Bài viết số 2 lớp 11 đề 3: Nhân cách nhà nho chân chính (6 mẫu)

Nhân cách nhà nho chân chính trong bài thơ Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát hoặc Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ. Đây là nội dung bài viết số 2 lớp 11 đề số 3 thuộc phần Nghị luận văn học trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 11 tập 1. Sau đây là chi tiết mẫu dàn ý bài viết số 2 lớp 11 đề 3 kèm theo các bài văn mẫu về Nhân cách nhà nho chân chính qua bài Bài ca ngắn đi trên bãi cát hoặc Bài ca ngất ngưởng. Mời các bạn cùng tham khảo.

Mời các bạn cùng tham gia group Bạn Đã Học Bài Chưa để cập nhật các kiến thức mới bổ ích về học tập cùng với Hoatieu nhé.

1. Dàn ý Bài viết số 2 lớp 11 đề 3

Bài viết số 2 lớp 11 đề 3

Dàn ý nhân cách nhà nho chân chính trong bài thơ Bài ca ngắn đi trên bãi cát

1. Mở bài

- Giới thiệu: nhân cách nhà nho chân chính.

2. Thân bài

a. Nhân cách nhà nho chân chính là cái gì?

- Giải thích:

- Nhân cách là gì? Nhân cách là tư cách, phẩm chất của con người.

- Thế nào là nhà nho? Nhà nho là những người tri thức thời xưa, theo Nho học.

Nhà nho là người đã học sách thánh hiền được thiên hạ cần để dạy bảo người đời ăn ở hợp luân thường, đạo lí ….

Nhìn chung “Nho” là một danh hiệu chỉ người có học thức, biết lễ nghĩa, biết “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.

b. Nhân cách nhà nho chân chính là thế nào?

- Trước hết nhân cách nhà nho chân chính là phải biết “tu thân”. Trong tu thân, sự học là rất quan trọng. Mà học là để đỗ đạt trong thi cử. Sau đó “trị quốc”, ra làm quan để kính bang tế thế, giúp nước giúp đời.

“Khi thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đóc Đông …”

- Nhân cách nhà nho chân chính như Nguyễn Công Trứ còn có tính cách của một nhà nho tài tử.

“Đô môn giải tổ chi niên

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng …

- Nhân cách của nhà nho chân chính Cao Bá Quát lại có những nét đặc biệt:

“Bãi cát lại bãi cát dài,

Đi một bước như lùi một bước …”

3. Kết bài

- Đánh giá chung: Nhân cách nhà nho chân chính

Dàn ý Nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngất ngưởng

I. Mở bài

- Giới thiệu những nét tiêu biểu về Nguyễn Công Trứ: một nhân vật lịch sử nổi tiếng in đậm dấu ấn không chỉ trong văn chương mà còn trong nhiều lĩnh vực khác, thơ văn ông phản ánh nhân sinh và thế sự sâu sắc

- Giới thiệu vấn đề nghị luận: Bài ca ngất ngưởng là một trong số những bài hát nói tiêu biểu thể hiện tài năng, chí khí và ý thức cá nhân của Nguyễn Công Trứ - đó chính là nhân cách nhà nho chân chính

II. Thân bài

1. Làm rõ vấn đề “nhân cách nhà nho chân chính”

- Nhân cách: phẩm cách, phẩm đức, phẩm hạnh con người

- Nhà nho chân chính: Nhà nho sống với những nguyên tắc, chuẩn mực, của bản thân, không làm trái với lương tâm, dám khẳng định tài năng và bản lĩnh của mình

2. Nhà nho chân chính là người dám thể hiện bản lĩnh, đem tài năng cống hiến chốn quan trường

- Sự xuất hiện của nhà nho với tài năng, bản lĩnh và cá tính phóng khoáng

+ “ Vũ trụ nội mạc phi phận sự”: thái độ tự tin khẳng định mọi việc trong trời đất đều là phận sự của tác giả ⇒ Tuyên ngôn về chí làm trai của nhà thơ.

+ “Ông Hi Văn…vào lồng”: Cõi nhập thế là việc làm trói buộc nhưng đó cũng là điều kiện để bộc lộ tài năng của nhà nho chân chính

- Tác giả điểm lại việc mình đã làm ở chốn quan trường và tài năng của mình ⇒ Những việc làm mà nhà nho chân chính nên làm, cần làm

+ Tài năng: Giỏi văn chương (khi thủ khoa), Tài dùng binh (thao lược) ⇒ Tài năng lỗi lạc xuất chúng

+ Khoe danh vị, xã hội hơn người: Tham tán, Tổng đốc, Đại tướng (bình định Trấn Tây), Phủ doãn Thừa Thiên

⇒ khẳng định tài năng và lí tưởng phóng khoáng của một nhà nho với tài năng xuất chúng

3. Nhà nho chân chính còn là người có phong cách lối sống tự nhiên, ung dung tự tại

- Nhà nho chân chính theo Nguyễn Công Trứ có cách sống theo ý chí và sở thích cá nhân

+ Cưỡi bò đeo đạc ngựa.

