Cảm nhận của em về hình ảnh người lính trong bài thơ Đồng chí

Cảm nhận của em về hình ảnh người lính trong bài thơ Đồng chí -  Qua ngòi bút của Chính Hữu, hình ảnh người lính trong bài thơ Đồng chí đã được hiện một cách rất bình dị với vẻ đẹp về tình cảm và tâm hồn. Có thể nói vẻ đẹp của người lính trong bài thơ Đồng chí chính là hiện thân cho hình ảnh đẹp về người lính bộ đội cụ Hồ trong kháng chiến chống Pháp. Trong bài viết này Hoatieu xin chia sẻ một số bài văn cảm nhận hình ảnh người lính trong bài Đồng chí hay và chi tiết giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo và ôn tập cho tốt.

1. Dàn ý cảm nhận vẻ đẹp của người lính trong bài thơ Đồng chí

I. Mở bài:

Cảm nhận chung về hình tượng người lính trong bài thơ Đồng chí

– Đồng chí là sáng tác của nhà thơ Chính Hữu viết vào năm 1948, thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

* Hình tượng người lính thể hiện ở 2 nội dung:

– Nội dung hình tượng: (Hình ảnh người lính hiện lên một cách chân thực, cảm động):

+ Họ là người nông dân áo vải, từ những vùng quê nghèo khó “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”… vào cuộc chiến đấu gian khổ.

+ Chấp nhận cuộc sống quân ngũ đầy thiếu thốn: “áo rách vai”, “quần có vài mảnh vá”, “chân không giày”; gian khổ: “cười buốt giá” “sốt run người”…

– Nội dung tình cảm: (Hình ảnh người lính với vẻ đẹp tình cảm, tâm hồn):

+ Lí tưởng chung đã khiến họ từ mọi phương trời xa lạ tập hợp lại trong hàng ngũ quân đội cách mạng và trở nên thân quen gắn bó: “Súng bên súng đầu sát bên đầu”

+ Mục đích: Tất cả vì tổ quốc mà hi sinh… Họ gửi lại quê hương tất cả: “Gian nhà không mặc kệ gió lung lay”.

+ Tình đồng chí:

Được nảy sinh từ nhiều điểm chung: (Cảnh ngộ, lí tưởng, nhiệm vụ…) để rồi thành mối tình tri kỉ: Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ. Tình cảm ấy phát triển thành tình đồng chí.

Tình đồng chí giúp người lính vượt lên mọi khó khăn gian khổ:

+ Giúp họ chia sẻ, cảm thông sâu xa những tâm tư, nỗi lòng của nhau:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày”… “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”.

+ Giúp họ vượt qua những gian lao thiếu thốn của cuộc kháng chiến: “Áo anh rách vai”… chân không giày. Cùng chịu đựng những cơn “Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”

* Vẻ đẹp tâm hồn của những người chiến sĩ:

– Lãng mạn và lạc quan: “miệng cười buốt giá”; hình ảnh “đầu súng trăng treo” gợi nhiều liên tưởng phong phú.

III. Kết bài:

Khái quát nâng cao:

– Vẻ đẹp của người lính trong bài thơ tiêu biểu cho vẻ đẹp của anh bộ đội cụ Hồ trong kháng chiến chống Pháp.

– Hình tượng người lính được thể hiện qua các chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, chân thực cô đọng mà giàu sức biểu cảm, hướng về khai thác đời sống nội tâm.

2. Cảm nhận về hình tượng người lính trong bài Đồng Chí

Cảm nhận về hình tượng người lính trong bài Đồng Chí
Cảm nhận về hình tượng người lính trong bài Đồng Chí

Đề tài người lính trong chiến đấu luôn là một đề tài bất tận của thơ ca kháng chiến. Hình ảnh người lính trong cảm nhận của mỗi nhà thơ có sự khác nhau. Với Chính Hữu, người lính hiện lên hết sức giản dị, mộc mạc nhưng có một tâm hồn cao đẹp, họ có chung một tình dân tộc, cùng lí tưởng chiến đấu. Hình ảnh đấy được thể hiện hết sức sâu sắc và cảm động trong bài thơ “Đồng chí” sáng tác năm 1948.

Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Hình ảnh người lính hiện lên hết sức chân thực. Họ là những người lính xuất phát từ những người nông dân tảo tần, quanh năm vất vả trên ruộng đồng. Hình ảnh “nước mặn đồng chua” và “đất cày sỏi đá” được tác giả sử dụng để chỉ những vùng đất khó khăn, khô cằn. Việc sử dụng biện pháp lặp cấu trúc trong hai câu thơ trên để diễn tả sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân. Họ đều đến từ những miền quê gian khổ ấy, là những người nông dân cần cù, lam lũ, chân lấm tay bùn, vậy nên cách mà họ thổ lộ tâm sự, nói chuyện với nhau đều hết sức dân dã và mộc mạc đúng như cái chất của người nông dân. Những miền quê xa xôi của Tổ quốc lại hội tụ về đây trong một hoàn cảnh đặc biệt: chiến tranh nổ ra, họ đành gác lại cuộc sống cơm áo để lên đường bảo vệ quê hương dân tộc, vì vậy mà:

Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời không hẹn mà quen nhau.

Họ cùng chung mục đích, lí tưởng chiến đấu, chính những điều đó đã mang họ lại nơi đây, họ trở thành những người bạn, người đồng đội, đồng chí cùng nhau chia sẻ ngọt bùi và gian khổ.

Súng bên súng đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Tri kỉ là những người cùng bên nhau chia ngọt sẻ bùi, cùng bước qua những ngày tháng khốn khó và trong hoàn cảnh chiến đấu này, họ gọi nhau bằng hai tiếng thiêng liêng: Đồng chí. Dòng thơ thứ bảy như một nhịp ngắt, một nốt trầm tĩnh lặng, một không khí thiêng liêng cho những người lính. Họ về đây theo tiếng gọi của non sông dân tộc, từ nay họ cùng nhau chiến đấu cho một lí tưởng cao cả. Bỏ lại sau lưng là quê hương, gia đình, là những mảnh ruộng nương dâu chờ ngươi chăm bón, họ cùng nhau chung sức chung lòng để giữ đất nước trước mối họa xâm lăng, tình yêu dân tộc đã lớn hơn tất cả.

Không chỉ có vậy, hình ảnh người lính hiện lên với những vẻ đẹp của đời sống tâm hồn, tình cảm, là sự thấu hiểu những tâm tư, nỗi lòng của nhau, cùng chia sẻ những gian lao, thiếu thốn. Trong những tháng ngày chiến đấu nguy nan, họ cùng nhau vượt qua những cơn sốt rét giữa rừng thiêng nước độc, cuộc sống đầy thiếu thốn, gian khổ nơi chiến trường:

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Nhờ tinh thần kiên cường chiến đấu, họ vẫn toát lên tinh thần lạc quan, mỉm cười để cùng nhau vượt quan thử thách, khó khăn trùng điệp. Trong khó khăn, tình người càng thêm ấm áp và tỏa sáng “thương nhau tay nắm lấy bàn tay. Cái nắm tay để truyền thêm hơi ấm, để động viên nhau cùng vượt qua gian khó, thiếu thốn. HÌnh ảnh đẹp ấy thật cảm động và ấm áp, cái nắm tay tuy không đủ để sưởi ấm cho cơ thể của người lính nhưng cũng đủ để sưởi ấm trái tim, để xua đi những nối nhớ quê hương, gia đình.

Đáng trân quý ở những người lính bộ đội cụ Hồ còn là sự yêu thương, đoàn kết, kề vai bên nhau cùng chiến đấu. Giữa rừng hoang sương muối, cái giá lạnh trong đêm như thấm từng thớ thịt, họ cùng đứng bên nhau để làm nhiệm vụ, canh giữ sự bình yên cho đất nước. Hình ảnh cuối bài “Đầu súng trăng treo” là một hình ảnh đẹp, là nhãn tự cho cả bài thơ, một sự kết hợp hài hòa giữa súng và trăng. Súng tượng trưng cho hiện thực cho cuộc chiến tranh khốc liệt và gian khổ, trăng là thơ mộng, là bình yên, là ánh sáng soi đường cho người lính trong đêm khuya. Trăng cũng gợi nỗi nhớ quê hương các anh – nơi có những người thân yêu đang ngày đêm mong ngóng. “Đầu súng trăng treo” tượng trưng cho sự giao hòa về tâm hồn của người lính giữa chiến sĩ và thi sĩ, giữa hiện tại và mộng mơ. Tâm hồn người lính vẫn rất đẹp, luôn yêu đời, tin tưởng về một ngày mai hòa bình.

