(5 mẫu) Phân tích bài Thơ tình người lính biển

Thơ tình người lính biển là một bản tình ca đậm chất biển đảo của nhà thơ Trần Đăng Khoa sáng tác khi ông còn là lính hải quân. Bài thơ là tiếng lòng của những người lính đảo xa đất liền nhưng không bao giờ cảm thấy cô độc bởi: Biển một bên và em một bên! Dưới đây là tổng hợp các bài văn mẫu phân tích bài thơ Thơ tình người lính biển hay và ý nghĩa, mời các bạn cùng tham khảo.

Phân tích và đánh giá nội dung nghệ thuật bài Thơ tình của người lính biển

Thơ tình của người lính biển là một trong những tác phẩm hay của nhà thơ Trần Đăng Khoa. Bài thơ được viết theo thể thơ tự do về tình yêu của người lính biển. Chủ đề bài thơ là lời khẳng định trong tâm hồn người lính biển, tình yêu lứa đôi luôn hòa quyện với tình yêu biển trời tổ quốc. Bài thơ có cấu tứ: được xây dựng bởi sự hoà quyện, song hành của 3 hình tượng Biển – Anh – Em, từ đó làm nổi bật tư tưởng chủ đạo: Người lính vượt lên mọi khó khăn, gian khổ, hi sinh, cầm chắc tay súng nơi đảo xa để bảo vệ tổ quốc. Sau đây là một số bài văn mẫu phân tích bài Thơ tình của người lính biển hay và sâu sắc, mời các bạn cùng tham khảo.

1. Viết một bài văn nghị luận về nét đặc sắc trong cấu tứ và hình ảnh bài Thơ tình của người lính biển

* Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm

* Cấu tứ của bài thơ

- Bài thơ có cấu tứ: được xây dựng bởi sự hoà quyện, song hành của 3 hình tượng Biển – Anh – Em, từ đó làm nổi bật tư tưởng chủ đạo: Người lính vượt lên mọi khó khăn, gian khổ, hi sinh, cầm chắc tay súng nơi đảo xa để bảo vệ tổ quốc.

- Nhận xét về sự độc đáo trong cách xây dựng cấu tứ của bài thơ: từ một cuộc chia tay trên bãi biển của đôi lứa mở ra một không gian rộng lớn của biển trời Tổ quốc; từ tình cảm riêng tư mở ra tình yêu với đất nước; nhà thơ cho thấy điểm tựa tinh thần của người lính chính là tình yêu dành cho biển đảo quê hương và tình cảm tha thiết hướng về người mà mình yêu thương.

* Phân tích và đánh giá từng phần của bài thơ

· Khổ 1: Hình ảnh người lính khi ra khơi, khung cảnh chia tay với người yêu thương thật xúc động.

- Khung cảnh chia tay với người yêu thương: những con buồm trắng, mây treo ngang trời gợi đến khung cảnh thật đẹp, gây xúc động, lưu luyến, bịn rịn của người lính.

- Hình ảnh người lính: Phút chia tay, anh dạo bước trên bến cảng, một tư thế thật đẹp, tuy lòng nhớ thương người yêu da diết nhưng vẫn sẵn sàng tư thế chiến đấu phương xa.

· Khổ 2: Dáng vẻ em tuyệt đẹp với phẩm chất dịu dàng, hiền hòa.

- Trong mắt của người lính dáng hình của em tuyệt đẹp với phẩm chất dịu êm, hiền hòa. Phút chia tay em chỉ nói vài câu rồi mỉm cười lặng lẽ để trấn an người đi xa.

- Hình ảnh đối lập “biển ồn ào và em dịu êm” mà thống nhất trong trái tim người lính “biển một bên và em một bên”

→Tình yêu Tổ quốc hòa quyện trong tình yêu đôi lứa.

· Khổ 3: Tư thế tuyệt đẹp của người lính trên hải đảo xa xôi.

- Ngày mai – nơi anh đến thật xa xôi dưới “chùm sao xa lắc”, chỉ có “thăm thẳm nước trời”.

- “Anh” khẳng định mình không cô độc bởi vì có em, có quê hương Tổ quốc ở bên “biển một bên và em một bên”

· Khổ 4: Những hình ảnh hiện thực đầy táo bạo của đất nước sau trong những ngày sau chiến tranh.

- Khơi gợi những năm tháng khó khăn của đất nước “Đất nước gian lao chưa bao giờ bình yên”.

- Đó là những khó khăn do chiến tranh, do thiên tai,... Có những mất mát đau thương “Bão thổi chưa ngừng trong những vành tang trắng”.

- Câu thơ: Anh đứng gác. Trời khuya. Đảo vắng

+ Các ý thơ được tách riêng thành từng câu, với các dấu chấm ở giữa dòng gợi tư thế và hoàn cảnh làm việc đầy khó khăn, thiếu thốn của người lính.

+ Anh đứng gác một mình giữa đêm khuya và đảo vắng, khó khăn đủ bề, thiếu thốn nhiều thứ. Hoàn cảnh làm việc là vô cùng vất vả nhưng với bản lĩnh của người lính trẻ anh vẫn sẵn sàng với tư thế chủ động để quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ phó thác của quê hương.

