Top 8 bài Phân tích tâm trạng của Mị trong đêm cứu A Phủ

Phân tích tâm trạng của Mị trong đêm cứu A Phủ - So sánh diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân và đêm đông cứu A Phủ, diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm mùa đông, dàn ý diễn biến tâm trạng Mị trong đêm cứu A Phủ giúp các bạn đọc cảm nhận được rõ hơn về giá trị nhân đạo của hành động cứu A Phủ cũng như sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ. Sau đây là nội dung chi tiết bài văn mẫu phân tích tâm trạng của Mị trong đêm cứu A Phủ, mời các bạn cùng tham khảo.

Diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ

“Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm văn xuôi đặc sắc của nhà văn Tô Hoài. Với những giá trị nội dung và tư tưởng sâu sắc, Vợ chồng A Phủ đã để lại trong lòng người đọc những dấu ấn sâu sắc. Đặc biệt là nhân vật Mị. Từ những sức sống tiềm tàng được nhen nhóm trong tâm hồn Mị vào đêm tình mùa xuân cho đến sự trỗi dậy, sự khát khao tự do tìm đến một cuộc sống mới trong đêm đông cứu A Phủ. Nhà văn Tô Hoài đã cho người đọc dự cảm một tương lai tươi sáng và tốt đẹp hơn sẽ đến với những người dân miền núi.

1. Tác giả tác phẩm Vợ chồng A Phủ

1. Tác giả

- Tô Hoài là một nhà văn sớm tham gia cách mạng và hoạt động văn nghệ phục vụ cách mạng.

- Ông là người am hiểu sâu sắc phong tục tập quán của nhiều vùng miền trên đất nước.

- Văn của ông có sức lôi cuốn, lay động lòng người bởi lối trần thuật sinh động của một người từng trải.

2. Tác phẩm

- Tác phẩm chính: “Dế Mèn phiêu lưu kí”, “O chuột”, “Truyện Tây Bắc”, …

- Xuất xứ:“Vợ chồng A Phủ” in trong tập truyện “Truyện Tây Bắc”.

- Hoàn cảnh sáng tác: Tác phẩm là kết quả của chuyến đi cùng bộ đội giải phóng vùng cao Tây Bắc, tác giả đã tận mắt chứng kiến cuộc sống tối tăm, tủi nhục của nhân dân Tây Bắc dưới ách thống trị của thực dân phong kiến. Đồng thời nhà văn cũng cảm nhận được những tình cảm tốt đẹp mà đồng bào nơi đây dành cho cách mạng.

Tóm tắt Vợ chồng A Phủ

Tác phẩm kể về cuộc đời của đôi trai gái người Mèo là Mị và A Phủ. Mị là một cô gái trẻ, đẹp. Cô bị bắt làm vợ A Sử – con trai thống lý Pá Tra để trừ một món nợ truyền kiếp của gia đình. Lúc đầu, suốt mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc, Mị định ăn lá ngón tự tử nhưng vì thương cha nên Mị không thể chết. Mị đành sống tiếp những ngày tủi cực trong nhà thống lí. Mị làm việc quần quật khổ hơn trâu ngựa và lúc nào cũng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Mùa xuân đến, khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha Mị nhớ lại mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi nhưng A Sử bắt gặp và trói đứng Mị trong buồng tối.

A Phủ là một chàng trai nghèo mồ côi, khoẻ mạnh, lao động giỏi. Vì đánh lại A Sử nên bị bắt, bị đánh đập, phạt vạ rồi trở thành đầy tớ không công cho nhà thống lí. Một lần, do để hổ vồ mất một con bò khi đi chăn bò ngoài bìa rừng nên A Phủ đã bị thống lí trói đứng ở góc nhà. Lúc đầu, nhìn cảnh tượng ấy, Mị thản nhiên nhưng rồi lòng thương người cùng sự đồng cảm trỗi dậy, Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ rồi theo A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài…

Chủ đề Vợ chồng A Phủ

Tác phẩm đặt ra vấn đề số phận con người – những con người dưới đáy xã hội – những con người bị tước đoạt hết tài sản, bị bóc lột sức lao động và bị xúc phạm nặng nề về nhân phẩm. Giải quyết vấn đề số phận con người, Tô Hoài đã thức tỉnh họ, đưa họ đến với cách mạng và cho họ một cuộc sống mới.

2. Dàn ý diễn biến tâm trạng Mị trong đêm cứu A Phủ

1. Mở bài

Giới thiệu sơ lược về Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ.

2. Thân bài

Phân tích tâm trạng Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ

– Giới thiệu sơ lược về A Phủ: Một thanh niên có thân phận như Mị, cũng phải ở nhà thống lý Pá Tra để gạt nợ. Do để mất bò mà bị trói đêm này sang đêm khác, ngày này sang ngày kia.

– Tâm trạng của Mị trước đêm cởi trói cho A Phủ:

Cuộc sống đọa đày trong nhà thống lý Pá Tra của Mị vẫn tiếp diễn. Thời gian đọa đày biến cô trở thành người câm lặng trước mọi sự. Những gì diễn ra chung quanh không khiến Mị quan tâm. Những đêm đầu Mị thổi lửa hơ tay. Tâm hồn Mị như tê dại trước mọi chuyện, kể cả lúc ra sưởi lửa, bị A Sử đánh ngã xuống bếp, hôm sau Mị vẫn thản nhiên ra sưởi lửa như đêm trước.
Song, trong lòng, không phải chuyện gì Mị cũng bình thản. Mị rất sợ những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Khi trong nhà đã ngủ yên, Mị tìm đến bếp lửa. Đối với Mị, nếu không có bếp lửa ấy, cô sẽ chết héo.

– Thương người cùng cảnh ngộ:

Chính nhờ ngọn lửa, đêm ấy, Mị trông sang A Phủ và nhìn thấy một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống má đã xám đen lại. Dòng nước mắt ấy khiến Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải đứng trói thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không lau đi được. Rồi Mị phảng phất nghĩ gần nghĩ xa: Cơ chừng này thì chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì còn biết đợi ngày rũ xương ở đây mà thôi… Người kia việc gì phải chết thế?

– Tình thương lớn hơn cái chết:

Mị xót xa cho A Phủ như xót xa cho chính bản thân mình. Mị thương cho A Phủ không đáng phải chết. Cô cũng sợ nếu mình cởi trói cho chàng trai ấy, bố con Pá Tra biết được sẽ tới thay vào đấy và lại phải chết trên cái cọc ấy… Song có lẽ tình thương ở Mị đã lớn hơn cả sự chết. Tình thương ấy khiến cô đi đến hành động cởi trói cho A Phủ.

– Từ cứu người đến cứu mình:

Khi cởi trói cho A Phủ xong, Mị đứng lặng trong bóng tối. Song, chính ngay lúc ấy, trong lòng người đàn bà khốn khổ kia mọi chuyện diễn ra rất nhanh. Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Vì ở đây thì chết mất.

Đây không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu. Mị giải thoát cho A Phủ Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình! Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền.

3. Kết luận:

Qua tâm trạng của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ, chúng ta thấy được cả sức sống tiềm tàng ở một người phụ nữ bị đọa đày vả về thể xác lẫn tinh thần, tưởng chừng như mất đi hết đời sống tâm hồn. Phải yêu thương và có một niềm tin mãnh liệt vào con người nhà văn mới có được cái nhìn nhân đạo như vậy.

Tô Hoài đã miêu tả diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị rất tự nhiên, hợp lý và chân thực. Không thấy diễn biến tâm trạng của nhân vật sẽ không hiểu được hành động của nhân vật đó. Hành động cuối cùng của Mị – cởi trói cho A Phủ – có vẻ bất ngờ nhưng lại hợp với quy luật tâm lý con người, quy luật của cuộc sống. Nhà văn không chỉ đem đến cho bạn đọc những nhân vật biết hành động mà quan trọng hơn là vì sao có hành động ấy. Tô Hoài đã rất thành công khi xây dựng một nhân vật có sức sống bên trong mãnh liệt đằng sau khuôn mặt vô hồn, vô cảm của Mị. Bởi vậy, có người đã xem đây là “một nhân vật thành công bậc nhất trong văn xuôi cách mạng đương đại Việt Nam”

3. Sơ đồ tư duy tâm trạng của Mị trong đêm cứu A Phủ

4. Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân và đêm mùa đông cắt dây trói cứu A Phủ

Hướng dẫn

Bước 1: Khái quát nhân vật:

– Mị là một cô gái trẻ đẹp. đảm đang, duyên dáng, thổi sáo giỏi, được nhiều chàng trai yêu mến ngày đêm thổi sáo đi theo.