+ Đi chùa có gót tiên theo sau.

+ Bụt cũng nực cười: thể hiện hành động của tác giả là những hành động khác thường (lưu ý nhân cách nhà nho chân chính ở đây được chứng minh theo quan điểm nhà nho của Nguyễn Công Trứ)

⇒ Cá tính người nghệ sĩ mong muốn sống theo cách riêng

- Nhà nho với triết lí tự nhiên , ung dung tự tại, lấy tận hưởng lạc thú làm lẽ tồn tại

+ “ Được mất ... ngọn đông phong”: Tự tin đặt mình sánh với “thái thượng”, tức sống ung dung tự tại, không quan tâm đến chuyện khen chê được mất của thế gian

+ “Khi ca… khi tùng” : tạo cảm giác cuộc sống phong phú, thú vị, từ “khi” lặp đi lặp lại tạo cảm giác vui vẻ triền miên .

+ “ Không …tục”: Khẳng định lối sống riêng độc nhất của bản thân mình

⇒ Nhà nho chân chính theo Nguyễn Công Trứ là con người thoát mình khỏi những tư tưởng phong kiến siêu hình, bảo thủ

4. Nhà nho chân chính theo quan niệm của Nguyễn Công Trứ còn là người mang trong mình đạo lí trung quân

+ “ Chẳng trái Nhạc.. Nghĩa vua tôi cho trọn đạo sơ chung”: Sử dụng điển cố , ví mình sánh ngang với những người nổi tiếng có sự nghiệp hiển hách như Trái Tuân, Hàn Kì, Phú Bật…

⇒ khẳng định bản lĩnh, khẳng định tài năng sánh ngang bậc danh tướng. Tự khẳng định mình là bề tôi trung thành.

+ “Trong triều ai ngất ngưởng như ông”: vừa hỏi vừa khẳng định vị trí đầu triều về cách sống “ngất ngưởng”

⇒ Nhà nho chân chính không phải là người khuôn mình vào những quy tắc, nguyên tắc bảo thủ lạc hậu mà là sống chân chính với tài năng và quan niệm của mình

III. Kết bài

- Khái lược một số nét đặc sắc trên phương diện nghệ thuật thể hiện thành công nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ

- Suy nghĩ bản thân về nhân cách nhà nho chân chính

2. Nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát - mẫu 1

Bãi cát lại bãi cát dài

Đi 1 bước như lùi 1 bước.

Mặt trời đã lặn chưa dừng được.

Lữ khách trên đường nước mắt rơi.

Ẩn dụ về con đường duy nhất để "lên đời" trong xã hội phong kiến thối nát. Ngay từ đầu bài thơ ta đã bắt gặp hình ảnh lộ- đồ- con đường. Đường đi trên cát mang ý nghĩa biểu tượng cho con đường đời, con đường ấy dài vô cùng tận, đầy rẫy những khó khăn, chông gai, mờ mịt không biết chọn ngả nào, hướng nào. Để đạt được chân lí của cuộc đời, người ta phải vượt qua muôn ngàn khó khăn

Người đi đường là nhân vật trữ tình, là người kẻ sĩ đi tìm chân lí giữa cuộc đời mờ mịt, hay đó chính là hiện thân của Cao bá Quát

Không học được tiên ông phép ngủ

Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!

Điển tích (SGK có) Đây là lời tự bạch, nỗi cay đắng, những suy nghĩ đầy mâu thuẫn giữa mơ ước khát vọng sống cao đẹp với hiện thực mờ mịt, giữa tinh thần xông pha trên con đường đi tìm lí tưởng với nhu cầu hưởng lạc cầu an lúc bấy giờ, Người đi đường hiểu rằng phải học để đi thi, nhưng khi đỗ đạt làm quan như bao phường danh lợi khác thì học và thi để làm gì? Tác giả những mong mình học được tiên ông cái phép ngủ, cái phép "thụy du" như thái độ Nguyễn Công Trứ

Được mất dương dương người thái thượng

Khen chê phơi phới ngọn đông phong

Không quan tâm đến người đời nói gì, nghĩ gì, sống thảnh thơi nhàn hạ, vô ưu, thì may ra mọi nỗi thống khổ mới chấm dứt. Tiếc thay phép thụy du đối với những người vốn đã quá tỉnh lại chẳng có chút gì hiệu lực. Vì thế, càng đi trong sự tỉnh táo thì mọi nỗi oán hận trong lòng người đi chỉ càng thêm chất chồng.

Xưa nay phường danh lợi

Tất tả trên đường đời.

Ý muốn nói với ta rằng cuộc đời đầy những bọn danh lợi chen chúc, chúng mưu sinh, hưởng thụ say sưa và không ai đi cùng mình trên con đường mờ mịt trên cát, chỉ có 1 mình đơn độc biết bao!