→ Người lính với tư thế hiên ngang, hào hùng vượt lên khó khăn gian lao, vất vả để canh giữ biển trời quê hương. Trong trái tim người lính: tình yêu lứa đôi hòa quyện trong tình yêu đất nước.

· Khổ 5. Người lính hải quân sẵn sàng hi sinh “chỉ mình anh với cỏ” và khẳng định tình yêu Tổ quốc và tình yêu đôi lứa chính là tình yêu vĩnh cửu, thường trực trong tâm hồn, trái tim của người lính.

- Sự trở đi trở lại hình ảnh biển một bên và em một bên… với dấu chấm lửng đằng sau tạo cho người đọc sự đồng cảm và sẻ chia của sự xa cách trong tình yêu đôi lứa, những tâm sự thiết tha vẫn chưa nói hết của người lính trẻ.

- Câu thơ kết ở mỗi khổ thơ ngân nga như giai điệu ngọt ngào thể hiện nỗi nhớ thương da diết của người lính gửi về phương xa.

- Trong khoảnh khắc này biển và em đã hòa làm một. Biển chính là em, là động lực để người lính vững chắc tay súng nơi phương xa, bảo vệ bình yên cho dân tộc, tổ quốc.

* Hình ảnh, chi tiết

- Các hình ảnh so sánh, tương phản, vừa thể hiện vẻ đẹp lãng mạn của người lính, vừa truyền tải thông điệp ý nghĩa sâu sắc. Đó là khúc ca đầy tự hào về những người lính đã hy sinh tình cảm riêng vì nhiệm vụ chung của quê hương, dân tộc.

- Hình ảnh “Anh đứng gác.”đã hóa thân thành cột mốc kiên định chủ quyền lãnh hải, là biểu tượng của lòng yêu nước và sự kiêu hãnh của dân tộc Việt Nam.

- Và biển là hình ảnh ẩn dụ cho tình yêu quê hương đất nước (đại diện cho cái rộng lớn) còn em là hình ảnh ẩn dụ cho tình yêu đôi lứa (đại diện cho cái nhỏ bé), từ đó cho thấy cái chung và cái riêng cùng vun đắp cho khát vọng niềm tin của người lính.

- Sự lặp lại của hình ảnh “biển một bên và em một bên” mang đến sự lan tỏa sâu rộng về tình yêu tổ quốc. Tình yêu đôi lứa tuy là tình cảm riêng nhưng rộng hơn cũng là tình yêu tổ quốc của người lính trẻ.

- Trong bài có nhiều giả định, các câu thơ giả định này tạo ra từ những cơn sóng vỗ bờ tha thiết, day dứt không yên. Giả định để khẳng định khi “không em”, “không biển”, “chỉ còn anh với cỏ” thì anh vẫn sẽ luôn trung thành với tình yêu đất nước và thủy chung với tình yêu lứa đôi dẫu bao bất trắc có thể xảy ra. Đó là tình yêu vĩnh hằng thiêng liêng của người lính biển.

* Đánh giá chung về đặc sắc của bài thơ

- Vẻ đẹp người lính biển:

+ Vượt lên gian lao vất vả sẵn sàng hi sinh canh giữ biển trời quê hương.

+ Tình yêu lứa đôi hòa quyện trong tình yêu Tổ quốc

- Nghệ thuật:

+ Thể thơ tự do

+ Ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu mà thấm thía

+ Hình ảnh ấn tượng, giàu sức gợi

+ Sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ: ẩn dụ, so sánh, phép điệp,…

+ Giọng điệu ngân nga tha thiết, vừa mãnh liệt, vừa sâu lắng, âm điệu khi trầm, khi bổng, khi nhanh, khi chậm dạt dào cảm xúc.
* Đánh giá khái quát

- Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ

- Khái quát đặc sắc nghệ thuật của bài thơ

- Rút ra ý nghĩa, thông điệp của bài thơ đối với bản thân, thế hệ

2. Phân tích và đánh giá nội dung nghệ thuật bài Thơ tình của người lính biển

Đề tài chiến tranh luôn là đề tài được nhiều tác giả khai thác. Mỗi tác phẩm đều đem đến những nét đẹp, những hình ảnh đặc biệt và riêng. Trong đó tác phẩm " Bài thơ tình người lính biển" của Trần Đăng Khoa là một bài thơ hay nói về hình ảnh người lính biển.

"Bài thơ chuyện tình người lính biển" được sáng tác năm 1981 và in trong tập thơ " Bên cửa sổ máy bay" năm 1985 của tác giả Trần Đăng Khoa sau đó được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhác thành bài hát " Chút thơ tình người lính biển."