-Số phận của Mị tiêu biểu cho số phận người phụ nữ nghèo ở miền núi ngày trước: có những phẩm chất tốt đẹp, đáng được hưởng hạnh phúc nhưng lại bị đày đọa trong cuộc sống nô lệ. Mị trở thành con dâu gạt nợ cho nhà Thống Lí Pá Tra

(Phần này chỉ nêu ngắn gọn, không phân tích)

– Bị vùi dập đến cùng nhưng ở người con gái ấy vẫn tiềm tàng sức sống mãnh liệt.

Sức sống tiềm tàng, sự trỗi dậy mạnh mẽ của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân

Bước 2: Phân tích sức sống tiềm tàng, sự trỗi dậy mạnh mẽ của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân

Yếu tố ngoại cảnh tác động đến tâm trạng và hành động của Mị:

– Mùa xuân năm ấy thật đặc biệt: “Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng vàng ửng…”

Mùa xuân ở Hồng Ngài rộn rã âm thanh và màu sắc. Đó là tiếng cười của trẻ con, màu vàng ửng của cỏ gianh và gió rét dữ dội, là màu đỏ của những chiếc váy hoa phơi trên những mỏm đá xòe ra như những con bướm sặc sỡ và chắc chắn không thể thiếu được “tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ bay ngoài đường”. Chính những hình ảnh và âm thanh ấy như một cơn gió thổi tung đám tàn tro đang vây quanh cuộc đời Mị

-Tiếng sáo làm Mị mạnh mẽ hơn, Mị thoát khỏi cái lớp xác vô hồn ấy bằng một hành động “nổi loạn nhân tính”. Ngày tết Mị cũng uống rượu. Mị ngồi bên bếp lửa “tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng” nhưng “lòng Mị thì đang sống về ngày trước”. Tiếng sáo đánh thức tâm hồn Mị, đánh thức quá khứ, đưa Mị trở về với mùa xuân cũ. Vị ngọt ngào của quá khứ bất giác nhắc nhớ vị cay đắng trong hiện tại. Mị thấm thía đau khổ, lại nghĩ đến cái chết.

– Hiện tại và quá khứ, thân phận và khát vọng giao tranh gay gắt trong Mị. Mị xắn mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng. “Mị muốn đi chơi”. Mị thay váy áo chuẩn bị đi chơi. Hành động của Mị không khác nào một sự nổi loạn.

– Sức sống trào dâng mãnh liệt đến mức ngay cả khi bị A Sử trói đứng vào cột nhà, Mị vẫn không biết mình bị trói, vẫn vùng bước đi theo tiếng sáo gọi bạn yêu như người mộng du. Những vết trói đau thít, tiếng chân ngựa đạp vách, Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.

– Tô Hoài đã khám phá và phát hiện đằng sau một tâm hồn câm lặng vẫn còn một tâm hồn khát khao sống, khát khao yêu, đằng sau một con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa còn có một con người.

Bước 3 :Phân tích sự sức sống tiềm tàng, sự trỗi dậy mạnh mẽ của nhân vật Mị trong Đêm đông cứu A Phủ

– Mấy đêm liền, nhìn thấy A Phủ bị trói, Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Tâm hồn Mị đã trở lại với sự câm lặng, vô cảm từ sau đêm tình mùa xuân ấy.

– Cho đến khi nhìn thây một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ, Mị mới xúc động, nhớ lại những dòng nước mắt và nỗi khổ của mình.

– Thương mình dẫn đến thương người cùng cảnh ngộ, Mị chấp nhận chịu sự trừng phạt của nhà thống lý và quyết định cắt dây trói cứu A Phủ.

– Khi A Phủ chạy đi, Mị đứng lặng trong bóng tối và sau đó vụt chạy theo A Phủ bởi “Ở đây thì chết mất”. Hành động ấy diễn ra một cách tức thời, là hành động bất ngờ nhưng tất yếu. Mị cắt đay trói cứu A Phủ đồng thời cũng tự giải thoát cho chính mình. Hành động ấy hoàn toàn phù hợp với tính cách của Mị – một người con gái giàu sức sống.

Bước 4: chỉ ra điểm giống và khác nhau trong tâm trạng, hành động của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân và đêm mùa đông cắt dây trói cứu A Phủ.

a. Giống nhau:

– Sự trỗi dậy sức sống ở cả hai lần đều có cơ sở là bản tính mạnh mẽ, không dễ chấp nhận số phận của Mị. Cả hai lần đều là khi Mị thoát khỏi trạng thái vô cảm ngày thường.

– Hai tình huống đã khẳng định tài năng phân tích tâm lí nhân vật và chiều sâu nhân đạo trong ngòi bút của Tô Hoài.

b. Khác nhau:

- Lần thứ nhất, Mị nhận được sự tác động theo chiều hướng tích cực từ ngoại cảnh, bản thân Mị chỉ được giải thoát trong chốc lát

- Lần thứ hai không có sự hỗ trợ của ngoại cảnh, sự trỗi dậy ở lần thứ hai mạnh mẽ, quyết liệt hơn. Mị đã giải thoát mình khỏi sự ràng buộc của cả cường quyền lẫn thần quyền. Với hành động này, Mị đã chiến thắng số phận.

c. Lí giải sự khác nhau đó :Đây không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu. Mị giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình! Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền. Trong lòng Mị luôn tiềm ẩn sức sống tiềm tàng, khát khao được hưởng hạnh phúc, càng bị vùi dập thì khát khao trong Mị càng trỗi dậy, Mị cắt dây trói cứu A phủ và cũng cắt sợi dây vô hình ( thần quyền và cường quyền) để tự giải phóng mình.

Kết luận: Đánh giá chung …

5. Phân tích Mị trong đêm đông cứu A Phủ

Mị là một cô gái trẻ tài hoa và xinh đẹp. Tuy nhiên, số phận trớ trêu lại khiến cô trở thành một món đồ để trả nợ cho gia đình. BI kịch cuộc đời của Mị thực sự đã bắt đầu kể từ khi cô về làm dâu nhà thống lí Pá Tra.  Vì chữ hiếu, Mị đã hi sinh tự do, hạnh phúc. Từ đó, Mị rơi vào hoàn cảnh bế tắt, không lối thoát. Nhưng sức sống vẫn tiềm tàng bên trong con người của Mị. Không khí ngày xuân cùng với lẽ sống phóng khoáng , tự do của người Mông trở thành mãnh lực tác động đến tâm hồn Mị, một tâm hồn đang khô héo. Và sức sống ấy đã bùng cháy thành một ngọn lửa mãnh liệt, sự phản kháng trong Mị trỗi dậy đến đỉnh điểm trong đếm đông cứu A Phủ.

- Khát vọng sống trở thành ngọn lửa âm ỉ trong lòng Mị. Khi có cơ hội, ngọn lửa ấy sẽ bùng cháy, trở thành một sự phản kháng mãnh liệt không ai có thể ngờ tới.

- Những đêm mùa đông trên núi cao, Mị thường dậy sớm trong nỗi cô đơn hiu quạnh một mình lặng lẽ. Thấy A Phủ bị trói, lúc đầu Mị thản nhiên “nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”. Nhưng đến lúc bất chợt nhìn thấy dòng nước mắt đau đớn, tuyệt vọng của A Phủ thì tâm hồn Mị hồi sinh một tình người sâu sắc:

+ Mị thấy đồng cảm với A Phủ, “Mị nhớ lại đêm năm trước A Sử cũng trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia”. Mị và A Phủ là những phận người đồng cảnh ngộ, vừa nghèo khổ vừa bị bọn thống trị đày đọa tàn nhẫn.

