Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào đọc hiểu

Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào đọc hiểu - Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc của nhà văn Kim Lân và thường xuyên xuất hiện trong các đề thi quan trọng dưới dạng phân tích tác phẩm hoặc đọc hiểu văn bản. Trong bài viết này Hoatieu xin chia sẻ đến các em học sinh tổng hợp bộ đề đọc hiểu Vợ nhặt giúp các em hiểu rõ hơn về nội dung và ý nghĩa của tác phẩm cũng như biện pháp tu từ Vợ nhặt.

1. Đọc hiểu Vợ nhặt - đề 1

Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì... Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt... Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?

(Trích Vợ nhặt - Kim Lân)

Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1: Đoạn văn trên được viết theo phương thức nào là chính?

Câu 2: Nội dung chủ yếu của đoạn văn bản là gì ?

Câu 3: Xác định thành ngữ dân gian được sử dụng trong đoạn văn và nêu hiệu quả nghệ thuật của các thành ngữ đó ?

Câu 4: Dấu ba chấm (...) trong câu văn Còn mình thì... có ý nghĩa gì?

Gợi ý trả lời

Câu 1: Đoạn văn trên được viết theo phương thức biểu cảm

Câu 2:

Nội dung chính của đoạn văn trên diễn tả tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ khi biết con trai dẫn người đàn bà xa lạ về nhà và lo lắng cho chúng liệu có hạnh phúc không.

Câu 3:

Thành ngữ dân gian được sử dụng trong đoạn văn trên là: dựng vợ gả chồng, ăn nên làm nổi, sinh con đẻ cái.

→ Tác dụng: cho thấy ngòi bút điêu luyện của tác giả khi viết văn.

Câu 4:

Dấu ba chấm (...) trong câu văn Còn mình thì... có ý nghĩa: nhấn mạnh vào lời độc thoại bị đứt đoạn của bà cụ Tứ. Qua đó, cho thấy tình yêu của người mẹ giành cho con.

2. Đọc hiểu Vợ nhặt - đề 2

Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:

Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người.

Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa. Mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt sáng lên lấp lánh. Người đàn bà đi sau hắn chừng ba bốn bước. Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Mấy đứa trẻ con thấy lạ vội chạy ra đón xem. Sợ chúng nó đùa như ngày trước, Tràng
vội vàng nghiêm nét mặt, lắc đầu ra hiệu không bằng lòng. Mấy đứa trẻ đứng dừng lại, nhìn Tràng, đột nhiên có đứa gào lên:

- Anh Tràng ơi! - Tràng quay đầu lại. Nó lại cong cổ gào lên lần nữa – Chông vợ hài.

Tràng bật cười:

- Bố ranh!

Người đàn bà có vẻ khó chịu lắm. Thị nhíu đôi lông mày lại, đưa tay lên xóc xóc lại tà áo. Ngã tư xóm chợ về chiều càng xác xơ, heo hút. Từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp súp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết.

Nhìn theo bóng Tràng và bóng người đàn bà lủi thủi đi về bến, người trong xóm lạ lắm. Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán. Hình như họ cũng hiểu được đôi phần. Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ. Một người thở dài. Người khác khẽ thì thầm hỏi:

- Ai đấy nhỉ?... Hay là người dưới quê bà cụ Tứ mới lên?

- Chả phải, từ ngày còn mồ ma ông cụ Tứ có thấy họ mạc nào lên thăm đâu.

- Quái nhỉ?

Im một lúc, có người bỗng lại cười lên rung rúc.

- Hay là vợ anh cu Tràng? Ừ, khéo mà vợ anh cu Tràng thật anh em ạ, trông chị ta thèn thẹn hay đáo để.

- Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?

Họ cùng nín lặng.

Người đàn bà như cũng biết xung quanh người ta đang nhìn dồn cả về phía mình, thị càng ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia. Hắn cũng biết thế, nhưng hắn lại lấy vậy làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình.

(Trích Vợ nhặt - Kim Lân - Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục, 2008, tr.24)

Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1. Giới thiệu vài nét về tác giả Kim Lân.

Câu 2. Đoạn trích ít nhiều đã phản ánh hiện thực khốc liệt của nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu, 1945 ở nước ta. Anh/chị biết gì về nạn đói này?

Câu 3. Việc lặp đi lặp lại chi tiết người bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma có ý nghĩa gì?

Câu 4. Trước sự kiện anh cu Tràng “nhặt” được vợ, những người dân ở xóm ngụ cư đã tỏ thái độ ra sao?

Câu 5. Phân tích chi tiết Sợ chúng nó (mấy đứa trẻ con ở xóm ngụ cư) đùa như ngày trước, Tràng vội vàng nghiêm nét mặt, lắc đầu ra hiệu không bằng lòng.

Câu 6. Từ những chi tiết Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn., thị càng ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia, hãy nhận xét về nhân vật người “vợ nhặt”.