Những người lính lên đường bảo vệ Tổ Quốc luôn luôn sẵn sàng, không bao giờ quản nhọc nhằn. Nhưng trong họ lúc nào cũng luôn mang trong mình một tình yêu, tình cảm của tuổi trẻ. Tác giả Trần Đăng Khoa đã khéo léo đưa những hình ảnh thiên nhiên, con thuyền vào thơ của mình. Hình ảnh anh lính biển ra khơi với cánh buồm trắng no gió. Hay hình ảnh bọt sóng tung trắng xóa. "Tàu anh buông neo dưới chùm sao xa lắc/ Thăm thẳm nước trời, nhưng anh không cô độc". Những hình ảnh đẹp để lại cho chúng ta bao nhiêu cảm xúc.

Cũng từ những hình ảnh đó, con thuyền ra khơi, buông neo cũng là lúc nào nhân vật " em" lúc xuất hiện. "Phút chia tay, anh dạo trên bến cảng" là lúc anh lính bắt đầu ra khơi. Anh lính luôn luôn nhớ đến nụ cười dịu êm, hiền lành của em đối lập với tiếng sóng vỗ ồn ào của biển cả. Dù có nặng lòng như nào thì trong lòng người lính vẫn luôn nhớ rằng đất nước chưa một phút nào yên. Trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ Tổ Quốc phải được đặt lên hàng đầu.

Tác giả sử dụng nhiều biện pháp tu từ như so sánh và đặc biệt là điệp từ, điệp ngữ. Mỗi khổ thơ đều kết thúc bằng câu " Biển một bên và em một bên" để thấy được rằng tình yêu của người lính. Biển cũng chính là Tổ Quốc, đất nước được đặt ở một bên trong trái tim, bên còn lại là dành cho em.

Nhà thơ không chỉ nói hộ tâm cảm họ mà còn thu nhỏ cả biển trời bao la quanh họ đặt vào cái nơi ấm áp nhất của trái tim, bên cạnh hình ảnh dấu yêu của người yêu dấu để đi đâu, về đâu, bất cứ lúc nào những chàng trai trẻ xa nhà, xa quê ấy cũng không cảm thấy cô độc, bởi vì đã có niềm tin rằng: Biển một bên và em một bên Bài thơ thể hiển sự da diết tình yêu của người lính biển.

3. Phân tích bài Thơ tình người lính biển của tác giả Trần Đăng khoa

Thơ viết về đề tài chiến tranh, có những bài thật xúc động neo giữ bền chặt trong lòng bao thế hệ. Đó là những cuộc chia tay của người đi bảo vệ Tổ quốc và người yêu ở lại. Tiêu biểu như “Chia tay trong đêm Hà Nội” của Nguyễn ĐìnhThi, “Cuộc chia ly màu đỏ” của Nguyễn Mỹ, “Hương thầm” của Phan Thị Thanh Nhàn…Theo dòng cảm xúc đó, Trần Đăng Khoa có bài “Thơ tình người lính biển”.

Đây cũng là cuộc chia tay đầy lưu luyến, đầy lãng mạng và cũng rất đỗi tự hào của người lính hải quân đi làm nhiệm vụ giữ biên hải thiêng liêng của Tổ quốc. Tình cảm này đại diện cho tình yêu của hậu phương tạo thêm sức mạnh cho người lính biển ra khơi đến với biển đảo xa xôi để bảo vệ lãnh hải của Tổ quốc.“Thơ tình của người lính biển” ra đời đã được nhiều thế hệ đón nhận. Và khi nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc đã nhanh chóng đi vào lòng người và trở thành bài ca đi cùng năm tháng.Bài thơ thật bình dị, thật gần gũi. Cái bình dị, gần gũi được gói gọn trong tình yêu Tổ quốc thiêng liêng và tình yêu lứa đôi thủy chung của người lính biển. Câu thơ: “Biển một bên và em một bên…” được lặp lại như một điệp khúc trong năm khổ thơ của bài thơ. Nhịp điệu bài thơ khoan thai, dìu dặt tựa như những con sóng vỗ chao mạng thuyền. Nhưng được người lính lắng lại. Rồi tĩnh tâm để cân bằng hai đối trọng. Ta cùng thả hồn cùng tác giả, thì giai điệu câu thơ lại nghiêng về “Biển”. Thật vậy, nhạc sĩ Hoàng Hiệp đã nhận ra điều này.

