Bà cũng đã nghe tin, cũng đã rất lo lắng. Khi bà nhắc đến tin đồn chỉ khiến cho một người im lặng vì “đau” phải cáu gắt. Cũng phải hiểu cho ông Hai, khi một người đang đau sẽ khó có thể thông cảm được cho nỗi đau của người khác. Không khí trong căn nhà chật chội giờ trở nên khó thở hơn bao giờ hết…

Nỗi ám ảnh nặng nề, cảm giác đau xót, nhục nhã đã biến thành nỗi sợ hãi thường trực trong ông Hai kể từ lúc nghe được tin dữ ấy. Bằng chứng là ông tự dày vò mình trong căn nhà nhỏ bốn ngày liền. Tất cả những gì ông làm được chỉ là nghe ngóng. Ông ngóng xem người ta bàn tán chuyện đó ra sao…, ông “nơm nớp”… ông “chột dạ”... Cứ thoáng nghe đến Tây, Việt gian, cam - nhông... là ông “lủi ra một góc nhà, nín thít”. Đã đau đớn vậy rồi mà ông vẫn cứ tìm thêm nỗi đau. Có lẽ, ông biết là không nên nhưng lí trí đã thua, thua một con tim nồng nàn chẳng đổi!

Và cuối cùng thì việc ông luôn thường trực một nỗi sợ hãi và đáng sợ hơn là mụ chủ nhà bóng gió đuổi gia đình ông đi, bởi nhà ông là người làng Việt gian. “Thế là tuyệt đường sinh sống! Cực nhục chưa! Đi đâu bây giờ?” Cái giống làng Việt gian mới nhục làm sao? Đến một chốn dung thân cũng chẳng có. Chẳng nơi nào chứa cái hạng người như thế. Nếu kiếm được cũng chẳng mặt mũi nào mà ở. Đó là kết quả của những suy nghĩ quặn xé từ trái tim ứa máu của ông Hai.

Trước mắt ông lão chỉ có hai con đường. Ở lại thì không được rồi. Còn về làng… Vừa chớm nghĩ thôi ông đã gạt phắt đi ngay. Là một người như ông, há ông chịu quay về cái chốn nhục nhã đó nữa, quay về chẳng phải cùng hàng với bọn Việt gian sao? Và “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ”. Ông đã khổ tâm quá rồi. Chọn làng hay kháng chiến? Ông khổ tâm tới mức mà phải đau đớn thốt ra: ”Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù!”

Mâu thuẫn nội tâm đã được đẩy lên đỉnh điểm. Ông sa vào bế tắc. Ông đã nén, nén cái đau khổ quá nhiều rồi. Và cuối cùng, ông chỉ biết giãi bày tâm sự cùng đứa con út. Với đứa con, ông trải hết cái tâm trạng trĩu nặng nỗi buồn. Trong cuộc trò chuyện, ông vẫn đưa đứa con thơ ngây một tình yêu làng chợ Dầu tha thiết, hình ảnh làng vẫn đau đáu trong tâm khảm ông. Và hơn hết, ông đã gạt bỏ cái riêng mà hòa vào cái chung của kháng chiến. Gánh nặng trong ông đã vơi đôi phần. Hình như, đến giây phút này từ trong tấn bi kịch đó lại sáng ngời lên một tình cảm cao đẹp đó là tinh thần dân tộc, trung thành với cách mạng, với cụ Hồ: “Anh em đồng chí biết cho bố con ông/Cụ Hồ trên đầu trên cổ soi xét cho bố con ông…”. Tình cảm đó như là nguồn nghị lực vô tận đem đến sức sống cho ông Hai. Ta chợt nhớ đến câu thơ của Trần Đăng Khoa trong trường ca “Khúc hát người anh hùng”:

“Người ta trong lúc hiểm nghèo

Hoặc vằng vặc sáng hoặc heo hút tàn.”