+ Trong phút chốc Mị nhớ lại những ngày tháng tủi nhục trước đây. Mị sống và làm việc như một con vật, bị bắt trói đứng suốt đêm. Mị nhớ đến người đàn bà bị chồng trói đến chết. Trong Mị bừng lên sự căm phẫn tột cùng “Chúng nó thật độc ác”.

+ Mị lo lắng, cảm thương cho tình cảnh hiểm nghèo của A Phủ “ Chỉ đêm mai là người kia chết chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Một cái chết thê thảm sẽ đến với A Phủ.

+ Mị thấy thật bất công, vô lí nếu A Phủ phải chết “người kia việc gì phải chêt thế”. Mị nhận ra nếu phải chết thì đó là một cái chết đầy oan ức cho A Phủ.

+ Mị nghĩ rằng nếu giải thoát cho A Phủ thì Mị sẽ là người thay thế nhưng “làm sao Mị cũng không thấy sợ”. Sức mạnh của tình người thôi thúc Mị, khiến Mị chiến thắng sự sợ hãi.

+ Mị quyết tâm cởi trói cho A Phủ, Mị đem hết nghị lực để thực hiện hành động táo bạo ấy. Dù trong lòng rất hồi hộp, lo lắng đến “nghẹn lại” nhưng cách Mị cắt, gỡ dây trói thì rất dứt khoát. Sự dũng cảm, lòng thương người đã giúp Mị giải thoát cho A Phủ.

+ Mị đứng lặng trong bóng tối. Đó chính là giây phút Mị suy nghĩ về bản thân và lựa chọn.Mị đang đứng ở ranh giới ở lại thì chết mà chạy đi có thể được sống. Một khoảnh khắc định mệnh và Mị phải sáng suốt quyết định.

+ Mị đã vùng chạy theo A Phủ. Một sự lựa chọn sáng suốt. Chỉ có giải thoát mới mong thay đổi được số phận, mới được sống đúng nghĩa. Hàng loạt động từ: “Vụt chạy, băng đi, đuổi kịp, lăn…” cho thấy Mị đã dồn hết sức mạnh cố thoát khỏi cõi chết để tìm đến sự sống. Mị và A Phủ “đỡ nhau lao chạy” trong niềm thôi thúc mãnh liệt của lòng khao khát được sống tự do.

→ Đây là kết quả tất yếu của một quá trình Mị bị dồn nén, chà đạp. Sức sống tiềm tàng đã thúc đẩy Mị phản kháng và tự giải thoát mình.

=> Mị, tiêu biểu cho người phụ nữ lao động người Mông nghèo khổ, bị vùi dập trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhưng vẫn tỏa sáng một tâm hồn đẹp: Khát khao tự do, hạnh phúc, dũng cảm vùng lên giải thoát số phận nghiệt ngã.

6. Phân tích tâm trạng của Mị trong đêm cứu A Phủ ngắn gọn

Khi đọc tác phẩm Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài, người đọc rất cảm thông với số phận của cô Mị và hoàn toàn có thể hiểu được lý do khiến Mị buông xuôi, cam chịu, chấp nhận số phận bất hạnh của mình. Thế nên việc sức sống vẫn tồn tại và bùng cháy trong Mị đã khiến người đọc không khỏi nể phục và ngưỡng mộ.

Mị là người con gái có khát vọng sống, khát vọng tự do, có lòng tự trọng. Chính vì khát vọng sống tự do và lòng tự trọng đó mà Mị mới có hành động xin cha không gả mình đi rồi hành động hái lá ngón định tự vẫn. Tiếc thay cô Mị tự trọng và cương quyết bao nhiêu thì cũng hiếu thảo và giàu tình yêu thương bấy nhiêu. Vì thương cha nên Mị mới từ bỏ việc chết, vì thương cha nên Mị mới chấp nhận cuộc sống nô lệ nhà Pá Tra. Cũng đã có một lần khát vọng sống bùng cháy mãnh liệt trong Mị, ấy là trong đêm mùa xuân khi Mị lắng nghe tiếng sáo mời gọi bạn đi chơi, khi Mị uống rất nhiều rượu, khi Mị hồi tưởng lại thanh xuân tươi đẹp và tự do của mình. Đó là lần đầu tiên khát vọng sống trỗi dậy mạnh mẽ trong Mị sau chuỗi ngày Mị sống lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Thế nhưng cuối cùng, khát vọng ấy vẫn bị A Sử về và dập tắt, đồng thời, A Sử cũng tra tấn Mị và nếu không có người chị dâu vào cởi dây trói thì có lẽ Mị sẽ cứ thế mà chết.

Khát vọng sống của Mị bị dập tắt, những tưởng Mị sẽ hoàn toàn trở lên câm lặng, sẽ mãi mãi lầm lũi và cứ thế mà chết đi, mà trở thành một con ma trong nhà thống lí. Cho đến những đêm mùa đông rét mướt ấy. Mỗi ngày khi Mị dậy sớm ra ngồi sưởi lửa, Mị đều hé mắt trông sang và thấy A Phủ bị trói đứng ở đó. Tâm của Mị đã chết, đến sinh mạng của mình còn chẳng quan tâm nữa thì sao Mị lại để ý được đến chuyện của người khác chứ. Linh hồn của Mị sớm đã lụi tàn, chết lặng trong gia đình nhà thống lí rồi. Thế nhưng khi nhìn thấy giọt nước mắt lấp lánh trên khóe mắt của A Phủ, Mị lại thầm nghĩ rằng người kia vì sao mà phải chết, rồi Mị nghĩ mình đã là con dâu được người ta cúng trình ma thì mình phải chết ở đây nhưng A Phủ thì vô tội. Mị nhớ lại những lúc chính bản thân mình bị trói đứng đó, nước mắt chảy xuống không biết mà lau đi được. Bản thân họ: Mị cũng như A Phủ đều là những người vô tội, họ không làm gì sai trái, cả thanh xuân của họ đã lao động miệt mài, làm việc cật lực cho nhà thống lí. Vậy nhưng Mị vẫn không được sống là mình, vẫn bị bạo hành cả về thể xác lẫn tâm hồn. Nhưng Mị thấy oan khuất cho A Phủ. Hơn ai hết, Mị là người thấu hiểu hoàn cảnh của A Phủ, hiểu được nỗi oan khiên và khổ đau của anh. Mị thấy mình trong anh, và mong muốn giải thoát anh nảy sinh và trỗi dậy. Với Mị, có lẽ hành động giải cứu này cũng giống như việc Mị gửi gắm cả sự tự do và khát vọng sống của mình vào A Phủ, để con người ấy mang đi cả khát vọng sống, khát vọng tự do của Mị.

Hành động của Mị lúc này là hành động bộc phát nhưng cũng chính là hành động xuất phát từ sâu trong tâm tưởng của Mị, tưởng như Mị đã quyết định nó từ rất lâu. Với Mị, việc cắt dây trói cứu A Phủ của cô được quyết định trong chốc lát nhưng đó cũng chính là hành động cùng suy nghĩ trong sâu thẳm tâm hồn Mị vẫn hướng tới. Mị nhìn thấy số phận của Mị qua A Phủ, Mị giải thoát cho A Phủ cũng là gửi gắm ước mơ và hy vọng của mình trong cuộc chạy trốn của anh. Thế rồi sau khi thấy A Phủ quật cường vùng dậy chạy, Mị lại tiếp tục đuổi theo, lúc này bỗng dưng Mị hiểu ra rằng, nếu ở lại đây thì sẽ chết, nếu chạy mà bị bắt thì cũng chết nhưng ít ra điều đó còn cho Mị một cơ hội để sống, vì vậy Mị chạy theo A Phủ. Câu nói của Mị: “A Phủ, cho tôi đi, ở đây thì chết” đã cho thấy tình yêu với cuộc sống, khao khát sống mãnh liệt của Mị. Suy cho cùng, khát vọng sống và khát vọng tự do trong Mị vẫn cháy mạnh mẽ và đầy nhiệt huyết, điều đó khiến cho Mị không chỉ cứu được một mà còn tới hai sinh mạng con người, cho bản thân cô cùng A Phủ một cơ hội để đến với cuộc sống mới.