Bài thơ Đồng chía đã xây dựng một bức tượng đài bất diệt về hình ảnh người lính trong kháng chiến chống Pháp, họ mang vẻ đẹp giản dị, mộc mạc, cùng chung lí tưởng chiến đấu và cùng sẻ chia gian khó trong những ngày tháng chiến đấu hào hùng của dân tộc. Nhờ có các anh, những người chiến sĩ vô danh đã thầm lặng hi sinh để đất nước hôm nay được thanh bình, phát triển. Bài thơ sử dụng các ngôn từ mộc mạc, hình ảnh giản dị nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về hình ảnh những người lính trong kháng chiến chống Pháp. Nhờ có các anh, những người chiến sĩ vô danh đã thầm lặng hi sinh để đem lại bình yên cho dân tộc hôm nay.

3. Vẻ đẹp người lính qua bài thơ Đồng chí

Trong suốt lịch sử của nước ta thì hình ảnh người lính trong các cuộc kháng chiến luôn là một đề tài bất tận của thơ ca. Ở mỗi một thời kỳ, họ lại hiện lên với những vẻ đẹp khác nhau, có lúc thì sôi nổi, trẻ trung, khi thì hào hoa, lãng mạn. Đến với Chính Hữu, chúng ta bắt gặp hình ảnh của người lính nông dân chân chất và mộc mạc trong kháng chiến chống Pháp. Hình ảnh đấy được thể hiện hết sức sâu sắc và cảm động trong bài thơ “Đồng chí” sáng tác năm 1948.

“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.

Hình tượng người lính hiện lên trong bài thơ hết sức chân thật, thật đến nỗi chúng ta cảm nhận như vừa thấy bóng dáng của ai đó bước thẳng vào trong những trang thơ. Thành ngữ “nước mặn đồng chua” và “đất cày lên sỏi đá” ám chỉ những vùng đất khô cằn, bị nhiễm phèn, nhiễm mặn quanh năm, rất khó canh tác. Đấy đều là những vùng quê chiêm trũng và nghèo đói quanh năm. Những người lính trong chiến trường cũng chính là người con của mảnh đất quê hương đấy, họ đều là những người nông dân cần cù, lam lũ, chân lấm tay bùn, vậy nên cách mà họ thổ lộ tâm sự, nói chuyện với nhau đều hết sức dân dã và mộc mạc đúng như cái chất của người nông dân. Những tưởng hai con người ở hai vùng quê nghèo đói đấy sẽ chẳng bao giờ gặp được nhau, ấy vậy mà chiến tranh nổ ra, những người lính phải từ giã vùng quê của mình để lên đường bảo vệ quê hương, đất nước. Họ cùng chung mục đích, lý tưởng chiến đấu, chính những điều đó đã mang họ lại nơi đây, họ trở thành những người bạn, người đồng đội, đồng chí cùng nhau chia sẻ ngọt bùi và gian khổ.

“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!”.

Hình ảnh người lính còn hiện lên với những vẻ đẹp của đời sống tâm hồn, tình cảm, là sự thấu hiểu những tâm tư, nỗi lòng của nhau, cùng chia sẻ những gian lao, thiếu thốn. Các anh đều là những người lính tạm gác tình riêng, để nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, dũng cảm ra đi vì nghĩa lớn để lại sau lưng mảnh trời quê hương với biết bao nhiêu trăn trở.

“Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”.

Hình ảnh “gian nhà không” là hình ảnh khá lắng đọng trong tâm trí những người chiến sĩ ấy và cũng hết sức ám ảnh trong tâm trí người đọc. Đấy là cái nghèo xơ xác của những vùng quê hay cũng chính là nỗi trống trải trong lòng của những người ở lại. “Giếng nước, gốc đa” vốn là những vật vô tri, vô giác nay đã được nhân hóa lên để thể hiện nỗi nhớ thương da diết của quê hương yêu dấu với những người lính đã rời đi và rất khó để hẹn ngày trở lại. Ngoài ra giếng nước, gốc đa còn dùng để ám chỉ những người ở lại, những người vợ chờ chồng, mẹ chờ con luôn nhớ thương, mong ngóng tới ngày người lính trở về. Tại sao người lính đang ở trong chiến trường mà lại thấu hiểu hết những tâm sự của quê hương, gia đình, ấy là bởi vì chính người lính cũng đang nhớ về họ da diết, một nỗi nhớ hai chiều, nhớ về quê hương chính là cách để họ vượt qua khó khăn. Đấy chính là vẻ đẹp tâm hồn, những tình cảm chất chứa trong những người chiến sĩ ấy.