Ông đã sáng, sáng chói lên lòng yêu nước chân thành của người nông dân hướng đến cách mạng, đến cụ Hồ. Vẻ đẹp đó thực sự đáng ngợi ca. Để rồi, hình như ông trời đã không tuyệt đường sống của ai bao giờ, nhất là với những người như ông. Nó đã đến, cái tin làng Chợ Dầu theo Tây được cải chính đã đến. Ông Hai đã sống như thể vừa được hồi sinh một lần nữa sau cuộc chiến xung đột nội tâm ghê gớm kéo dài vừa qua. Tình yêu làng, yêu nước đã trở về hòa quyện sâu sắc hơn trong lòng người nông dân chất phác này. Ông Hai đã trút bỏ được sự dằn vặt, đau khổ bấy lâu. Niềm vui đã trở lại trên khuôn mặt buồn thiu ngày trước. Ông lão vui như chưa có lần nào vui hơn được nữa: “Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy…” rồi mua quà cho con, đi khắp nơi sang nhà bác Thứ, mụ chủ nhà, hễ gặp ai ông lại nói lại kể, lại cười. Và lại khoe: “Tây đốt nhà tôi rồi bác ạ! Đốt nhẵn”. Niềm vui đó lớn đến nỗi khi kể về làng mình bị đốt nhẵn, nhà mình bị cháy rụi mà chẳng quan tâm, chẳng bận lòng, dường như chẳng hề hấn gì chỉ biết đến trước mắt là niềm vui kháng chiến, niềm vui cách mạng. Hay là vì ông Hai đã trút đi được nổi hổ thẹn, cực nhục? Mọi thứ dường như tan biến trong hạnh phúc dâng trào. Bây giờ lại có thể tự hào, hãnh diện khoe về cái làng kháng chiến của mình nữa rồi.

Người nông dân chất phác, mộc mạc đã tìm được con đường vẽ ra chân trời mới cho họ. Nhờ đó, cách mạng trở thành một phần trong họ - những người như ông Hai sẽ đau khổ thế nào khi chân lí sống của mình bị xâm phạm. Cách mạng đã cho họ cuộc sống mới và họ hiểu để trân trọng, để bảo vệ.

Tình huống làng chợ Dầu theo Tây được cải chính là cái kết cho cuộc xung đột nội tâm gay gắt của ông Hai nhưng nó đã mở ra cả tâm và thế mới cho những nhân vật trong truyện. Cái nhìn về làng chợ Dầu đã được thay đổi qua từng nét mặt của ông Hai. Nhờ đấy mà toát lên một vẻ đẹp tình cảm xuất phát từ đáy lòng, máu thịt - tình cảm gắn bó với làng quê, cách mạng, với Bác Hồ của những người nông dân chân chất ấy.

Xây dựng được tâm lí ông Hai một cách ấn tượng và tinh tế là thành công lớn của truyện ngắn “Làng”. Qua đây, sự khám phá chiều sâu tâm trạng và tâm lí nhân vật được Kim Lân nâng lên một tầm mới. Tác giả đã gửi lại sau “Làng” một tình yêu, một niềm tin vào người nông dân Việt Nam trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp lắm gian lao.

14. Phân tích nhân vật ông Hai trong tác phẩm “Làng” – Kim Lân

Nhà văn Nguyễn Minh Châu từng quan niệm: “Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”. Văn chương lấy con người làm đối tượng phản ánh thay cho hiện thực đời sống. Nhà văn chân chính, dù viết về điều gì và thể hiện như thế nào trong tác phẩm thì điểm xuất phát và đích đến cuối cùng vẫn là cõi nhân sinh, mục tiêu cao cả nhất của nhà văn vẫn là viết “một áng văn trung thực và giản dị về con người” (Chữ dùng của Hemingway). Với mỗi một tác phẩm, người đọc lại có dịp chiêm nghiệm về những con người khác nhau. Trong tác phẩm “Làng”, nhà văn Kim Lân đã tạc nên những trang viết neo đậu mãi trong tâm hồn chúng ta về nhân vật ông Hai – một trái tim yêu làng tha thiết, một linh hồn yêu nước nồng nàn.