Ông đã đưa giai điệu “Biển một bên” tha thiết vút cao và “Em một bên” dịu xuống rồi ngân dài. Nhưng giai điệu câu thơ không vì thế mà mất cân bằng. Luôn tạo ra đối trọng tương hỗ nhau để con thuyền băng băng ra biển lớn. Phải chăng, giai điệu ấy đã thôi thúc người lính biển bao giờ cũng đặt tình yêu Tổ quốc trên hết. Câu thơ thật lãng mạng cũng thật trí tuệ. Biển, đấy là Tổ quốc. Em, đấy là tình yêu lứa đôi. Đại diện cho cái rộng lớn và cái nhỏ bé. Cái chung và cái riêng cùng vun đắp cho khát vọng niềm tin của người lính biển. Nhà thơ Tế Hanh trong bài tứ tuyệt “Sóng” cũng viết: “Biển một bên, em một bên”. Theo tôi, Tế Hanh chỉ dừng lại ở một vế nói lên tình yêu lứa đôi mặc dù vẫn có hình ảnh em và biển. Còn Trần Đăng Khoa thay dấu phẩy bằng liên từ “và” vừa tách bạch vừa liên thông giữa hai nhân vật biển và em đại diện cho hai tình yêu Tổ quốc và riêng tư luôn tương quan chia sẻ tạo ra sức mạnh và niềm tin của người lính trẻ. Tình cảm đó đã tạo thành câu thơ điệp lại năm lần trong năm khổ thơ dệt nên điểm nhấn cho bài thơ thật hay.Bài thơ được khởi nguyên bằng ba từ thật đơn giản: “Anh ra khơi”.
Đằng sau ba từ ấy lại đong đầy tâm trạng của người lính biển. Mà mở đầu là hình ảnh cặp uyên ương chia tay nhau trên bến cảng. Một hình ảnh rất thực, khi đọc lên ai cũng hình dung ra được. Người lính biển rảo bước cùng người yêu của mình và ở đó anh nhận ra những vầng mây treo ngang trời như những cánh buồm trắng. Đấy là những hình ảnh thân quen của người lính biển. Thật lạc quan khi người lính nhìn mây treo ngang trời như cánh buồm phiêu du, như thôi thúc anh tạm xa người yêu về cùng với biển đảo thân yêu. Giờ, trong khoảnh khắc, cái hạnh phúc thật dung dị, thật hiếm hoi, biển và em lại ngân lên. Đấy là Tổ quốc thiêng liêng, là tình em chung thủy đan cài…Dấu chấm lửng đặt sau câu thơ: “Biển một bên và em một bên…” tạo cho người đọc sự đồng cảm, sẻ chia của sự cách xa trong tình yêu đôi lứa và những tâm sự thiết tha chưa kịp nói hết. Tất cả vì nghĩa lớn, vì Tổ quốc thân yêu.Trong khoảnh khắc hạnh phúc lứa đôi, họ sánh bước bên nhau bên chân sóng, nơi bến cảng xôn xao, nhà thơ đã khắc họa tính cách của biển và em: “Biển ồn ào, em lại dịu êm”. Hai hình ảnh ngỡ như tương phản nhau. Không, trong cảnh huống này đấy là sự tương thuộc. Bởi cả hai đã lắng sâu trong trái tim người lính biển.Bên chân sóng rì rào, người con gái buông câu nói diết da tình ái, rồi nén nỗi chia xa đầy luyến lưu của người ở lại.

Rồi lặng lẽ mỉm cười, như lời động viên tha thiết của mình khi ngoài kia biển đang thôi thúc tinh thần và trách nhiệm làm trai. Để rồi người lính đi giữa cái chung và riêng trước phút chia tay mà hóa thân thành con tàu lắng sóng từ hai phía. Và trái tim lại ngân lên: “ Biển một bên và em một bên…”Trong khoảnh khắc ấy, người lính biển chợt nhận ra: “Ngày mai, ngày mai khi thành phố lên đèn/ Tàu anh buông neo dưới chùm sao xa lắc/Thăm thẳm nước trời nhưng anh không cô độc/Biển một bên và em một bên…” Hai từ “ngày mai” được viết liền nhau hai lần như sự khẳng định chắc chắn nơi anh sẽ đến để thực hiện nghĩa vụ cao quý của mình bằng tâm thế thật lạc quan. Và người đọc có thể hình dung, có thể định lượng được bằng cảm quan rằng, nơi anh đóng quân thật xa xôi, thật cách trở. Và không gian ấy được trải dài vô tận với thăm thẳm nước trời, với chùm sao xa lắc. Ở đó có thể là đảo chìm, đảo nổi, có thể anh đang cùng đồng đội trên tàu tuần tra…Trước biển trời bao la, con người được xem như nhỏ bé, đơn độc là điều dễ hiểu. Nhưng “anh không cô độc” bởi trong anh có tình yêu Tổ quốc, có đồng đội, có hậu phương, có hình bóng em nơi quê nhà…Xưa nay khi nói về biển, người ta thường nghĩ tới những hiểm họa. Nào kẻ thù đang rình rập xâm lấn, nào thiên tai, nhân tai, nào những bất trắc khôn lường… Vì lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc, đã có không ít chàng trai Việt ra đi không trở về, thi thể họ vùi chôn nơi đáy biển nghìn thu. Và biết bao ngôi mộ gió khắc khoải ru hồn: “ Đất nước gian nan chưa bao giờ bình yên/Bão táp chưa ngưng trong những vành tang trắng”.
Nhưng không vì thế làm cho người thanh niên Việt Nam chùn bước. Theo tiếng gọi thiêng liêng của đất nước, họ sẵn sàng đi đến nơi đầu sóng ngọn gió để hoàn thành nghĩa vụ của mình một cách hiên ngang: “Anh đứng gác. Trời khuya. Đảo vắng”. Tác giả thật tài hoa khi dùng dấu chấm để ngắt nhịp câu thơ, tạo thành ba cụm câu, đã đem lại hiệu quả biểu cảm thật cao, tạo cho người đọc sự liên tưởng đến những vất vả, gian lao của người lính biển, nhưng cũng thật tự hào.