Trong lần hành động này, Mị cuối cùng cũng đã thành công. Sự thành công ấy là nhờ trong tâm hồn Mị, sức sống vẫn còn cháy, nó chỉ cần một tác nhân, một chất xúc tác để bùng phát. Mị hành động vừa có lí và có tình, tưởng chừng là bộc phát, nông nổi nhưng lại là những hành động sâu sắc và đầy đúc kết. Cũng nhờ có điều này mà giá trị nhân đạo của tác phẩm càng được đẩy lên một tầm cao mới nhân văn hơn.

7. Phân tích tâm trạng của Mị trong đêm cứu A Phủ hay

Đề tài về cuộc sống của người nông dân nghèo khổ trước cách mạng tháng 8 vẫn luôn là một đề tài được nhiều nhà văn lựa chọn viết. Ví như Nam Cao có Lão Hạc, chị Dậu thì Kim Lân lại nổi tiếng với tác phẩm Làng. Nhưng đến với Tô Hoài, ta lại thấy một góc nhìn mới về số phận của những người dân tộc, đồng bào thiểu số trên vùng cao. Cho dù là người dân ở dưới đồng bằng hay vùng núi thì trong họ vẫn luôn tồn tại những khát vọng sống mãnh liệt, sự tự do và lòng trắn ẩn yêu thương giữa con người với con người. Điều này đã được Tô Hoài khắc họa thành công qua nhân vật Mị.

Mị là một cô gái con nhà nông dân có món nợ truyền kiếp với nhà thống lý Pá Tra từ đời cha mẹ Mị, rồi cuối cùng cô phải chịu làm vợ lẽ cho con trai của nhà đó là A Sử. Mang tiếng làm vợ cho nhà giàu có nhất vùng thế nhưng cuộc đời của cô lại là một chuỗi ngày bi kịch và khổ đau. Mị không có hạnh phúc, Mị phải sống những tháng ngày như địa ngục, Mị muốn ăn lá ngón rồi chết quách đi, thế nhưng Mị lại không thể chết, bởi cô chết rồi món nợ của cha ai sẽ trả. Đến khi cha Mị đã mất thì Mị lại không còn thiết tha đến việc chết nữa bởi “ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Mị sống dưới danh phận con dâu gán nợ nhưng thực tế là làm nô lệ suốt kiếp cho nhà thống lý Pá Tra, phải làm lụng quanh năm suốt tháng quần quật không ngày nghỉ ngơi. Đến độ Mị cảm thấy mình không còn là con người nữa bởi “Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày”, đắng cay đến cùng cực. Cuộc đời của Mị lầm lũi giống như con rùa trong xó cửa, im lặng và tù túng, trơ lì trong lớp mai dày vô tri vô giác, không thiết tha đếm xỉa gì cuộc đời này nữa.

Cứ ngỡ rằng cái tâm hồn vốn chai sạn vì cái khổ ấy đã chết hẳn, thế nhưng cuộc đời của Mị lại lần nữa được sống lại, sống lại những cảm xúc của một người con gái đang độ xuân sắc, xinh đẹp và có tài thổi sáo. Đêm tình mùa xuân ấy, Mị nghe thấy tiếng sáo thổi của ai đang gọi bạn, đã làm sống dậy trong lòng Mị những ký ức xa xăm thuở Mị còn là con gái, với tiếng sáo say lòng người “có biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác”. Tiếng sáo lảnh lót mùi mẫn văng vẳng trong đêm tối, khiến Mị thấy thổn thức, rồi Mị khóc, nước mắt Mị ứa ra từng hàng, chẳng biết đã từ bao lâu rồi Mị không khóc như vậy. Mị xót xa, Mị ấm ức, tức tưởi cho cái cuộc đời đầy rẫy bất hạnh của mình, Mị thấy đắng cay, thấy tức giận, Mị muốn vùng lên phản kháng, Mị không muốn sống cái kiếp người như cỗ máy làm lụng biết nói này thêm ngày nào nữa. Mị muốn được sống như một con người, biết đớn đau, biết mệt mỏi, cũng được yêu thương, được có niềm vui như bao con người ngoài kia. Điều ấy chứng tỏ điều gì? Chứng tỏ rằng tâm hồn tưởng đã chết của Mị đã sống lại, nồng nàn, mãnh liệt bởi tiếng sáo - âm thanh sự sống, đã thức tỉnh tâm hồn và trái tim vốn còn tươi đẹp và khao khát cuộc đời của Mị sau những tháng năm bị chôn vùi, chai sạn bởi cái khổ, cái đắng cay. Mị bắt đầu vùng lên, Mị làm việc mà từ khi về làm dâu Mị không dám làm, không được làm, Mị uống rượu “ừng ực từng bát”, uống như chưa từng được uống bao giờ, uống đến say khướt, rồi lấy lá làm kèn để thổi, để quay về những tháng ngày xa xăm, những ngày tháng hạnh phúc nhất cuộc đời Mị. Thế rồi, vài chum rượu, với tiếng kèn lá làm sao có thể bù đắp được cái thiếu hụt trong lòng Mị bao năm qua, cái nỗi khao khát sự sống mãnh liệt trong lòng của Mị. Mị muốn đi chơi, Mị muốn mặc quần áo đẹp, muốn thổi sáo, nhảy múa, bởi Mị nhận thức được một cách rất rõ ràng rằng “Mị vẫn còn trẻ”, Mị không muốn chôn vùi thanh xuân của Mình trong căn buồng chỉ có một ô cửa sổ bé bằng bàn tay như nhà tù ấy. Mị muốn sống như một con người đàng hoàng, thế nhưng thật xót xa, thật đắng cay tủi nhục, giữa lúc niềm khao khát sống mãnh liệt, lòng yêu cuộc đời của Mị đang phơi phới. Thì A Sử như một kẻ sát nhân, hắn muốn giết chết tâm hồn Mị một lần nữa, nó không muốn Mị được làm người, được vui sống, nó trói Mị vào cột nhà bằng cả rổ dây gai, rồi bỏ đi chơi, để lại Mị với nỗi tủi hờn, đớn đau cùng cực. Rồi Mị nhớ đến việc nhà này đã từng có một người đàn bà bị trói đến chết, Mị bàng hoàng, sợ hãi, chưa lúc nào Mị lại khao khát sự sống như lúc này “Mị sợ quá, Mị cựa quậy. Xem mình còn sống hay chết. Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau đứt từng mảnh thịt”. Cái nỗi sợ, cái đau đớn xác thịt ấy chứng minh rằng Mị vẫn còn sống, cả tâm hồn lẫn thể xác, cái ý chí sống còn trong lòng Mị đã mạnh mẽ trở lại, không còn chai lì, lầm lũi nữa. Nó đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong cuộc đời Mị, từ việc muốn ăn lá ngón để chết quách đi cho đến việc sợ hãi cái chết và khao khát được sống sót một cách mãnh liệt. Là tiền đề để Mị giải cứu A Phủ và chính cuộc đời mình ra khỏi đống bế tắc và áp bức của cường quyền và thần quyền.