Kim Lân là một trong số những cây bút truyện ngắn dù để lại một số lượng tác phẩm không nhiều nhưng sáng tác nào của ông cũng vững vàng nơi lòng người và thách thức quy luật băng hoại của thời gian. Nguyên Hồng từng nhận xét : Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với “đất” với “người” với “thuần hậu nguyên thuỷ” của cuộc sống nông thôn. Bằng giọng văn chân thực, giản dị, từng trang viết của Kim Lân đong đầy bóng dáng làng quê và con người Việt Nam. Truyện “Làng” được sáng tác trong những năm đầu của kháng chiến chống Pháp, lần đầu ra mắt bạn đọc trên “Tạp chí Văn nghệ” năm 1948. Lấy bối cảnh cuộc tản cư trong những năm đầu kháng chiến, tác phẩm xoay quanh những chuyển biến trong tâm trạng của nhân vật ông Hai. Ông không thuộc hạng cùng đình nghèo khổ như anh Pha, chị Dậu, cũng chẳng thuộc hàng vai vế có “miếng” có “tiếng” trong làng. Ông chỉ là một người nông dân nồng hậu, chất phác, hay làm và chịu khó. Từ con người của làng quê, ông trở thành con người của kháng chiến, của sự nghiệp chung.

Ấn tượng đầu tiên mà ông Hai để lại cho người đọc chính là cái tính khoe làng của ông. Dường như hình ảnh ngôi làng luôn thường trực trong tâm trí của lão nông ấy để khi nói về nơi nuôi dưỡng mình, chốn quê thân thuộc “hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển, hoạt động”. Đặc biệt, ông Hai khoe làng một cách nhiệt thành. Ông không cần người khác phải chú ý lắng nghe, cũng không quan tâm họ có nghe hay không, ông chỉ nói để thỏa niềm tự hào, nỗi nhớ da diết của mình đối với làng. Rồi qua từng thời kì khác nhau, lời kể, lời khoe của ông cũng thay đổi. Duy chỉ có tình yêu làng của ông vẫn thế, cứ mãi vẹn nguyên, vẹn toàn, không hề đổi thay và cũng chẳng hề lay chuyển.

Xa rời quê hương, sống nhờ nơi đất khách quê người, lòng ông đau đáu nhớ quê, nhớ làng. Ông hoài niệm về những năm tháng được cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá… Ông Hai cảm thấy lúc ấy mình trẻ trung hẳn ra, “cũng hát hỏng, bông phèng.” Càng nghĩ tưởng, nỗi nhớ cứ như những đợt sóng lòng dồn dập, vỗ nhẹ vào trái tim ông phát ra những thanh âm chan chứa bao nỗi triền miên về những ngày quá khứ : “Chao ôi, ông lão nhớ làng. Nhớ cái làng quá!”. Đằng sau nỗi nhớ ấy là khao khát được trở về, là tình yêu xóm làng chân thành, bất diệt. Tình cảm ấy bao giờ cũng thiêng liêng, cũng dạt dào và tha thiết. Vì nhớ, vì yêu nên ông Hai vẫn thường xuyên vào phòng thông tin nghe tình hình, tin tức kháng chiến. Dọc đường đi, gặp ai quen ông lão cũng níu lại, cười cười, ông vui cả với cái nắng chang chang bởi Tây nó ngồi trong vị trí giờ bằng ngồi tù.Ông phấn khởi trước những thắng lợi của kháng chiến. Ruột gan ông lão như múa cả lên vì nghe được bao nhiêu tin hay, đáng mừng và đáng khâm phục về những chiến công của làng. Quả đúng như Raxun Gamzatov từng nói: “Người ta chỉ có thể tách con người ra khỏi quê hương, chứ không thể tách quê hương ra khỏi con người”.