Hình ảnh “Anh đứng gác.”đã hóa thân thành cột mốc kiên định chủ quyền lãnh hải, là biểu tượng của lòng yêu nước và sự kiêu hãnh của dân tộc Việt Nam.Từ thuở cha ông bằng thuyền nan dong buồm đi cắm mốc chủ quyền quốc gia trên biển. Các thế hệ của dân tộc ta luôn nối tiếp nhau vượt qua bao gian nan thử thách để giữ vững chủ quyền của dân tộc. Các anh luôn trung thành, luôn thủy chung với tình yêu đất nước, với tình yêu lứa đôi dẫu bao giả định, bao bất trắc có thể xảy ra. Đó là tình yêu vĩnh hằng thiêng liêng của người lính biển: “Vòm trời kia có thể sẽ không em/Không biển nữa. Chỉ mình anh với cỏ/Cho dù thế thì anh vẫn nhớ/Biển một bên và em một bên…”

“Thơ tình người lính biển” là bài thơ với những hình ảnh ấn tượng. Vừa sâu lắng, vừa mãnh liệt cùng với âm điệu lúc trầm lúc bổng, lúc nhanh lúc chậm. Tất cả cùng hòa điệu trong âm hưởng “Biển một bên và em một bên…” tạo ra sự lan tỏa sâu rộng về tình yêu Tổ quốc quyện hòa cùng tình yêu lứa đôi lay thức trách nhiệm công dân trong lòng bao thế hệ.

4. Phân tích bài Thơ tình người lính biển

Có một mảng thơ rất hay viết về đề tài chiến tranh, đó là cuộc chia tay của người lính ra trận. Nguyễn Đình Thi có "Chia tay trong đêm Hà Nội", Nguyễn Mỹ có "Cuộc chia ly màu đỏ" và Trần Đăng Khoa với "Thơ tình người lính biển". Tác phẩm được sáng tác năm 1981 khi ông chính thức thuộc biên chế của Bộ Tư lệnh Hải quân và có dịp đi nhiều vùng biển, đến các đơn vị hải quân (từ những hạm đội, hải đoàn đến tận quần đảo Trường Sa), vì vậy ông có nhiều điều kiện để trực tiếp sống cùng và thấu hiểu cuộc sống người lính đảo. Nó diễn tả đúng trình tự thời gian từ lúc nhân vật "anh" chia tay với nhân vật "em" ở bến cảng tới lúc "anh" làm nhiệm vụ ở đảo xa, đan xen suy tư vừa cá nhân vừa mang tính thời đại và nó đã thể hiện thành công vẻ đẹp tâm hồn người lính biển.

Ngay từ những vần thơ đầu tiên, hiện thực đã được tái hiện một cách đầy lãng mạn:

"Anh ra khơi

Mây treo ngang trời những cánh buồm trắng

Phút chia tay, anh dạo trên bến cảng

Biển một bên và em một bên.."

Thi sĩ mở đầu văn bản bằng ba từ thật đơn giản: "Anh ra khơi" và đằng sau ba từ đấy lại đong đầy tâm trạng của chiến sĩ hải quân. Người lính chia tay bạn gái để lên tàu làm nghĩa vụ bảo vệ biển trời thân yêu của Tổ quốc. Một mối tình thật đẹp và lưu luyến nhưng cũng rất hiểu, thông cảm cho nhau về nhiệm vụ người bạn trai phải gánh vác. Thế nên, trong thời khắc chia xa, cả hai rảo bước đi dạo trên bến cảng như không biết xung quanh có gì và đây có lẽ là cái hạnh phúc dung dị hiếm hoi mà họ được bên nhau vì anh có thể một đi không trở lại. Ở đó, những cánh buồm trắng được treo ngang trên bầu trời xanh thẳm, cao vời vợi bởi những áng mây bồng bềnh (biện pháp nhân hóa "treo ngang trời") giống như đang báo hiệu đoàn thuyền đưa anh đến biển đảo xa xôi chuẩn bị cập bến và họ sắp phải xa nhau. Dấu chấm lửng đặt sau câu thơ "Biển một bên và em một bên" là một dụng ý nghệ thuật của tác giả, tạo cho người đọc sự sẻ chia, đồng cảm với sự xa cách trong tình yêu tuổi trẻ và tâm sự thiết tha chưa kịp nói hết, chưa kịp dãi bày. Tiếp theo, nhà thơ đã khắc họa tính cách của biển và em:

"Biển ồn ào, em lại dịu êm

Em vừa nói câu chi rồi mỉm cười lặng lẽ

Anh như con tàu lắng sóng từ hai phía

Biển một bên và em một bên.."