Gợi ý trả lời

Câu 1:

- Kim Lân (1920 – 2007) là một cây bút chuyên viết truyện ngắn, thường viết về nông thôn và người nông dân. Truyện Kim Lân luôn gắn với đời sống làng quê, từ ngữ bình dị và gần gũi. Một số tác phẩm chính như: Nên vợ nên chồng (1955), Con chó xấu xí (1962)…

Câu 2:

Đây là nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu - 1945 diễn ra ở nước ta. Nạn đói này đã làm cho hàng triệu người mất mạng.

Câu 3:

Việc lặp đi lặp lại chi tiết người bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma có ý nghĩa tô đậm sự thê thảm của con người trong nạn đói.

Câu 4:

Trước sự kiện anh cu Tràng “nhặt” được vợ, những người dân ở xóm ngụ cư thoạt đầu, họ thấy phấn chấn, mừng lạ nhưng ngay sau đó, họ ái ngại, thậm chí lo lắng thay cho Tràng: có vợ trong hoàn cảnh đói kém, bản thân mình còn chưa nuôi nổi.

Câu 5:

Chi tiết này chứng tỏ Tràng hoàn toàn nghiêm túc trong việc đưa người đàn bà đi bên cạnh về nhà làm vợ. Tràng sợ việc mấy đứa trẻ con đùa bỡn sẽ làm người đàn bà đi bên cạnh ngượng nghịu hoặc suy nghĩ.

Câu 6:

Những chi tiết về Thị cho thấy cô có ý thức rất sâu sắc về thân phận của mình.

3. Đọc hiểu Vợ nhặt - đề 3

Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:

Bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà. Đến giữa sân bà lão đứng sững lại, bà lão càng ngạc nhiên hơn. Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ? Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bài lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải. Bà lão nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay đầu lại
nhìn con tỏ ý không hiểu.

Tràng tươi cười:

- Thì u hẵng vào ngồi lên giường lên giếc chĩnh chện cái đã nào.

Bà lão lập cập bước vào. Người đàn bà tưởng bà lão già cả, điếc lác, thị cất tiếng chào lần nữa:

- U đã về ạ!

Ô hay, thế là thế nào nhỉ? Bà lão băn khoăn ngồi xuống giường. Tràng nhắc mẹ:

- Kìa nhà tôi nó chào u.

Thấy mẹ vẫn chưa hiểu, hắn bước lại gần nói tiếp:

- Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau… Chẳng qua nó cũng là cái số cả…

Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không.

Bà lão khẽ thở dài ngửng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt. Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được… Thôi thì bổn phận là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con… May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?

Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với “nàng dâu mới”:

- Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…

Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Hắn ho khẽ một tiếng, bước từng bước dài ra sân. Bà cụ Tứ vẫn từ tốn tiếp lời:

- Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau.

Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa những dòng sông sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối. Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài. Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?...

- Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân.

Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi. Người đàn bà khẽ nhúc nhích, thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ. Bà lão hạ thấp giọng xuống thân mật:

- Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…

Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng.

(Trích Vợ nhặt - Kim Lân -Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục, 2008, tr. 28-29)

Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1. Đoạn trích trên được trích từ truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. Giới thiệu vài nét về xuất xứ tác phẩm.

Câu 2. Nêu chủ đề của đoạn trích.

Câu 3. Theo anh/chị, vì sao bà cụ Tứ lại nói với các con của mình là Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng… thay vì…u cũng bằng lòng?

Câu 4. Việc bà cụ Tứ không phản đối chuyện Tràng dẫn một người đàn bà xa lạ về làm vợ giữa lúc cái đói đang hoành hành dữ dội, đẩy con người đến cận kề bờ vực của cái chết thể hiện vẻ đẹp gì trong tâm hồn người mẹ?

Gợi ý trả lời

Câu 1:

Truyện ngắn Vợ nhặt có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công. Truyện có bối cảnh nạn đói năm Ất Dậu.

Câu 2:

Chủ đề của đoạn trích là: Tâm trạng và hành động của bà cụ Tứ khi nghe tin Tràng có vợ.

Câu 3:

Theo em, bà cụ Tứ lại nói với các con của mình là Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng … thay vì … u cũng bằng lòng là vì:

+ Bằng lòng chỉ có nghĩa là đồng ý chấp thuận.

+ Mừng lòng vừa có nét nghĩa là bằng lòng chấp thuận nhưng nó còn thể hiện được niềm vui cùng thái độ rộng lượng của bà cụ.

Câu 4:

Việc bà cụ Tứ không phản đối chuyện Tràng dẫn một người đàn bà xa lạ về làm vợ giữa lúc cái đói đang hoành hành dữ dội, đẩy con người đến cận kề bờ vực của cái chết thể hiện vẻ đẹp rộng lượng và tấm lòng nhân hậu của người mẹ.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trong nhóm Lớp 12 thuộc chuyên mục Học tập của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
1 4.742
0 Bình luận
Sắp xếp theo