Trong lúc tâm trạng đang phấn khởi vì những tin tức kháng chiến vừa nghe được, ông Hai gặp gỡ những người dưới xuôi lên và nghe được cái tin làng Chợ Dầu theo giặc từ một người đàn bà tản cư. “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại,da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi ,tưởng như đến không thở được”. Dưới ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ, thế giới nội tâm của nhân vật được miêu tả đầy chân thực qua nét mặt và cử chỉ. Ông lão bàng hoàng và sững sờ vô cùng, dường như có một bàn tay vô hình đang bóp nghẹt trái tim ông. Lúc đầu ông không thể tiếp nhận được, ông cứ hỏi đi, hỏi lại như thể ông đang hi vọng cái tin dữ kia chỉ là do miệng đời đàm tiếu, giọng ông như lạc hẳn: “Liệu có thật không hở bác. Hay là chỉ lại…”. Đối diện với những lời nói chắc như đinh đóng cột rằng làng ông “Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi”, bao nhiêu niềm tin, bao nhiêu niềm tự hào về ngôi làng mà ông luôn khoe khoang với mọi người bỗng chốc sụp đổ. Là người làng Chợ Dầu, ông đâu còn can đảm để ở lại mà nghe những lời bàn tán bủa vây mình. Ông vội vàng ra về cùng câu nói tưởng chừng như chỉ bâng quơ thốt lên nhưng nó lại chính là cái cớ ông bám lấy để rời khỏi đây :”Hà, nắng gớm, về nào”. Mảnh độc thoại ấy sao mà cay đắng, xót xa như một sự trốn chạy thực tại tàn nhẫn, không muốn ai phát hiện ra mình là người làng Chợ Dầu. Nếu trên đường đi tới phòng thông tin ông hiên ngang bao nhiêu thì giờ ông lại “cúi gằm mặt mà đi”. Bởi cõi lòng ông Hai giờ đây tựa như vỡ tan thành từng mảnh, trái tim ông rỉ máu, đâu đây như thể một nỗi chua xót, ô nhục và tủi thân.

Mang trong mình cả một khoảng trời giông bão, cả một mối tơ lòng hỗn độn, ông Hai lê từng bước về nhà rồi lại “nằm vật ra giường” chẳng còn tâm sức để làm gì cả. Nhìn lũ trẻ mà cảm xúc dâng trào “nước mắt ông lão giàn ra”. Biết bao câu hỏi cứ đua nhau xô đẩy, giằng xé trong đầu ông: “Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?”. Nghệ thuật độc thoại nội tâm đã khắc họa thành công nỗi lòng của ông lão nông dân ấy. Ông Hai xót thương cho số phận của chính mình và đám trẻ non nớt mới mấy tuổi đầu. Bởi gia đình ông là người làng Chợ Dầu nên đè nặng trên những đôi vai hao gầy và yếu ớt là bản án mang tên “cái giống Việt gian bán nước”. Ông Hai căm phẫn lũ tội đồ phản nước theo giặc. Tất cả như dồn nén trong từng con chữ đanh thép :”Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Ông kiểm điểm lại từng người anh em đã cùng nhau đồng cam cộng khổ thuở trước, từng người con của làng Chợ Dầu. Trong trí óc của ông, họ đều là những người sung sức, tràn đầy tinh thần yêu nước nồng nàn. Giờ phút ấy, ông Hai vẫn cố bám víu chút giọt nắng “niềm tin” giữa cơn đại hồng thủy dữ dội. “Mà thằng chánh Bệu thì đích là người làng không sai rồi. Không có lửa làm sao có khói ? Ai người ta hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì ?”. Những dòng suy nghĩ đó cứ ồ ạt kéo đến đâm vào trái tim ông, phũ phàng dập tắt ngọn lửa niềm tin. Ông Hai bất lực chấp nhận cái tin dữ ấy, nỗi đau xâm chiếm linh hồn, một nỗi đau không lời nào tả xiết. “Chao ôi ! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian”. Đó là tiếng nói thốt lên từ một trái tim bị tổn thương, từ một cõi lòng suy sụp tột cùng, từ niềm tự hào bị vùi dập tả tơi. Ông đâu chỉ đau cho mình, đau cho làng mà ông còn đau cho những người đồng hương cùng cảnh ngộ:”Lại còn bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã rõ cái cớ sự này chưa?”. Nỗi bứt rứt trong tâm can của ông bị dồn nén quá nhiều nên sinh gắt gỏng khi nói chuyện với bà Hải. Ông Hai không muốn nghe ai nhắc đến chuyện tồi tệ đó, không muốn ai xát muối vào vết thương trong lòng ông. Bủa vây ông là nỗi lo trăm bề “trằn trọc đến không ngủ được”, là tiếng thở dài bất lực làm sao. Nỗi lo ấy hành hạ cả tinh thần lẫn thể xác khiến “chân tay nhũn ra, tưởng chừng như không cất lên được” hay “trống ngực ông lão đập thình thịch”. Như một điều tất lẽ dĩ ngẫu, dân ta từ Nam ra Bắc, từ miền ngược đến miền xuôi đều ghét cay ghét đắng, ghê tởm và thù hằn bọn Việt gian bán nước nên ông càng lo sợ mụ chủ nhà đuổi gia đình ông đi, dồn gia đình ông vào thế cùng cực, tuyệt đường đất sinh nhai.