Đầu gió hơi men thơm quán rượu,

Người say vô số, tỉnh bao người?

Chuyện mưu cầu danh lợi cũng như chuyện thưởng thức rượu ngon, ít ai tránh được sự cám dỗ

Cách nói ấy nhằm mục đích làm nổi rõ mình với đông đảo những người chạy theo danh lợi và để khẳng định mình không thể hòa trộn với chúng

Cách nói ấy chứng tỏ người đi đường đã tỏ thái độ khinh thường với phường danh lợi. Ông là kẻ cô đơn hông có đồng hành và sự thực ấy làm người đi đường rất cay đắng.

Sự đối lập thức / ngủ và tỉnh / say thực ra chỉ là những biện pháp loại trừ nhằm giới hạn dần và soi tỏ từng bước đặc trưng loại biệt của đối tượng.

Trước hoàn cảnh ấy, người đi đường đặt ra câu hỏi day dứt: Đi tiếp hay dừng lại?

Bãi cát dài, bãi cát dài ơi !

Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt,

Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít?

Và dĩ nhiên ông đã không dừng lại mà tiếp tục bước đi...

Thế rồi ở phần cuối, bài thơ kết thúc bằng một câu vần bằng và ba câu vần trắc bảy chữ, báo hiệu một cái gì đang thắt lại trong tư tưởng, là cái tuyên ngôn “cùng đường” của nhà thơ. Phép điệp âm ở đây lại được sử dụng tiếp, cài vào nhau, đan chéo nhau, đẩy cảm giác nhức nhối đến cùng tột:

Hãy nghe ta hát khúc " đường cùng ",

Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng,

Phái nam núi Nam, sóng dào dạt.

Người đi đường nhận ra rằng mình không chỉ cô độc trên đường đời mà còn đang đi trên con đường cùng, sự bế tắc trên đường đời, nhìn về phía bắc thì thấy núi non muôn trùng, nhìn về phía nam thì núi sau lưng, sông trước mặt, khó khăn và gian nan, nguy hiểm. Và đến đây, cảm hứng về một con người lầm lũi đi không biết tháng biết năm, đi mà không bao giờ tới đích, đi nhưng vẫn cứ như dẫm chân tại chỗ… ở đầu bài thơ được tiếp thêm bởi cái cảm hứng về sự cô đơn tuyệt đối của chính người bộ hành ấy, đã nâng hình tượng trữ tình của bài thơ lên mức một ẩn dụ có sức ám ảnh ghê gớm: người hành nhân ấy vẫn cứ đang mải miết đi, nhưng nhìn lên phía Bắc thì muôn ngọn núi lớp lớp đã sừng sững chắn mất lối; ngoảnh về Nam, núi và sóng hàng muôn đợt cũng đã vây phủ lấy mình. Và nhìn khắp bốn phía, thì nào có còn ai, chỉ còn độc một mình mình đứng trơ trên bãi cát. Đi tiếp hay lùi lại? Tiến thoái lưỡng nan! Người đi đường chỉ còn biết đứng chôn chân trên cát

Anh đứng làm chi trên bãi cát? (Câu hỏi mở, gần giống với câu: Sống trên đời, kẻ không học thức cả kẻ có học đều tự biến mình thành ra 1 lũ bò sáng ăn, tối ngủ, chỉ khư khư làm theo lời chủ và cây roi. Như Thế có phải là cách sống đúng nghĩa đối với 1 con người?)

=> Hình ảnh kết đọng cao nhất là một con người đã mất hết ý niệm về thời gian vì những cuộc đi, lại mất luôn cả ý niệm về phương hướng vì không còn có không gian xoay trở. Đấy là con người mất ý thức về lẽ tồn tại. Nhưng câu cuối cùng của bài thơ là một câu hỏi, cho nên cần hiểu: trong cảnh ngộ tuyệt vọng, con người này vẫn luôn luôn băn khoăn thắc mắc mà không giải đáp nổi vì sao và do đâu mình lại tự đánh mất lý do tồn tại của mình.

Thêm: Cao Bá Quát đã từng chia trí thức ra làm ba loại, ứng với ba loài chim. Loại thứ nhất là hồng hộc bay giữa trời xanh. Loại thứ hai là hạc đen ẩn mình bên sườn núi. Loại thứ ba là hoàng yến luẩn quẩn ở chốn lâu đài của kẻ quyền quý. Khỏi phải nói con người cả đời chỉ biết bái tạ cành hoa mai như Cao Bá Quát thích loại chim nào và khinh loại nào. ==> Quan điểm của ông ==> Nhân cách của ông.

3. Nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát - mẫu 2

Cao Bá Quát là một nhà thơ tài năng và bản lĩnh, nổi tiếng văn hay chữ tốt, được tôn vinh như một bậc thánh “thần Siêu thánh Quát”. Là người học rộng tài cao nhưng ông lại sống trong một xã hội đầy bất công ngang trái. Chính vì điều này, ông đã lấy cảm hứng sáng tác bài thơ “Bãi ca ngắn đi trên bãi cát” để thể hiện tâm thế khinh thường những kẻ hám danh vọng và niềm khát khao được thay đổi cuộc sống. Đồng thời qua bài thơ, chúng ta thấy được bức chân dung Cao Bá Quát hiện lên là một nhà nho tài giỏi, đức độ với tâm hồn văn chương và cốt cách thanh cao.

Cũng giống như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát cũng có quan niệm về chí làm trai. Ông luôn khao khát lập nên công danh sự nghiệp vẻ vang hiển hách cho đời, coi đó là lí tưởng sống, là trách nhiệm cả đời. Mở đầu bài thơ, tác giả đã thể hiện sự coi thường danh lợi, công danh trong xã hội phong kiến thối nát. Ông nhận ra những tư tưởng hà khắc, lạc hậu của Nho giáo, làm con người ta không thể thỏa mãn được cái khát vọng của mình:

”Bãi cát lại bãi cát dài

Đi một bước như lùi một bước

Mặt trời đã lặn, chưa dừng được

Lữ khách trên đường nước mắt rơi “

Điệp từ “bãi cát” được lặp lại hai lần càng khiến không gian trong bài thơ trở nên dài rộng bao la. Việc đi trên bãi cát thường rất khó khăn, không thể giúp con người ta tiến nhanh về phía trước được mà chỉ thấy những bước chân bị kìm nén, bị lùi tụt lại về phía sau. Trên bãi cát mênh mông ấy chẳng biết đâu là điểm dừng, đâu là con đường mà người cần đi. Trên bãi cát ấy còn có hình ảnh của một con người cô độc đang độc hành trên bãi cát. Dáng dấp nhỏ bé tưởng chừng như bị nuốt chửng bởi bãi cát bao la ấy, càng khiến cho ta cảm thấy dễ chơi vơi, chán nản. Những giọt nước mắt của sự khó khăn vất vả hay là nỗi bất mãn trước thời đại khi phải hành hạ thân xác để theo đuổi danh vọng hư vô!

Đối với tri thức Nho sĩ ngày xưa, con đường học hành thi cử làm quan đầy vất vả, càng khó khăn hơn trong những buổi cuối của Nho học và đây cũng là cách duy nhất để họ thực hiện chí làm trai lập công danh của mình. “Mặt trời lặn” là hình ảnh chuyển giao của thời gian, khi thiên nhiên đã chìm dần vào giấc nghỉ ngơi, thì đối lập với nó là hình ảnh người lữ khách “chưa dừng được” . Điều đó cho ta thấy nhà thơ không muốn trốn tránh khó khăn nhưng ông luôn biết đối đầu và khắc phục nó.

“Xưa nay, phường danh lợi,

Tất cả trên đường đời

Đầu gió hơi men thơm quán rượu,

Người say vô số, người tỉnh bao người?”

Trên đường đời, chẳng có mấy ai thoát khỏi được sự ham muốn về vật chất, công danh phú quý. Dù buồn hay vui, người ta đều tìm đến quán rượu thơm nồng để đắm say, có mấy ai tỉnh táo để thoát khỏi ma lực ấy. Qua đây tác giả muốn đánh thức người đọc về những “phường danh lợi” khiến nhiều người lầm đường lạc lối. Ông phê phán những danh vọng tầm thường nhưng cũng nhận ra sự cô độc của mình trên đời. Con đường danh lợi được ví như một thứ rượu cám dỗ đời người. Thứ công danh ấy khiến con người phải bon chen, phải gạt đi mọi giá trị đạo đức luân lí. Những suy nghĩ của Cao Bá Quát đã đi trước thời đại và đã minh chứng cho trí tuệ uyên bác của ông. Người đọc thấy được thái độ chán ghét, khinh miệt của ông với lối quan niệm của các sĩ tử lúc bấy giờ và tự hào mình là kẻ tỉnh hiếm hoi giữa rừng sai ấy. Nhưng đáng buồn nhà thơ vẫn đang đi theo con đường này. Ông tự hỏi lại mình đang “tỉnh” hay đang “say” để rồi trút tiếng thở dài. Dường như ông đang có sự đấu tranh quyết liệt: Một mặt ông không muốn đi tiếp vì biết con đường này là vô ích, mặt khác lại có một tiếng gọi đang vang lên từ tận đáy lòng yêu nước thương dân của ông. Đó là cái nợ nước chưa trả, nợ công danh cuộc đời:

“Người đi trên bãi cát bỗng nhiên dừng lại

Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!

Tính sao đây đường bằng mờ mịt

Đường ghê sợ còn nhiều đâu ít?

Hãy nghe ta hát khúc đường cùng,

Phía bắc núi Bắc muôn trùng

Phía nam núi Nam sóng dào dạt

Anh đứng làm chi trên bãi cát?”