Khi đối diện với A Phủ một chàng trai bị đánh, bị trói đứng giữa sân ngay gần đống lửa Mị vẫn thường hay sưởi ấm, nhưng Mị “vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. nếu A Phủ là cái xác chết đứng chết đấy, cũng thế thôi”. Nhưng có lẽ ít ai biết được bên ngoài cái vẻ thờ ơ, mặc kệ sống chết ấy, trong lòng Mị đã có những thay đổi lớn, Mị đã không còn là người đàn bà lầm lũi, trơ lì với cái khổ, cái đớn đau thể xác tinh thần bắt đầu từ đêm tình mùa xuân ấy, từ khi Mị nghe thấy tiếng sáo cất lên, khi Mị thấy đau đớn, thấy sợ cái chết. Mị đồng cảm và xót thương cho số phận của A Phủ như chính cuộc đời mình, những con người không có quyền quyết định số phận cuộc đời, để biết mặc cho người ta chà đạp áp bức, rồi chết đi trong tay của bè lũ thống trị tàn ác. Đặc biệt khi mị trông thấy giọt nước mắt của người đàn ông ấy “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen”, Mị lại nhớ đến cuộc đời đầy vết sẹo của mình, Mị phẫn nộ, Mị căm tức nhà thống lý Pá Tra, những kẻ độc ác, chúng nó bắt “người ta chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Mị thấy xót xa, Mị thấy thương cảm cho A Phủ, bởi Mị đã là dâu con, chết ở đây cũng dành, còn A Phủ có tội gì mà phải chịu cảnh như Mị. Mị càng nghĩ lại càng thấy không cam lòng, thấy đau đớn thay cho một kiếp người. Và có lẽ rằng giọt nước mắt của A Phủ, giọt nước mắt của một con người vô tội, một con người khao khát sự sống, tựa như giọt nước tràn ly đã thôi thúc sự phản kháng, lòng trắc ẩn trong tâm hồn Mị. Mị đâu phải lũ người độc ác kia, Mị không chai lì và tàn nhẫn như thế, Mị phải cứu người đàn ông này, A Phủ xứng đáng được sống một cuộc đời tốt đẹp chứ không phải là chết ở đây vì làm mất một con bò. Lúc này đây Mị không còn sợ nữa, không sợ cường quyền, thần quyền gì nữa, Mị trở nên mạnh mẽ, như một người hùng cắt dây trói cho A Phủ, Mị bất chấp tính mạng mình để anh được sống, bởi Mị nhìn thấy ở chàng trai ấy chính là cuộc đời bất hạnh của Mị. Cứu A Phủ cũng là cứu chính tâm hồn, cứu cuộc đời của Mị. Cảnh cuối có lẽ Mị đã thông suốt, Mị đã thật sự phản kháng, Mị vùng dậy chống lại số phận, Mị muốn làm chủ số phận của mình, Mị quyết định bỏ trốn theo A Phủ, bởi Mị biết rằng ở lại nếu không chết về thể xác, thì cũng là cái chết về tâm hồn, đều đớn đau và tủi nhục vô cùng. Chỉ có cách thoát khỏi nơi quỷ quái ấy thì Mị mới có thể được sống sống thật sự, được làm một con người thật sự. Đây chính là biểu hiện rõ nét nhất về khao khát được sống, niềm ham sống, khao khát tự do mãnh liệt của Mị, một con người vốn tưởng tâm hồn đã trơ lì như gỗ đá. Đồng thời khẳng định sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, dẫu có bị cái khổ, cái tuyệt vọng, sự tàn ác của tầng lớp thống trị chà đạp đến gần như chỉ còn một tàn than đỏ, thì chỉ còn một ngọn gió xuân, một tiếng sáo, một niềm thương cảm cho kiếp người đồng cảnh ngộ nó cũng có thể bùng lên mãnh liệt hơn bao giờ hết.

Vợ chồng A Phủ là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Tô Hoài, cũng như nền văn học Việt Nam khi viết về các đồng bào dân tộc miền núi phía Bắc. Với tấm lòng yêu thương, trân trọng tha thiết, Tô Hoài đã khai thác một cách triệt để cuộc đời, số phận của những con người phải chịu sự thống trị tàn ác của thần quyền và cường quyền dưới chế độ thực dân phong kiến, thông qua biệt tài miêu tả nội tâm nhân vật một cách tỉ mỉ và tinh tế. Đồng thời ông cũng bộc lộ được những vẻ đẹp đáng quý trong tâm hồn của nhân vật ấy là sức sống tiềm tàng mãnh liệt, khao khát tự do cháy bỏng, sức phản kháng, sự vùng dậy mạnh mẽ trong những con người nhỏ bé, tưởng như cam chịu số phận.

8. Phân tích tâm trạng của Mị trong đêm cứu A Phủ - mẫu 1

Để tạo nên một truyện ngắn xuất sắc, mỗi nhà văn lại lựa chọn cho mình những yếu tố then chốt riêng, người chọn tô điểm cho tình huống, người chọn nhấn mạnh cốt truyện và cũng có nhiều người dành tâm sức mình chú trọng xây dựng những nhân vật điển hình, góp phần tạo nên những tác phẩm để đời. Tô Hoài trong “Vợ chồng A Phủ” đã xây dựng thành công hình tượng Mị và A Phủ. Từ việc phân tích diễn biến tâm lý, hành động Mị trong đêm đông cởi trói cho A Phủ, nhà văn đã gửi gắm những cái nhìn nhân đạo mới mẻ của mình tới người đọc.

Ngồi bên bếp lửa, Mị nhớ lại ngày mình cũng bị A Sử trói trước kia, thấy thương thân, thương người rồi thành ra Mị căm giận những con người ấy, cái ác cái khổ đau đọa đầy lên những người lao động bé mọn như Mị.

Khi tưởng tượng ra cảnh mình cởi trói cho A Phủ, A Phủ trốn được rồi mình bị đổ tội cứu nó và phải chết thay, Mị không thấy sợ. Và suy nghĩ đó đã dẫn Mị đến quyết định lấy dao cắt dây cởi trói cho A Phủ. Khi A Phủ chạy đi rồi, Mị ở lại, “đứng lặng trong bóng tối”. Câu văn lúc này ngắn và chậm tạo sự căng thẳng, hồi hộp trước giờ phút quyết định của cuộc đời Mị, một là tiếp tục cam chịu làm tôi đòi nhà thống lí, hai là đến với cuộc sống tự do, hạnh phúc của riêng mình. Ngay sau đó, Mị đã chạy theo A Phủ nói: “A Phủ cho tôi đi. Ở đây thì chết mất”. Hành động đó chứng tỏ Mị đang chạy trốn khỏi cái chết và khát khao chạm tay tới cuộc sống tự do. Mị cởi trói cho A Phủ để A Phủ được tự do, nhưng đó cũng là hành động tự giải phóng cho bản thân mình. Phải chăng, chính khát vọng sống cháy bỏng đã chắp cánh để Mị vượt thoát khỏi cuộc sống nhiều gông sắt trói buộc mình.

Giá trị nhân đạo, giá trị nhân văn và giá trị nhân bản là những nguyên tắc ứng xử tốt đẹp của con người với con người mà hạt nhân là lòng yêu thương con người. Trong đó, tinh thần nhân đạo xuất hiện nhiều hơn cả. Tinh thần nhân đạo trong văn học có thể được ví như “dòng quán thông kim cổ của văn học dân tộc” (Đặng Thai Mai). Nhân đạo, đó là sự cảm thông, sẻ chia với những nỗi khổ đau, là tiếng nói trân trọng, ngợi ca những nét đẹp tâm hồn con người, những khát vọng, niềm tin ấp ủ trong trái tim họ. Nhân đạo là một trong hai tư tưởng chủ đạo, truyền thống của văn học Việt Nam (cùng với tinh thần yêu nước). Và qua đó cũng thể hiện tình yêu của nhà văn đối với con người. “Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm văn học Cách mạng đặc sắc. Vả lại, thời điểm bài thơ ra đời, văn chương được xem là vũ khí, còn nhà văn, nhà thơ là chiến sĩ trên mặt trận văn học. Có lẽ chính vì vậy mà tác phẩm mang những giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ. Trước hết, đó là sự cảm thông, xót thương số phận khổ đau, tủi nhục của người lao động dưới ách thống trị của chúa đất chúa mường. Thêm vào đó, tinh thần nhân đạo trong tác phẩm còn là sự ngợi ca, trân trọng sức sống, khát vọng sống tiềm tàng, mãnh liệt của con người. Và cuối cùng là sự tin tưởng của nhà văn vào khả năng và cơ hội người lao động như Mị, như A Phủ tự vượt lên giải phóng chính mình để đến với tự do, làm chủ cuộc đời. Để có thể gửi gắm những giá trị nhân đạo mới mẻ đó, chính nhãn quan thời đại cách mạng đã cho nhà văn chiến sĩ cái nhìn tích cực về quần chúng nhân dân.