Từ khi nghe tin làng theo giặc, ông Hai như người mất hồn. Ông ăn không ngon, ngủ không yên. Ông cảm thấy như mình cũng là kẻ có tội, lúc nào cũng nơm nớp lo sợ trong nỗi ám ảnh, tủi nhục ê chề. Ông tuyệt giao với tất cả mọi người, “không bước chân ra đến ngoài”. Ông rất sợ ai đó nhắc đến những tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông… Ông né tránh tất cả những gì liên quan đến cái tin dữ dội kia và gọi chuyện phản bội tồi tệ đó là “chuyện ấy”. Bởi chính ông chẳng dám và cũng chẳng đủ sức để nhìn thẳng vào thực tế đầy phũ phàng và đau đớn. Ngẫm kĩ, đối với một lão nông dân chất phác, chân lắm tay bùn luôn tự hào và yêu làng tha thiết thì cái tin làng theo giặc quả là một cú trời giáng chí mạng, là nỗi uất ức, nhục nhã tột cùng. Với ông Hai, làng không chỉ là nơi chôn rau cắt rốn mà còn là một thứ gì đó lớn lao hơn, là lòng tự tôn, là danh dự. Ông và cái làng ấy đã trở thành máu thịt, ông và làng là một, danh dự của làng cũng là danh dự của ông.

Từ lúc mụ chủ nhà đánh tiếng đuổi gia đình ông đi, ông Hai thực sự rơi vào bế tắc. Chính trong lúc đau đớn tuyệt vọng ấy đã đẩy ông vào tình thế là phải lựa chọn: làng Chợ Dầu hay Tổ quốc ? Ông đã thoáng nghĩ đến việc “Hay là quay về làng?” để gia đình ông có chỗ dung thân. Thuở trước, làng Chợ Dầu của ông đáng yêu, đáng tự hào lắm. Nhưng giờ đây chỉ nghĩ đến nó là lòng ông đắng ngắt, đau nhói từng hồi. Mới hôm nào về làng là khao khát, là mong ước cháy bỏng của ông thế mà bây giờ ông thấy rợn cả người và phải dập tắt ngay cái ý nghĩ đen tối đó. Bởi làng giờ đã nối gót theo Tây, “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”, là cam chịu trở về với kiếp sống lầm than, kiếp sống của những kẻ nô lệ. Dòng máu Việt Nam anh hùng vẫn đang không ngừng luân chuyển, đi qua mọi ngóc ngách trong trái tim ông. Tận sâu nơi cõi lòng người nông dân ấy, ngọn lửa của tình yêu nước cao cả vẫn đang rạo rực, vẫn hướng về cuộc kháng chiến nên ông đã quyết định một cách đau đớn nhưng dứt khoát :”Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Đứng trước sự lựa chọn khó khăn, quyết định của ông Hai đã khẳng định tình cảm rạch ròi của người nông dân, tình yêu nước rộng lớn, mạnh mẽ và thiêng liêng bao trùm lên tình cảm làng quê.