Chỉ một lần dạo trên bến cảng mà sự cồn cào của biển, sự dịu êm của em đã lan tỏa cả lòng anh. Ông dùng biện pháp đối lập "ồn ào" – "dịu êm", nhân hóa "biển ồn ào" để cho thấy biển cả mênh mông với những con sóng cuồn cuộn như thôi thúc tinh thần, như vẫy gọi anh hãy mau lên đường đi chiến đấu và sự dịu hiền, kín đáo ở em. Hai hình ảnh trên ngỡ như tương phản nhau, nhưng trong hoàn cảnh này, đây lại chính là sự tương thuộc bởi cả hai đã in đậm khắc sâu trong trái tim của anh rồi. Từng tiếng nói êm ái, từng tiếng cười dịu dàng của em đều rất tinh tế khi em chỉ buông câu nói da diết ái tình và nén nỗi đau chia xa đầy bịn rịn của người ở lại vào đáy lòng, rồi lặng lẽ mỉm cười như động viên, khích lệ. Nụ cười ấy chính là sợi dây vô hình níu giữ anh, khiến tâm hồn anh xao xuyến, bâng khuâng, khiến anh so sánh, ví von bản thân "như con tàu lắng sóng từ hai phía" : Biển và em. Được gần em hay gần biển đều là niềm khát khao cháy bỏng của người lính đảo. Thực ra, khi yêu, các anh cũng như bao người bình thường khác, đều muốn bên cạnh người mình yêu. Nhưng khi đất nước chưa yên bình, họ phải kìm nén ước muốn đó lại. Về điều này, thi sĩ Phùng Quán trong bài thơ "Hôn" đã nói hộ các anh:

"Khi người ta yêu nhau

Hôn nhau trong say đắm

Còn anh, anh yêu em

Anh phải đi ra trận"

Ở khoảnh khắc đó, người lính chợt nhận ra:

"Ngày mai, ngày mai khi thành phố lên đèn

Tàu anh buông neo dưới chùm sao xa lắc

Thăm thẳm nước trôi nhưng anh không cô độc

Biển một bên và em một bên.."

Điệp ngữ "ngày mai" khẳng định nơi anh đến thật xa xôi và có thời không cách trở, trải dài vô tận với chùm sao xa lắc, với thăm thẳm nước trôi (đảo ngữ "thăm thẳm"), tuy vậy, anh vẫn thực hiện nghĩa vụ bằng tâm thế lạc quan yêu đời. Trước biển trời bao la, con người thật nhỏ bé và tác giả khẳng định dù một mình nhưng "anh không cô độc" bởi trong trái tim, anh luôn có tình yêu Tổ quốc, tình yêu biển cả, có gia đình, đồng đội và bóng dáng của em. Tiếp đến khổ bốn, thi nhân đã khơi gợi lại năm tháng khó khăn của dân tộc:

"Đất nước gian lao chưa bao giờ bình yên

Bão táp chưa ngưng trong những vành tang trắng

Anh đứng gác. Trời khuya. Đảo vắng

Biển một bên và em một bên.."

Ông nhân hóa "đất nước gian lao" để thể hiện nước ta trong giai đoạn ấy là một mảnh đất nhỏ bé đầy sự cực nhọc vì gánh nặng của chiến tranh, của những kẻ thù không ngừng gây chiến, muốn biến Việt Nam thành thuộc địa và còn cả của khí hậu, thời tiết đầy khắc nghiệt nữa, từ đó làm ta nhớ tới hai câu thơ trong "Mùa xuân nho nhỏ" : "Đất nước bốn ngàn năm/ Vất vả và gian lao". Hình ảnh ẩn dụ "những vành tang trắng" gợi vành khăn tang hay chính là nỗi đau của những nhân dân có người thân chết vì thiên tai, bão tố khắc nghiệt và gợi nỗi đau của đất nước đã phải đối mặt, trải qua không chỉ là mất mát của thiên tai mà còn là mất mát của chiến tranh. Chính vì thế, anh đã nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc và sẵn sàng đến nơi đầu sóng ngọn gió để hoàn thành nhiệm vụ: "Anh đứng gác. Trời khuya. Đảo vắng". Câu thơ ngắt nhịp như dồn nén, làm hình tượng chiến sĩ hải quân hiện lên nhỏ bé giữa thiên nhiên rộng lớn, vắng vẻ nhưng vẫn rất hiên ngang, hào hùng, kiên cường dũng cảm với tư thế cầm chắc tay súng để giữ gìn nền độc lập của nước nhà và qua đó gợi liên tưởng đến bốn câu thơ đầu trong bài "Người lính đảo" của tác giả Nguyễn Lan Hương:

"Nơi anh đứng trời xanh và gió lộng

Giữa mênh mông sóng nước đại dương

Lắm gian nguy mà dạ vẫn kiên cường

Chắc tay súng mà bền gan vững trí"

Khép lại bài thơ, thi sĩ nhấn mạnh tình cảm, lẽ sống của anh đã và sẽ mãi mãi dành cho "biển" và "em" :

"Vòm trời kia có thể sẽ không em

Không biển nữa. Chỉ còn anh với cỏ

Cho dù thế thì anh vẫn nhớ

Biển một bên và em một bên.."