Chiến tranh diễn ra ác liệt, những người lính không chỉ phải đối mặt với mưa bom bão đạn của kẻ thù, ở đây Chính Hữu đưa chúng ta đến với cuộc sống thường ngày của những người lính với những gian khổ, bệnh tật hành hạ, thiếu thốn tất cả những vật dụng hằng ngày quần áo, thuốc men, giày dép. Nhưng ở họ vẫn toát lên tinh thần lạc quan, mỉm cười để cùng nhau vượt qua thử thách, khó khăn trùng điệp.

“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.

Cái nắm tay ấy không chỉ là cái nắm tay đơn thuần mà nắm tay để truyền cho nhau hơi ấm của tình thương, truyền cho nhau sức mạnh của ý chí để động viên nhau, cùng nhau vượt qua khó khăn, thiếu thốn. Ở đây chúng ta bắt gặp hình ảnh về người lính xiết bao cảm động và ấm áp, đấy là sức mạnh của tình thương, của sự sẻ chia những nhọc nhằn, gian lao, thiếu thốn, hành động nắm tay nhau ấy không khác gì việc “đưa than sưởi ấm trong ngày tuyết rơi”, có thể nó không đủ sưởi ấm cơ thể họ, nhưng cũng đủ để sưởi ấm trái tim họ.

Hình ảnh người lính còn hiện lên với vẻ đẹp của tinh thần đoàn kết, thương yêu, kề vai sát cánh bên nhau cùng nhau chiến đấu chống lại quân thù. Giữa không gian âm u của rừng hoang, sương muối ấy vẫn sáng lên bức tượng đài bất diệt về người lính đứng cạnh bên nhau trong tư thế chủ động tấn công “chờ giặc tới”, một sự kết hợp hài hòa giữa hình tượng súng và trăng. Súng tượng trưng cho hiện thực cho cuộc chiến tranh khốc liệt và gian khổ, trăng tượng trưng cho hòa bình, cho khát vọng về một ngày mai đất nước thanh bình. “Đầu súng trăng treo” còn tượng trưng cho sự giao hòa về tâm hồn của người lính giữa chiến sĩ và thi sĩ, giữa hiện tại và mộng mơ. Tâm hồn người lính vẫn rất đẹp, luôn yêu đời, tin tưởng về một ngày mai hòa bình.

Bài thơ “Đồng chí” đã xây dựng một bức tượng đài bất diệt về hình ảnh người lính trong kháng chiến chống Pháp. Hình ảnh đó đẹp và sống động tới nỗi dù cho hôm nay và mai sau mỗi khi nhắc đến hình tượng người lính trong kháng chiến thì bức tượng đài đó vẫn luôn hiện về trong tâm trí người đọc.

4. Đoạn văn nêu cảm nhận của em về hình ảnh người lính trong bài Đồng chí

Hình tượng người lính đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho các sáng tác nghệ thuật. Đối với Chính Hữu, tác giả lại có sự cảm nhận riêng về hình tượng người lính. Chính Hữu thể hiện cơ sở hình thành tình đồng chí tới những biểu hiện cảm động nghĩa tình của những người lính dành cho nhau. Thời khì kháng chiến chống Pháp, những người lính đã phải đối mặt với nhìn khó khăn thử thách, thiếu thồn về vật chất "Áo anh rách vai/ Quần tôi có vài mảnh vá". Nhưng vượt lên tất cả, đó là vẻ đẹp của tình đồng đội, đồng chí. Giữa khung cảnh lạnh lẽo, hoang vu của núi rừng Tây Bắc, những người lính đứng kề cạnh bên nhau xua đi cái lạnh nơi rừng thiêng nước độc. Chính nơi đó, ranh giới giữa sự sống và cái chết trở nên mong manh, thì những người lính càng trở nên mạnh mẽ, đoàn kết. Họ sát cánh bên nhau chủ động chờ giặc tạo nên tư thế thành đồng vách sắt trước quân thù. Hình ảnh cuối bài tỏa sáng với sự hòa kết hình ảnh súng - hình ảnh của khói lửa chiến tranh kết hợp với hình ảnh ánh trăng trong mát, thanh bình nói lên ý nghĩa cao cả của cuộc chiến tranh vệ quốc. Chỉ với ba câu thơ xúc động, chân thực nhưng cũng giàu sự lãng mạn, bức tranh về tình đồng chí của người lính đã hiện lên giàu chất thơ và ngời sáng vẻ đẹp của người lính cụ Hồ thời chống Pháp.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tài liệu của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
37 62.189
0 Bình luận
Sắp xếp theo