Một lần nữa, tác giả lại thốt lên tiếng gọi về “bãi cát dài” như sự cam chịu, chấp thuận. Đã biết bao lần muốn từ bỏ con đường đi về phía trước, những câu hỏi băn khoăn chất chứa trong lòng. “Đường bằng mờ mịt” là con đường đi theo tiếng gọi danh vọng, chẳng biết đến bao giờ mới được chạm tay vào công danh ấy. “Đường ghê sợ thì nhiều” ám chỉ còn rất nhiều con đường khác để tác giả có thể lựa chọn nhưng cũng chẳng có sự lựa chọn nào tốt, sáng sủa và hạnh phúc. Nỗi bế tắc bao trùm cả một cuộc đời, cả những bãi cát dài thênh thang. Những cặp hình ảnh núi và sóng vừa là hình ảnh thực, lại vừa mang ý nghĩa tượng trưng cho đường đời đầy gian lao, thử thách. Câu hỏi cuối bài thơ vang lên như một lời thúc giục, là tiếng gọi lên đường theo lý trí của tác giả. Đó cũng chính là động cơ thúc đẩy Cao Bá Quát đứng ra lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa chống lại triều đình nhà Nguyễn, để lại danh tiếng muôn đời sau này.

Cao Bá Quát xứng danh là một nhà nho có nhân cách chân chính, cao cả với những suy nghĩ độc đáo tuy sống trong một xã hội đã bị thấm nhuần tư tưởng hà khắc, lạc hậu của Nho giáo. Bài thơ “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” tuy ngắn mà dài, hiện thực mà tượng trưng, thể hiện tâm tư chân thành của một người có tài nhưng bị xã hội quay lưng. Tác giả đã gửi gắm trọn vẹn những cảm giác thất vọng, bế tắc của một bậc tri thức trước một thời đại đen tối. Đồng thời bài thơ cũng cho ta thấy một khí phách hiên ngang của chí làm trai, một trí tuệ thông thái của nhà Nho chân chính Cao Bá Quát.

4. Nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát - mẫu 3

"Đi một bước như lùi một bước"

Hình ảnh "bãi cát" như là một nỗi ám ảnh cứ đeo đuổi ông. Một không gian vô định, mênh mông với bãi cát trải dài bao la đang làm ông mất phương hướng và kiên nhẫn. Hình ảnh ẩn dụ về con đường công danh xa xôi, mịt mù cát bụi cũng giống như là con đường đời gập ghềnh trắc trở trong xã hội phong kiến lạc hậu. Những nhọc nhằn và bế tắc khi đi trên con đường ấy được ông thể hiện:

"Mặt trời đã lặn, chưa dừng được

Lữ khách trên đường nước mắt rơi"

Dẫu biết mặt trời đã lặn nhưng không thể nào dừng lại được vì không thể ngừng chân. Cao Bá Quát miêu tả một trạng thái kiệt sức cùng với tâm trạng lo âu và buồn nản. Giữa một bãi cát dài vô định hiện lên dường như chỉ còn có mỗi mình ông với một tâm thế cô đơn, lạc lõng. Con đường danh lợi gập ghềnh, trắc trở đã khiến ông phải đi qua trong phẫn uất và tự trách mình.

Cùng với tâm trạng bế tắc và bất lực tác giả đã thốt lên với biết bao sự chán ghét, khao khát được giải thoát:

"Không học được tiên ông phép ngủ

Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!"

Xưa nay phường danh lợi

Tất tả trên đường đời.

Đầu gió hơi men thơm quán rượu

Người say vô số tỉnh bao người?"

Tác giả nói đến những người ham danh lợi cũng giống như là những kẻ ham rượu. Ở nơi nào có quán rượu thì họ sẽ đổ xô tới, chen lấn để giành cho được thứ cám dỗ ấy. Dù biết điều đó chẳng có gì cao đẹp, nhưng có mấy ai có thể thoát ra được cái mùi hương ấy. Qua đó, ta có thể thấy được Cao Bá Quát đã nhận ra rằng con đường danh lợi mà ông đang đi chỉ là vô nghĩa, nó đang bị cái xã hội phong kiến làm cho mục nát và từ từ tha hóa. Tại sao phải tranh giành để vào nơi quan trường danh lợi? Đó chính là sự day dứt xuất phát từ nhân cách cao đẹp của ông, một người coi thường danh lợi, vinh hoa phú quý. Giống như nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm khi xưa cũng đã viết:

"Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người đến chốn lao xao"

(Nhàn)

Nhưng đáng buồn thay tác giả nhận ra rằng dẫu biết con đường danh lợi vô nghĩa, nhưng vì sự ràng buộc của xã hội phong kiến, ông vẫn đang đi trên con đường ấy, không dễ gì thoát ra được. Một tiếng thở dài ngao ngán vì chẳng biết đang mình tỉnh hay đang say trên con đường cùng không lối thoát:

"Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!

Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt

Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít?

Hãy nghe ta hát khúc "đường cùng"

Phía Bắc núi Bắc, núi muôn trùng

Phía Nam núi Nam, sóng dào dạt.

Cao Bá Quát dường như bế tắc chẳng biết nên dừng lại hay tiếp tục đi tiếp nữa. Dù biết đi trên con đường giữa "bãi cát của lợi danh" thì mình cũng chẳng khác gì đám người chỉ biết chạy theo hơi rượu. Bài ca kết lại bằng một câu hỏi đầy trăn trở và khao khát những con đường mới:

"Anh đứng làm chi trên bãi cát?"

Tác giả đã thốt lên một câu hỏi chất chứa từ rất lâu như hỏi chính bản thân. Nếu biết rõ con đường danh lợi ấy là tầm thường thì tại sao lại đứng đây làm gì. Phải chăng, nhà Nho Cao Bá Quát cần tìm một con đường mới cho chính mình và cho đất nước.

Bên cạnh đó, cái xã hội phong kiến mục nát cũng khiến cho những người tài khó ra sức giúp dân giúp nước. Và Cao Bá Quát thì lại có một lí tưởng sống rất khác biệt giữa cái xã hội ấy, thể hiện qua câu thơ nổi tiếng của ông: "Nhất sinh đê thủ bái mai hoa". Cả cuộc đời ông sẽ chỉ cúi đầu trước sự thanh cao và thuần khiết của hoa mai, của con người, chứ không phải là cường quyền. Vì thế ông thoát ra khỏi những quan niệm cũ của nền học vấn cũ để mong tìm ra một con đường mới để lập công và lập danh nhằm giúp dân, giúp nước.

Thể hành của bài thơ, cùng những hình ảnh ẩn dụ giàu ý nghĩa, phép điệp tạo cảm giác về sự dài lê thê của bãi cát đã khiến cho "Sa hành đoản ca" tạo ấn tượng sâu sắc với người đọc. Ngòi bút của "Thánh Quát" quả thật vô cùng tài hoa.

Tóm lại tác phẩm "Bài ca ngắn đi trên bãi cát" đã giúp ta hiểu được sự chán ghét và thái độ khinh miệt của nhà thơ với xã hội đang dần đi xuống và ước mơ được thay đổi nó. So sánh với Nguyễn Công Trứ, ta thấy Uy Viễn tướng quân cũng là một người có cách sống tự do phóng khoáng nhưng ông vẫn luôn giữ mình trong khuôn khổ Nho giáo với lòng trung quân. Ở Cao Bá Quát thì khác, ta thấy những tư tưởng khai sáng và mầm mống nổi loạn nhằm thay đổi một xã hội trì trệ đã xuất hiện trong "Sa hành đoản ca". Vẻ đẹp nhân cách một nhà nho chân chính bộc lộ ở tấm lòng ngay thẳng, coi thường danh lợi, luôn trăn trở, tự vấn về ý nghĩa con đường đời, và khao khát tìm ra con đường sáng để có thể cống hiến tài sức cho non nước.

Qua bài thơ "Bài ca ngắn đi trên bãi cát", ta đã thấy được vẻ đẹp tâm hồn và phẩm cách của một nhà nho chân chính đó chính là Cao Bá Quát, một người hết lòng vì dân, không ngại khó khăn và thử thách, luôn giữ mình trong sạch trong bất kì hoàn cảnh nào. Chính những nhà nho như ông đã khơi gợi con đường mới trong một xã hội còn đầy bóng tối của sự lạc hậu và trì trệ.

5. Bài viết số 2 lớp 11 đề 3

Phải nói rằng có những nhà thơ, nhà văn mà bóng dáng của họ giờ chỉ là niềm hoài cổ, dĩ vãng xa xưa. Nhưng ngược dòng thời gian, vẻ đẹp tâm hồn của những con người ấy vẫn mãi toả sáng, vĩnh hằng. Chúng ta càng thấm thía hơn điều đó khi đến với”bài ca ngắn đi trên bãi cát” của Cao Bá Quát và “bài ca ngất ngưỡng” của Nguyễn Công Trứ- hai tác phẩm thấm đẫm vẻ đẹp nhân cách của nhà nho chân chính.