"Vòm trời" ở đây chính là vòm nhà của anh và đồng đội, anh ngước lên nhìn trời để tìm ra niềm hi vọng và sự thư thái bình yên trong tâm hồn. Trong bài có nhiều giả định, các câu thơ giả định này tạo ra từ những cơn sóng vỗ bờ tha thiết, day dứt không yên. Giả định để khẳng định khi "không em", "không biển", "chỉ còn anh với cỏ" thì anh vẫn sẽ luôn trung thành với tình yêu đất nước và thủy chung với tình yêu lứa đôi dẫu bao bất trắc có thể xảy ra. Đó là tình yêu vĩnh hằng thiêng liêng của người lính biển. Và biển là hình ảnh ẩn dụ cho tình yêu quê hương đất nước (đại diện cho cái rộng lớn) còn em là hình ảnh ẩn dụ cho tình yêu đôi lứa (đại diện cho cái nhỏ bé), từ đó cho thấy cái chung và cái riêng cùng vun đắp cho khát vọng niềm tin của người lính. Hơn nữa, câu "Biển một bên và em một bên" được điệp lại năm lần cuối mỗi khổ đã khẳng định trong tâm hồn anh, tình em luôn hòa quyện một cách hài hòa vs tình biển trời Tổ quốc.

Tóm lại, bằng việc sử dụng giọng điệu sâu lắng, âm hưởng trầm bổng, dạt dào thương nhớ, câu từ giản dị nhưng giàu sức gợi hình gợi cảm, kết hợp nhiều biện pháp nghệ thuật: So sánh, nhân hóa, ẩn dụ, điệp ngữ, đối lập tương phản, Trần Đăng Khoa đã khắc họa một cách sâu sắc mối tình sâu đậm đầy cảm động giữa anh, em và biển, qua đó thể hiện anh là người sống có lí tưởng với những ý nghĩ lớn lao và cho thấy anh rời xa em, ra đi đấu tranh không có nghĩa anh không yêu em, mà là anh rất yêu em, anh làm vậy là để em được sống trong hòa bình. "Biển ồn ào, em lại dịu êm" trở đi trở lại như một điệp khúc, như những đợt sóng da diết, cồn cào mà hào hùng, kiêu hãnh của tuổi trẻ và đó là ngọn sóng của thi ca bất diệt sống mãi với thời gian.

5. Phân tích bài Thơ tình người lính biển học sinh giỏi

Ngay từ những ngày còn là một cậu bé, Trần Đăng Khoa đã dành nhiều tình yêu thương và sự cảm phục cho anh bộ đội. Chính vì vậy, khi trở thành một người lính, anh đã mang hết niềm tin, hoài bão để sống sao cho xứng đáng là anh bộ đội Cụ Hồ. "Thơ tình người lính biển" là một thông điệp về lẽ sống của người lính biển mà Trần Đăng Khoa muốn gửi tặng cho tất cả đồng đội của mình, những người đang ngày đêm canh giữ bầu trời và vùng hải đảo của Tổ quốc.

Nhắc tới Trần Đăng Khoa, bạn đọc lại nhớ về một cậu bé - một nhà thơ “thần đồng” đã có rất nhiều bài thơ viết về các chú bộ đội. Lúc còn nhỏ, Trần Đăng Khoa đã rất yêu quý, ngưỡng mộ các chú bộ đội. Khoa đã từng reo lên khi phát hiện các chú bộ đội là những con người phi thường trong chiến đấu nhưng lại rất đỗi thân thương, bình dị trong cuộc sống hàng ngày. Trong bài thơ “Gửi theo các chú bộ đội”, Khoa đã viết:

“Cháu nghe chú đánh những đâu
Những tàu chiến cháy, những tàu bay rơi
Đến đây chỉ thấy chú cười
Chú đi gánh nước, chú ngồi đánh bi.”

Chính từ lòng cảm phục đó, Trần Đăng Khoa đã nguyện đi theo con đường mà các chú bộ đội đã chọn. Và anh đã trở thành một người lính trên đảo Trường Sa. Khi đã trở thành một người lính, Trần Đăng Khoa lại say sưa viết về người lính, nhưng bây giờ là cái say sưa của người trong cuộc. Trần Đăng Khoa hiểu được cả những điều sâu kín, hiểu cả những phút xao lòng, bịn rịn, lưu luyến của người lính trước giờ phút chia tay:

“Anh ra khơi
Mây treo ngang trời những cánh buồm trắng
Phút chia tay, anh dạo trên bến cảng
Biển một bên và em một bên.
* *
*
Biển ồn ào, em lại dịu êm
Em vừa nói câu chi rồi mỉm cười lặng lẽ
Anh như con tàu, lắng sóng từ hai phía
Biển một bên và em một bên.”