Trong tâm trạng tồi tệ bị dồn nén lâu ngày, ông Hai chỉ còn biết thả trôi nỗi lòng của mình vào những lời thủ thỉ, tâm sự với thằng con út. Chỉ khi tâm sự cùng con ông mới dám giãi bày hết thảy những gợn sóng rầu rầu đang âm ỉ trong lòng. Ông hỏi con về làng, để thỏa nỗi nhớ làng, để khắc sâu tình cảm cội nguồn nơi con. Ông muốn con ghi nhớ “Nhà ta ở làng Chợ Dầu” cũng như muốn chính mình không được quên Chợ Dầu là quê hương, là gốc gác. Phải chăng chính ông vẫn còn yêu làng tha thiết, tình cảm ấy vẫn mãi ngự trị trong trái tim ông. Ông hỏi con về Cụ Hồ – biểu tượng của cách mạng để chứng minh cho tấm lòng yêu nước, tấm lòng thủy chung với kháng chiến đã bám chặt vào mạch huyết. Đồng thời, ông cũng muốn truyền cho con, cho thế hệ sau tình cảm cao đẹp, thiêng liêng, nhân bản nhất của con người: Tình yêu làng và yêu nước.Cuộc đối thoại giữa hai bố con chỉ xoay quanh chuyện làng và chuyện nước. Ông nói với con, nhưng thực chất là lời từ vấn để vơi bớt nỗi lòng, để minh oan cho tấm lòng trong sạch của mình, mong “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông”. Ta chợt nhớ đến câu thơ của Trần Đăng Khoa trong trường ca “Khúc hát người anh hùng”: “Người ta trong lúc hiểm nghèo Hoặc vằng vặc sáng hoặc heo hút tàn.” Ông Hai đã ngời sáng với những nét đẹp trong tâm hồn người nông dân, nét đẹp chung hòa giữa tình yêu làng và lòng yêu nước.

Bước qua biết bao ngưỡng cửa cảm xúc buồn vui lẫn lộn, từ hi vọng đến tuyệt vọng, từ hãnh diện tự hào đến khổ đau tủi nhục, đêm đen đã qua, nhường chỗ cho những rạng đông phía cuối chân trời. Cái tin làng cải chính đã đến với ông Hai. Ông như được hồi sinh một lần nữa, rủ sạch được hết thảy sự dằn vặt, nhục nhã, đau khổ bấy lâu, “cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”. Ông trở lại với “thói quen” cũ của mình, lật đật đi khoe khoang khắp nơi rằng :”Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn. Ông chủ tịch làng em vừa lên cải chính…cải chính cái tin làng Chợ Dầu chúng em Việt gian ấy mà. Ra láo ! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả”. Sách “Bình giảng văn học 9″ có viết :” Có lẽ chưa có ai trên đời lại đi khoe cái sự “Tây nó đốt nhà tôi rồi. Đốt nhẵn ” một cách hả hê sung sướng thật sự như ông “. Đối với người nông dân, ngôi nhà là tài sản lớn lao, là biết bao tháng ngày cày cuốc mà nên, là nơi chan chứa bao hồi ức vui buồn. Vậy vì cớ gì mà ông Hai lại lấy làm vui mừng trước sự mất mát của ngôi nhà? Bởi quân Tây đốt nhà ông nghĩa là làng ông không hề theo giặc mà vẫn một lòng yêu nước nồng nàn, ủng hộ kháng chiến, ủng hộ Cụ Hồ. Ông đã có thể thoát khỏi cái danh “người làng Việt gian”, được sống như một người yêu nước,lại có thể tiếp tục sự khoe khoang đáng yêu của mình. Mâu thuẫn mà vẫn hết sức hợp tình hợp lý, đó chính là sự sắc sảo, độc đáo của ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật. Ông Hai còn dự định nuôi lợn ăn mừng, niềm vui sướng tưởng như vỡ òa, như những thanh âm vang vọng cả phần kết truyện. Không khó để nhận ra với những người nông dân thật thà, chất phác, họ thà hi sinh thửa ruộng, mảnh vườn hay gian nhà chứ nhất định không để cho danh dự và tự tôn của mình, của làng và của Tổ quốc bị vấy bẩn.