Qua diễn biến tâm lý, hành động nhân vật Mị trong đêm đông cởi trói cho A Phủ, nhà văn Tô Hoài đã gửi gắm những nội dung giá trị nhân đạo mới mẻ tới người đọc. Qua đó thể hiện niềm tin của nhà văn và gieo niềm tin nơi người đọc vào quần chúng nhân dân – những nạn nhân đau khổ của thời cuộc nhưng mang trong mình khả năng, cơ hội trở thành chủ nhân của cuộc đời, đi từ bóng tối đến ánh sáng, từ nô lệ đến tự do, hạnh phúc.

9. Phân tích tâm trạng của Mị trong đêm cứu A Phủ - mẫu 2

“Đất nước và con người miền Tây Bắc để thương để nhớ cho tôi nhiều quá” (Tô Hoài). Là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Tô Hoài thu hoạch được sau chuyến đi bộ đội vào giải phóng Tây Bắc dài tám tháng, tập truyện “truyện Tây Bắc” là nỗi nhớ niềm thương bồi hồi xúc động, là lời tri ân sâu sắc mà nhà văn dành tặng cho mảnh đất con người Tây Bắc đau thương mà anh dũng, đẫm nước mắt tủi hờn mà vời vợi chất thơ. Là truyện ngắn đặc sắc hơn cả của tập truyện, “Vợ chồng A Phủ” là bức tranh chân thực, cảm động về cuộc sống tối tăm, tủi nhục và sức mạnh vùng lên vươn tới chân trời tự do hạnh phúc của đồng bào các dân tộc vùng cao Tây Bắc. Giá trị của tác phẩm được kết tinh ở hình tượng nhân vật Mị.

Nếu những nhà văn hiện thực phê phán chỉ thấy con người là nạn hân bất lực của hoàn cảnh thì các nhà văn cách mạng bao giờ cũng phát thiện hiện ra sức manh phúc sinh trong tâm hồn của những con người cùng khổ. Là cây bút xuất sắc trong dòng văn học cách mạng Việt Nam, chẳng những rất thành công khi diễn tả cái chết dần chết mòn của Mị – một cô gái tràn đầy sức sống mà còn rất tinh tế khi khám phá quá trình hối din của Mị. Nếu như có một hoàn cảnh làm tê liệt bóp chết sức sống của Mị thì tất cũng có một hoàn cảnh giúp Mị hối sinh. Và hoàn cảnh đó chính là đêm đông Mị vắt dây trói cứu A Phủ đầy éo le, kịch tính.

A Phủ là chàng trai nghèo khổ cả cha lẫn mẹ, vì đánh A Sử, A Phủ bị bắt phạt vạ trở thành đứa ở trừ nột của nhà thống lí Pá trá, cùng chung thân phận nô lệ trâu ngựa với Mị. Một lần sơ ý để hổ vồ mất bò, A Phủ bị thống lí Pá Tra bắt trói bỏ mấy ngày liền giữa mùa đông giá rét.

Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, đêm nào Mị cũng dậy thổi lửa hơ tay. Dã mấy lần rồi, mỗi khi dậy thổi lửa hơ tay, Mị lại thấy cảnh A Phủ bị trói nhưng Mị vẫn thản nhiên dửng dưng thờ ơ. "Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy thì cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa". Quá quen với cái tạm bộ của cha con thống lí Pá Tra, tâm hồn Mị tê dại đến vô cảm. Và tâm hồn Mị có lẽ sẽ mãi mãi hóa đá nếu như Mị không bắt gặp giọt nước mắt của A Phủ. Như mọi đêm, Mị dậy thổi lửa hơ tay, ngọn lửa bập bùng sáng lên, lé mắt trông sang, Mị bỗng bắt gặp dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má tuyệt vọng của A Phủ – một chàng trai vốn can trường dũng cảm. Nước mắt gọi nước mắt: Mị nhớ lại đêm tình mùa xuân bị A Sử trói, nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng cổ mà không sao lau đi được. Niềm đồng cảm trỗi dậy, thương thân bao nhiêu, Mị thương A Phủ bấy nhiêu. Thương mình, thương A Phủ, lòng Mị sục sôi niềm căm hờn phẫn uất với cha con thống lí Pá Tra: "Trời ơi, nó bắt trói người ta đến chết, nói bắt mình đến chết, nó bắt trói đến chết người đàn bà trước cũng ở cái nhà này cũng thôi. Chúng nó thật độc ác", lần đầu tiên, sau bao năm tháng câm lặng, Mị dõng dạc cất lên lời kết án đanh thép cha con thống lí. Mị như lột xác, trở lại làm cô gái dũng cảm, khát khao tự do, sục sôi tinh thần phản kháng. Rồi Mị nghĩ đến tình cản nguy khốn đang ập đến với A Phủ: "cơ chừng này, chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết… Người kia thì việc gì mà phải chết thế? A Phủ sẽ phải chết, chết oan uổng, vô lí. Nghĩ đến điều ấy, trái tim Mị như thắt lại, cõi lòng nhói đau. "A Phủ" tiếng gọi buông ra hay tiếng nấc nghẹn ngào xót xa. Rồi Mị miên man nhớ lại đời minh, Mị lại tưởng tưởng có thể một lúc nào đó, biết đâu A Phủ chẳng đã chốn được, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo Mị cởi trói cho A phủ, Mị liền phải trói thay, phải chết trên cái cọc này. Nghĩ thế, trong tình cảnh nào, làm sao Mị cũng không thấy sợ. Tình thương người ngày càng mạnh, nó lớn hơn niềm thương thân và giúp Mị chiến thắng mọi nỗi sợ hãi, nó thôi thúc Mị hành động một cách táo bạo: cắt dây trói cứu A Phủ.

Cắt dây trói cho A Phủ xong, Mị bỗng hốt hoảng. Mị chỉ thì thào được một tiếng "Đi ngay! » rồi nghẹn lại. đứng lặng trong bóng tối, rồi Mị chạy vụt theo, băng đi đuổi kịp A Phủ. Nỗi sợ hãi và hành động chạy theo A Phủ vô vùng đột ngột những ngẫm ra lại hết sức hợp lí, dương nhu không thể khác được. Là người, ai cũng sợ chết, nhất là khi cái chết cận kề. Là một cô gái, Mị lại rất yêu đời và ham sống, mị không thể chấp nhận cúi đầu chờ chết ở cái nơi địa ngục trần gian này. Cuối cùng, phải kể đến chất xúc tác làm cho cuộc nổi loạn nhân tính hoàn tất. Dó là hành động quật sức vùng lên chạy của A Phủ. Hành động ấy như tia lửa bắt cháy nguồn sống mãnh liệt trong Mị, thôi thúc Mị hành động táo bạo: cùng A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài. Vậy là, sau bao năm tháng bị vùi dập, sức sống tiềm tàng trong tâm hồn Mị đã bùng cháy mãnh liệt trong đêm đông « định mệnh ». sức sống ấy như nguồn sức mạnh vô song giúp Mị chiến thắng tất cả mọi thế lực bạo tàn cường quyền và thần quyền. Chính sức mạnh ấy đã giải cứu cho A Phủ và Mị khỏi thế giới địa ngục để đến với chân trời tự do, hạnh phúc

Đọc Vợ chồng A Phủ, ta chẳng thể nào không xót xa một cô Mị bị chà đạp, vùi dập, tàn nhẫn, dã man, bị dìm xuống kiếp ngựa trâu, một cô Mị cứ chết dần chết mòn, như con rùa lùi lũi trong xó tối, như cái xác không hồn. Nhưng cái để Mị chạm vào trái tim người đọc sâu đậm nhất vẫn là một cô Mị tiềm tàng sức sống mãnh liệt, âm thầm, khát vọng lớn lao. Mị của Tô Hoài đã dũng cảm vươn lên từ nhọc nhằn, khổ đau để đi về phía có ánh sáng của tự do. Cái đẹp nhất, nhân văn nhất của tác phẩm chính là ở đó.