Biển ồn ào như vẫy gọi, còn em chỉ mỉm cười lặng lẽ. Nhưng chính nụ “cười lặng lẽ” của em lại là một sợi dây vô hình níu giữ anh, làm lòng anh xao xuyến, băn khoăn, lắng lòng mình về hai phía: “Biển” và “Em”. Em hay biển đều là những hình ảnh thân thương, diệu kì ngự trị trong trái tim anh. Được gần em hay gần biển đều là niềm khát khao cháy bỏng của người lính đảo. Thực ra, khi yêu, người lính cũng như bao nhiêu người bình thường khác, ai chẳng muốn được gần người mình yêu. Chỉ có điều, khi đất nước chưa được bình yên, người lính đã biết nén niềm khao khát đó lại. Về điều này, nhà thơ Phùng Quán đã nói hộ cho các anh:

Khi người ta yêu nhau
Hôn nhau trong say đắm
Còn anh, anh yêu em
Anh phải đi ra trận

Yêu nhau ai không muốn
Gần nhau và hôn nhau
Nhưng anh, anh không muốn
Hôn em trong tủi sầu.
(Hôn)

Chính vì rất yêu, rất tôn trọng người mình yêu, người lính muốn mình là hình ảnh đẹp, là người sống có lí tưởng trong mắt người yêu. Người lính biển ở đây cũng thế:

“ Ngày mai, ngày mai khi thành phố lên đèn
Tàu anh buông neo dưới chùm sao xa lắc
Thăm thẳm nước trôi nhưng anh không cô độc
Biển một bên và em một bên.”

Điệp từ "ngày mai" vừa thể hiện sự quyết tâm đến với hải đảo, lại vừa để lộ sự bịn rịn, lưu luyến của người lính khi phải chia tay với người mình yêu.Tạm biệt người yêu, anh đến với vùng hải đảo xa xôi của Tổ quốc. Nơi chỉ có nắng, gió, cát dài và mênh mông là biển cả, là “thăm thẳm nước trôi”. Tiếng vẫy gọi của biển cả đã mang bước chân anh đến với hải đảo xa xôi, và hành trang anh mang theo là hình bóng em được cất giữ trong tim. Để bên anh luôn có biển và em. Trước không gian bao la của biển cả, hình ảnh người yêu lại hiện hữu rõ hơn, sưởi ấm tâm hồn anh và xoá tan nỗi cô đơn mà khoảng cách không gian đã tạo ra. Được gần nhau để yêu nhau, nghĩ về nhau, say đắm trong nhau để rồi khó quên nhau là điều dễ hiểu. Song, trong xa cách mà luôn nghĩ về nhau, giữ trọn hình ảnh trong nhau, đó mới thực sự là cung bậc say đắm của tình yêu.

Cái hay, cái chân thực của bài thơ là ở chỗ, tác giả không hề đặt ra cái ranh giới và sự lựa chọn giữa tình yêu biển cả, tình yêu Tổ quốc với tình yêu đôi lứa. Mà ở đây, cả hai thứ tình cảm cao đẹp này hoà quyện vào nhau, tiếp hợp cho nhau tạo nên một bản tình ca đẹp. Tình yêu đôi lứa chính là ngọn lửa ấm áp xua tan nỗi cô đơn, trống trải trong người lính, giúp anh có thêm sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn thử thách, vững chắc tay súng bảo vệ miền biên cương của tổ quốc. Và chính tình yêu Tổ quốc, tình yêu biển cả là thước đo cho sự cao đẹp của tình yêu đôi lứa, làm cho tình yêu đôi lứa có ý nghĩa hơn, giàu giá trị nhân văn hơn.

Trong cái say đắm riêng tư, con người ta còn biết lo nghĩ cho sự bình yên của Tổ quốc, đó mới là điều đáng trọng:

“ Đất nước gian lao chưa bao giờ bình yên.
Bão thổi chưa ngừng trong những vành tang trắng
Anh đứng gác. Trời khuya. Đảo vắng
Biển một bên và em một bên.”

Bằng cách sử dụng các hình ảnh hết sức quen thuộc, có tính biểu trưng cao, Trần Đăng Khoa đã để hình ảnh “Biển” và “Em” luôn xuất hiện bên nhau, đi liền nhau trong suốt bài thơ; cùng với lối kết cấu đặc biệt, bài thơ gồm năm khổ, thì cả năm khổ thơ đều được kết thúc bằng hình ảnh “Biển một bên và em một bên”. Điều đó đã giúp cho bạn đọc luôn cảm nhận được rằng trong mọi nơi, mọi lúc, mọi khoảnh khắc thì “biển” và “em” đều ngự trị trong trái tim và tâm hồn người lính biển, đem lại niềm tự hào, niềm hạnh phúc cho anh.

Khổ thơ cuối một lần nữa khẳng định tình cảm, lẽ sống của người lính biển đã và sẽ mãi mãi dành cho “Biển” và “Em”:

“Vòm trời kia có thể sẽ không em
Không biển nữa. Chỉ còn anh với cỏ.
Cho dù thế thì anh vẫn nhớ
Biển một bên và em một bên.”

Bài thơ là một bản tình ca đẹp về người lính biển. Người lính biển trong bài thơ không chỉ biết sống cho lí tưởng, cho tình yêu hải đảo, tình yêu Tổ quốc, mà còn rất nồng nàn, say đắm trong tình yêu đôi lứa.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trong nhóm Lớp 10 thuộc chuyên mục Học tập của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
27 53.963
0 Bình luận
Sắp xếp theo