Trước hết, vẻ đẹp nhân cách nhà nho chân chính qua hai tác phẩm đều là sự thể hiện quan điểm của mình về con đường danh lợi. Tuy nhiên mỗi người lại có một cách bộc lộ khác nhau về ước mơ thời đại ấy. Cao Bá quát chán ghét thốt lên rằng:

“Bãi cát dài bãi cát dài ơi

Đi một bước như lùi một bước

Mặt trời đã lặn chưa dừng được

Lữ khách trên đường nước mắt rơi”

Phải chăng do quá lận đận với dường danh lợi nên ông đã không mấy khát khao khi nhắc đến nó? Với ông dường như sự nghiệp đậu đạt làm quan là quá gập ghềnh, trắc trở. Nói diều ấy không có nghĩa Cao Bá Quát không có tài mà ngược lại, ông là một người có học vấn uyên thâm. Nguyên ngân chủ yếu làm mất đi một nhân tài đất nước như ông cũng là vì sự suy thoái cử xã hội, sự khủng hoảng của thời đại. Với cách sử dụng hình tượng bãi cát đầy tính gợi hình, và hình ảnh người đi trên bãi cát vô cùng tinh tế, Cao Bá Quát đã miêu tả rất thành công sự mệt nhọc, vất vả của người đi trên con dường danh lợi. Con dường ấy dài lắm, khó đi lắm đến nỗi giọt nước mắt của những người trí thức phải tuôn rơi. Giọt nước mắt đó là tiếng khóc cho sự vất vả, mệt mỏi, giọt nước mắt khóc thương cho biết bao năm đèn sách không là gì cả mà hơn nữa, đó là tiếng khóc của thời đại, tiếng lòng bi thương cho một xã hội suy đồi. Còn đến với Nguyễn Công Trứ, ta lại cảm nhận một suy nghĩ khác:

“Vũ trụ nội mạc phi phận sự

Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”

May mắn hơn Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ rất thành công trong sự nghiệp của mình, nhưng không vì thế mà ông đề cao con đường làm quan. Dường như có một sự tương đồng nho nhỏ trong suy nghĩ của hai nhà nho lớn khi Nguyễn Công Trứ cũng cảm thấy bị gò bó, ép buộc chốn quan trường. Điều ấy được thể hiện sâu sắc qua từ “vào lồng”. Có lẽ rằng sống trong thời đại đó thì cái đích phấn đấu cuối cùng của nhà nho là một chức quan. Với họ, học là để thi cử, dèn sách là để được vinh danh. Nhưng chúng ta không nên quá phê phán lối suy nghĩ ấy bởi đó là mục đích sống của cả một thế hệ. Nếu như không đi theo con đường ấy, họ sẽ chẳng có một lối rẽ nào khác cả.

Không dừng lại ở đó, cả Cao Bá Quát và Nguyễn Công Trứ đều để lại một dấu ấn riêng qua Tác phẩm của mình để khẳng định phong cách . Với Cao Bá Quát, phong cách nhà nho chân chính thật sự toả sáng kho ông có quan niệm sống vô cùng tiến bộ.

Con đường danh lợi gập ghềnh đến thế thì bạn hãy tự thoát ra. Một bước đi để đường đời thay đổi, để không còn phải vất vả bon chen, hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn. Đâu phải chỉ có làm quan mới là con đường duy nhất đi tới thành công, hãy chọn cho mình một lối rẽ riêng, không xô bồ, chen lấn.Đừng để vòng xoáy danh lợi nhấn chìm những con người tài giỏi vào hố sâu, dũng cảm bước ra khỏi vòng xoáy ấy mới là quyết định sáng suốt nhất. Cao Bá Quát đã có một quan niệm rất đúng đắn, vượt qua thời đại để hướng con người tới một cuộc sống hạnh phúc hơn. Đó cũng là bước đi đầu tiên để làm thay đổi xã hội, thoát khỏi sự lũng đoàn, suy đồi. Từ đó, Cao Bá Quát đã trở thành một biểu tượng của nhà nho chân chính, rất khác biệt so với các thế hệ trước. Cũng là một nhà nho chan chính, vẻ đẹp nhân cách của Nguyễn Công Trứ thể hiện qua phong cách, bản lĩnh cá nhân của mình.

… “Đô môn giải tổ chi niên

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng

Kìa núi nọ phau phau mây trắng

Tay kiếm cung mà nen dạng tằ bi

Gót tiên đủng đỉnh một đôi gì

Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.”

Nguyễn Công Trứ đã thể hiện mình vô cùng “ngất ngưởng”. Ông luôn làm những điều khác thường, không giống người trong khi mình là một vị quan trên muôn dân. Không những thế, ông còn khoe khoang tự đại về thành tích, công lao của mình, rồi coi mình cao hơn người khác. Hơn thế nữa, Nguyễn công Trứ còn có một cuộc sống vô cùng tự do,phóng khoáng. Vượt lên cả những lời đồn thổi tầm thường, ông sống mà không để ý đến xung quanh. Một cuộc sông đúng với chính mìn, sống thật với bản thân. Nhưng ông mãi sống trong lòng nhân dân với một hình ảnh vô cùng tốt đẹp, rất đáng kham phục. Cũng bởi vì ông đã công hiến rất nhiều cho công cuộc xây dựng đất nước, có những tháng ngày sống hết mình vì nhân dân. Cành đáng trân trọng hơn nữa đó là ông đã dám thể hiện cái “tôi” cá nhân của mình. Một cái tôi bản ngã - vượt lên thời đại. Một nhà nho chân chính là người dám nói, dám thể hiện bản lĩnh của mình trước thiên hạ. Và ông đã làm được điều đó, xứng đáng với vị trí của mình trong đất nước.