10. Phân tích tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ chi tiết

Mị là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” mà nhà văn Tô Hoài đã giành nhiều tài năng và tâm huyết để xây dựng. Truyện được trích từ tập “truyện Tây Bắc” (1953) của Tô Hoài. Trong chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc (1952), Tô Hoài đã có dịp sống, cùng ăn, cùng ở với đồng bào các dân tộc miền núi, chính điều đó đã giúp Tô Hoài tìm được cảm hứng để viết truyện này. Tô Hoài thành công trong “Vợ chồng A Phủ” không chỉ do vốn sống, tình cảm sống của mình mà còn là do tài năng nghệ thuật của một cây bút tài hoa. Trong “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật, trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý và hành động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ thuật ấy thật sự phát sáng và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lý và hành động của nhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.

Trong tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng nhất đó chính là hình ảnh của cô gái “dù làm bất cứ việc gì, cô ta cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Đó là nét tâm lý của một con người cam chịu, buông xuôi trước số phận, hoàn cảnh sống đen tối đầy bi kịch. Sở dĩ Mị có nét tính cách ấy là do cuộc sống hôn nhân cưỡng bức giữa Mị và A Sử. Mị không được lấy người mình yêu mà phải ăn đời ở kiếp với một người mà mình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân nữa chính là do uy quyền, thần quyền, đồng tiền của nhà thống lý Pá Tra đã biến Mị thành một đứa con dâu gạt nợ. Mang tiếng là con dâu của một người giàu có nhất vùng, nhưng thật sự Mị chỉ là một kẻ nô lệ không hơn không kém. Điều đó làm Mị đau khổ, Mị khóc ròng rã mấy tháng trời và từng có ý định ăn nắm lá ngón kết thúc cuộc đời mình. Thế nhưng “sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Chính vì thế Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của mình, trái tim của Mị dần chai sạn và mất đi nhịp đập tự nhiên của nó.

Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng của một người yêu đời, yêu cuộc sống, mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong đêm mùa xuân.

Trong đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triển theo những cung bậc tình cảm khác nhau, cung bậc sau cao hơn cung bậc trước. Ban đầu, Mị nghe tiếng sáo Mèo quen thuộc, Mị nhẩm thầm bài hát người đang thổi rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỷ niệm đẹp thời xa xưa… Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi chơi. Nhưng sợi dây thô bạo của A Sử đã trói đứng Mị vào cột. Thế nhưng sợi dây ấy chỉ có thể “trói” được thân xác Mị chứ không thể “trói” được tâm hồn của một cô gái đang hòa nhập với mùa xuân, với cuộc đời. Đêm ấy thật là một đêm có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sau hàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêm cô vượt lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim mình.

Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn đề này, Tô Hoài khẳng định: cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình. Giá trị nhân đạo của tác phẩm ngời lên ở chỗ đó.

Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng Tây Bắc đang về. Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt, vì thế đêm nào Mị cũng ra bên ngoài bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó Mị gặp A Phủ đang bị trói đứng chờ chết giữa trời giá rét. Thế nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay “dù A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi”. Tại sao Mị lại lãnh cảm, thờ ơ trước sự việc ấy? Phải chăng việc trói người đến chết là một việc làm bình thường ở nhà thống lý Pá Tra và ai cũng quen với điều đó nên chẳng ai quan tâm đến. Hay bởi Mị “sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi” nên Mị lãnh đạm, thờ ơ trước nỗi đau khổ của người khác. Một đêm nữa lại đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên cả rồi, Mị lại thức dậy đến bếp đốt lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng, “Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất gần. Chính “dòng nước mắt lấp lánh ấy” đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị.

Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người, trùng cảnh ngộ. Đêm mùa xuân trước Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp lúc trước kia, “chúng nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cái nhà này”. Lí trí giúp Mị nhận ra “Chúng nó thật độc ác”. Việc trói người đến chết còn các hơn cả thú dữ trong rừng. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà một người thanh niên khỏe mạnh, siêng năng, say sưa với cuộc đời đã phải lấy mạng mình thay cho nó. Bọn thống trị coi sinh mạng của A Phủ không bằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A Phủ cũng bị xử phạt như thế mà thôi.

Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ “có chừng này chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”. Thật sự, chẳng có lí do gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải chết vì cái tội để mất một con bò!

Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ trốn và chính Mị sẽ là người chết thay cho A Phủ trên cái cột tưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn không thấy sợ, sự suy tưởng của Mị là có cơ sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con người yêu đời, yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha thiết với tình yêu thành một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng nghĩa, chúng đã tàn ác khi trói một người đàn bà ngày trước đến chết thì chẳng lẽ chúng lại không đối xử với Mị như thế ư?

Như vậy, chứng kiến “dòng nước mắt lấp lánh” của A Phủ, tâm trạng của Mị diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với người cùng cảnh ngộ, Mị nhớ đến chuyện người đàn bà ngày trước, lí trí giúp Mị nhận ra bọn lãnh chúa phong kiến thật độc ác, Mị xót xa trước số phận của mình rồi Mị lại nghĩ đến A Phủ; sau đó Mị lại tưởng tượng đến cái cảnh mình bị trói đứng…

Một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy Mị đến với hành động: dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho A Phủ. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này. Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết?. Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Bước chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị đuổi kịp A Phủ và nói lời đầu tiên. Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là lời nói khao khát sống và khát khao tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa đựng biết bao tình cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính là nguyên nhân – hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng buộc cuộc đời của mình. Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã rời bỏ Hồng Ngài – một nơi mà những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít, còn nỗi buồn đau, tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến…

Rõ ràng, trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nữ Việt Nam nói chung. Tô Hoài đã rất cảm thông và xót thương cho số phận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Quả thật qua đó tác phẩm này giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc sống.

Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập “Truyện Tây Bắc” nói chung, ta hiểu vì sao Tô Hoài lại thành công trong thể loại truyện ngắn đến như vậy. Nét phong cách nghệ thuật: màu sắc dân tộc đậm đà chất thơ chất trữ tình thấm đượm, ngôn ngữ lời văn giàu tính tạo hình đã hội tụ và phát sáng trong truyện ngắn này. Tác phẩm “Truyện Tây Bắc” xứng đáng với giải nhất truyện ngắn – giải thưởng do Hội nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 – 1955. Và “Vợ chồng A Phủ” thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá trị nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nó. Truyện ngắn này quả là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Tô Hoài.

Truyện “Vợ chồng A Phủ” giúp độc giả cảm thông sâu sắc trước nỗi khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến miền núi, từ đó giúp chúng ta ngày càng trân trọng khát vọng của họ hơn. Đây quả là một tác phẩm văn chương đích thực bởi nó đã góp phần nhân đạo hóa tâm hồn bạn đọc như Nam Cao đã quan niệm trong truyện ngắn “Đời thừa”.

11. Phân tích và so sánh nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân và đêm đông cởi trói cho A Phủ

Nhà thơ Trần Đăng Khoa từng chia sẻ: “Tô Hoài như một từ điển sống, một pho sách sống. Ông như cuốn Bách khoa toàn thư mà không viện sĩ nào, không học giả nào có thể sánh được”. Vốn hiểu biết phong phú và cách nhìn, cách thể hiện tinh tế, tài hoa đã giúp Tô Hoài tạo nên những tác phẩm nghệ thuật xuất sắc, trong đó có truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. Hình ảnh nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân và đêm đông cởi trói cho A Phủ được nhiều người đặc biệt quan tâm và dành thời gian để cảm, để hiểu và khám phá ra những nét chung, điểm khác ở nhân vật.