Với thứ hương thơm tỏa ra từ đoá hoa mang tên “nghệ thuật” của thiên truyện, với ánh chiếu của ngòi bút đa tài, Kim Lân đã khiến người đọc phải nguyện ý thả hồn vào trang viết, phải dùng trái tim để cảm nhận nét đẹp của từng con chữ. Xây dựng tình huống truyện độc đáo là một trong những yếu tố góp phần đem lại sự thành công cho tác phẩm “Làng”, giúp nhà văn khắc họa rõ nét phẩm chất, tính cách, khả năng ứng xử của nhân vật đồng thời bộc lộ sâu sắc khuynh hướng tư tưởng của mình. Bên cạnh đó, việc miêu tả chân thực, cụ thể nét mặt, giọng nói, cử chỉ, hành động cũng góp phần xây dựng thành công chân dung nhân vật ông Hai. Kim Lân đã thật tài tình khi sử dụng hàng loại câu cảm, câu hỏi nối tiếp nhau trong nghệ thuật độc thoại nội tâm như xé đôi lòng người để đặc tả rất cụ thể nỗi ám ảnh nặng nề biến thành sự nơm nớp lo sợ, nỗi đau xót, xấu hổ, nhục nhã. Ngôn ngữ trong truyện mang tính khẩu ngữ, là những lời ăn tiếng nói hằng ngày, giản dị, chân chất của người nông dân Bắc Bộ. Tóm lại, thi pháp truyện ngắn bao gồm các yếu tố như nhân vật, ngôn ngữ, tình huống truyện… Và “Làng” thành công trên mọi phương diện ấy. Kim Lân không nói nhiều, tả nhiều nhưng cũng đủ cho ta thấy những bước ngoặc trong diễn biến tâm lí của ông Hai.

Nhà văn Nguyễn Khải từng khẳng định : “[…]Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thủy chung”. Linh hồn ta phiêu lưu nơi gánh sách của Kim Lân, cõi lòng ta say đắm trong hơi thở bất diệt của thiên truyện “Làng”, nhịp đập của người thưởng văn hòa cùng nhịp đập của lão Hai, từ ấy ta tìm ra “thanh nam châm” của văn chương dưới một danh xưng khác là “Lòng yêu quê hương và tình yêu Tổ quốc”. “Nét thần” của tác phẩm là mạch tình cảm hoà quyện, thống nhất trong trái tim người nông dân, tựa như “toà thành” hiên ngang, sừng sững và bất diệt đến nổi chẳng có súng đạn nào có thể công phá, chẳng có ngọn lửa tàn ác nào có thể thiêu rụi. Tình cảm dành cho quê hương, đất nước đã nghiễm nhiên trở thành nguồn “thần hứng” của biết bao thi phẩm. Ví như “Sao chiến thắng” của Chế Lan Viên:

“Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt,

Như mẹ cha ta, như vợ như chồng

Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết

Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông…”

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tài liệu của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
144 253.865
Bạn có thể tải về tập tin thích hợp cho bạn tại các liên kết dưới đây.
0 Bình luận
Sắp xếp theo