Nhà văn Tô Hoài tên khai sinh là Nguyễn Sen, sinh năm 1920, mất năm 2014, sinh ra và lớn lên tại quê ngoại là làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, Hoài Đức, Hà Nội. Ông được coi là cây bút văn xuôi nổi tiếng với sức sáng tạo bền bỉ và phong phú với vốn tài sản văn học đồ sộ. Người ta biết đến và yêu mến ông với một loạt các tác phẩm như: “Dế Mèn phiêu lưu ký”, “Truyện Tây Bắc”, “Mười năm”, “Vỡ tỉnh”, “Tào lường”…Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm xuất sắc của nhà văn, rút từ tập “Truyện Tây Bắc” viết năm 1953. Tác phẩm được nhà văn chắp bút viết sau chuyến đi thực tế cùng bộ đội lên giải phóng Tây Bắc trong tám tháng. Đó là khoảng thời gian quý báu nhà văn có cơ hội được tiếp xúc, chia sẻ và hiểu hơn kiếp sống tủi nhục cũng như những nét phẩm chất đáng trân quý của người lao động miền đèo cao thác ghềnh này. Truyện kể về cuộc đời của nhân vật Mị và A Phủ để qua đó phản ánh kiếp sống tủi hờn của người lao động dưới ách áp bức của chúa đất chúa mường, đồng thời ngợi ca nét đẹp tâm hồn họ và gửi gắm niềm tin vào khả năng tự giải phóng để đến với tự do, hạnh phúc. Đọc truyện, hình ảnh nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân và đêm đông cởi trói cho A Phủ được nhà văn thể hiện rất sắc nét và ẩn chứa nhiều ý nghĩa.

Trước hết, hình ảnh nhân vật Mị được nhà văn khắc họa chân thực, sinh động trong đêm tình mùa xuân. Mùa xuân, đó là mùa của những cảnh sắc mộng mơ, tràn đầy sức sống trong thơ Đoàn Văn Cừ:

“Chiều mạ vàng dãy núi dưới chân mây
Trăng sao bạc thêu màn trời gấm đỏ”

Mùa xuân, đó là mùa gắn với tình yêu non tơ vụng dại và khao khát đầy thơ ngây trong “Mùa xuân xanh” của Nguyễn Bính:

“Cỏ nằm trên mộ đợi thanh minh
Tôi đợi người yêu đến tự tình
Khỏi lũy tre làng tôi nhận thấy
Bắt đầu là cái thắt lưng xanh”

Mùa xuân, trong cuộc đời mà trong thơ ca cũng vậy, luôn là mùa của chồi non lộc biếc, của thanh xuân tuổi trẻ, của những lễ hội vui tươi. Tô Hoài đã mượn thời khắc thanh xuân tươi đẹp của đất trời để khơi dậy nên thanh xuân của lòng người, sự háo hức mê say trong lòng Mị. Nhà thơ tiếp tục phác họa ra một khung cảnh thiên nhiên đậm sắc màu tươi sáng, ấm áp cùng đa dạng âm thanh. Đó là tiếng chó sủa quen thuộc của bản làng. Đó là tiếng cười trong trẻo, thơ ngây của lũ trẻ đang vui đùa. Đó còn là tiếng sáo văng vẳng nơi xa, lửng lơ bay trong không gian núi rừng thơ mộng. Cái thời gian, cái không gian ấy, tất cả vun tạo nên một bầu không khí yên bình, vui tươi và ấm áp đến lạ và đó cũng là cái nền sinh động để chân dung tâm hồn của nhân vật Mị được phác họa một cách chân thực và sống động nhất.

Sức sống tràn đầy của thiên nhiên đã làm phục sinh mọi giác quan trong Mị. Nếu như trước đây đôi mắt Mị chỉ thấy mông lung những thứ mờ mờ, trăng trắng thì giờ đôi mắt ấy đã đón nhìn những sắc màu tươi thắm, ấm áp của cuộc đời. Giờ Mị chẳng còn nghe thấy tiếng chân ngựa đạp vách mỏi mòn trong những đêm không ngủ được khi nghĩ đến thân phận tủi nhục của mình mà bắt đầu mở lòng lắng nghe những âm thanh gọi mời của cuộc sống bên ngoài. Trong tiềm thức, Mị đang nhẩm thầm những điệu hát của một thời con gái đắm say mà bấy lâu bị cái khổ, cái cùng cực chôn chặt. Và Mị uống rượu, uống “ực” một cái. Một chữ “ực” nhà văn sử dụng vừa lạ vừa thể hiện cái khéo, cái tinh tế của tác giả. Mị uống “ực” bát rượu như đang cố nuốt cho sâu, vùi cho chặt những đắng cay tủi nhục thân mình phải gánh chịu bây giờ. Mị say, lòng Mị như sống về ngày trước, sống trọn vẹn với quá khứ mà không mảy may nghĩ gì đến thực tại.

Tâm hồn Mị phơi phới trở lại và ngập tràn niềm vui sướng. Mị nhận thức về tuổi trẻ, về khát vọng và quyền sống tự do. Sửa soạn đi chơi như là cái cách tìm đến ánh sáng ở Mị. Một loạt những câu văn ngắn khiến nhịp bỗng nhanh và dồn dập kết hợp với các động từ thể hiện hành động dứt khoát và quyết liệt của Mị - một con chim đang cố tháo cũi sổ lồng để đến với bầu trời cao xanh tự do của nó. Khi bị A Sử bắt trói lại, Mị vùng bước đi nhưng không được, rồi Mị nhớ lại người đàn bà đồng phận đã chết. Mị sợ hãi cựa mình xem mình còn sống hay đã chết. Hình ảnh đó đã khép lại cảnh đêm tình mùa xuân, để lại trong lòng người đọc những dư âm xúc cảm mãnh liệt về một người phụ nữ khi bị dồn đến đường cùng đang khát khao vượt thoát.

Trong đêm đông cởi trói cho A Phủ, mới đầu Mị còn thản nhiên khi nhìn thấy A Phủ bị trói. Nhưng rồi, nhớ lại cảnh từng bị đọa đày năm trước, Mị thấy thương thân, thương người và căm giận kẻ áp bức mình. Mị cởi trói cho A Phủ và “đứng lặng trong bóng tối”. Nhịp văn bỗng chậm lại làm người đọc căng thẳng khi nghĩ về phút giây quyết định cuộc đời Mị. Sau đó, Mị chạy nói với theo A Phủ: “A Phủ cho tôi đi! Ở đây thì chết mất!”. Chạy theo A Phủ nhưng thực chất Mị đang cố chạy trốn khỏi cái chết, cởi trói cho A Phủ nhưng thực chất Mị đang cố cởi trói cho chính mình, đang tự giải thoát cho mình bằng niềm khát khao tự do, bằng khát vọng sống mãnh liệt.

Đêm tình mùa xuân và đêm đông cởi trói cho A Phủ, cả hai đoạn truyện đều thể hiện Mị là một người con gái mạnh mẽ, bản lĩnh và có khát vọng sống mãnh liệt. Tuy nhiên, trong hai đoạn văn, nhà văn cũng xây dựng một vài nét khác. Trong đêm tình mùa xuân, khát vọng tự do ở Mị do ngoại cảnh tác động trong khi ở đêm đông cởi trói cho A Phủ, khát vọng đó xuất phát từ tự thân. Sự giải thoát ở nhân vật trong hai đoạn cũng có điểm khác nhau, đó là sự giải thoát chốc lát trong đêm tình mùa xuân và sự giải thoát cả cuộc đời trong đêm đông cởi trói cho A Phủ. Để xây dựng thành công hình ảnh nhân vật Mị trong hai thời điểm đó, nhà văn đã sử dụng khéo léo nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật cùng ngôn ngữ đậm đà màu sắc dân tộc. Rõ ràng, đọc hai đoạn văn, ta có thể thấy rõ sự chuyển biến ở nhân vật Mị. Sự chuyển biến trong tâm hồn và hành động ấy không phải mang tính bản năng mà là kết quả của sức sống tiềm tàng và khát vọng sống mãnh liệt.

Hình ảnh nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân và đêm đông cởi trói cho A Phủ đã góp phần tô đậm số phận cũng như phẩm chất nhân vật Mị. Qua những hình ảnh đó, nhà văn Tô Hoài cũng gửi gắm niềm tin vào khả năng tự giải phóng để đến với tự do của người lao động vùng cao, một lí do để ta thêm yêu mến hơn cây bút văn xuôi tinh tế này và trân trọng hơn một tác phẩm văn xuôi đặc sắc.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tài liệu của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
99 324.871
Bạn có thể tải về tập tin thích hợp cho bạn tại các liên kết dưới đây.
0 Bình luận
Sắp xếp theo