Đúng vậy, vẻ đẹp nhân cách nhà nho chân chính qua 2 tác phẩm “Bài ca ngăn đi trên bãi cát” và “Bài ca ngất ngưỡng” được thể hiện rất thành công. Tuy mỗi người có một phong cách riêng nhưng nó đều đã trỏ thành một nốt nhấn thời đại, trở thành điểm sáng thẩm mĩ trong lòng người đọc bởi ấy là vẻ đẹp biểu tượng của con người Việt Nam trong thời đại dĩ vãng, xa xưa.

6. Nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngất ngưởng - mẫu 1

Nguyễn Công Trứ là người có tài có chí có đức. Xuất thân dòng dõi Nho gia, ngay từ nhỏ đã học vỡ lẽ sách thánh hiền, thi cử đỗ đạt và ra làm quan lớn dưới các triều đại của nhà Nguyễn. Ông không chỉ là nhà quân sự, chính trị tài ba mà còn là một nhà thơ tài năng dùng thơ ca để “tỏ chí” và khẳng định bản thân. Trong các tác phẩm văn chương của ông tiêu biểu nhất là “Bài ca ngất ngưởng” thể hiện nhân cách nhà Nho chân chính nhưng có nhiều nét khác biệt vượt lên lễ giáo nho gia làm nên một nhân cách mới mang đặc trưng riêng của Nguyễn Công Trứ.

“Bài ca ngất ngưởng” có thể coi là bản tự thuật ngắn gọn, tóm tắt lại cuộc đời và tính cách ông Hi Văn (tên hiệu của tác giả). Ông phô bày giá trị bản thân với thái độ ngang tàn, lối sống thật thà và “ngông” của mình. Qua đó hiện lên nhân cách nhà Nho chân chính có quan điểm sống tiến bộ xứng đáng được người đời ca tụng và học tập.

Vậy nhà Nho họ là ai? Nhà Nho chính là người trí thức thời xưa theo học Nho giáo_ đó là hệ thống đạo đức, triết lí và tôn giáo do Khổng Tử đề ra để xây dựng một xã hội tốt đẹp. Những con người ấy đi theo chuẩn mực luân thường đạo lí thì được gọi là các nho sĩ, nho sinh hay nhà nho. Nhân cách là gì? Nhân cách là tư cách, phẩm chất đạo đức làm người có trong mỗi chúng ta. Nhân cách ấy làm nên giá trị con người và những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Vậy nhân cách nhà Nho chân chính được hiểu như thế nào? Tìm hiểu chi tiết qua tác phẩm “Bài ca ngất ngưởng” được Nguyễn Công Trứ thể hiện nhân cách của mình.

Trước hết, nhân cách của một nhà Nho chân chính phải là người có “Chí làm trai”. Ngay từ những câu thơ mở đầu ông đã khẳng định: “Vũ trụ nội mạc phi phận sự” nghĩa là mọi việc trong vũ trụ chẳng có việc nào không phải phận sự của ta. Tư tưởng ấy rất nhiều lần được ông thể hiện trong các tác phẩm như “Gánh trung hiếu” với câu thơ “Vũ trụ chức phận nội”, hay trong bài “Luận kẻ sĩ” có câu “Vũ trụ giao ngô phận sự” tức đều có nghĩa là mọi việc trong vũ trụ là phận sự của ta. Ý nói đến trách nhiệm của kẻ sĩ đối với cuộc đời. Tư tưởng nhập thế cống hiến cho đời được tiếp nối truyền thống của cha ông như: Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm… đều là các nhà Nho chân chính từ xưa.

Thứ hai, nhân cách nhà Nho chân chính được biểu hiện là con người biết “tu thân” bởi theo quan niệm của nho gia có ba việc “tu thân, trị quốc, bình thiên hạ” mà người nho sĩ phải làm được. Trong “tu thân” thì việc học có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Học tập là theo đuổi con đường hoạn lộ công danh. Cũng như bao các nhà nho khác Nguyễn Công Trứ luôn cố gắng thi đỗ để ra làm quan cống hiến tài đức củ mình cho nước cho dân. Điều đó được minh chứng bằng việc ông đã từng giữ nhiều chức quan trong triều được tóm tắt lại bằng bốn câu thơ:

“Khi thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông

Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng

Lúc bình Tây, cờ đại tướng

Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên”.

Ông đã từng nắm giữ các vị trí quan trọng như Thủ khoa đứng đầu khoa thi Hương tức Giải nguyên, Tham tán đại thần chỉ huy quân sự ở vùng Tây Nam Bộ, Tổng đốc Đông đứng đầu một tỉnh hoặc vài ba tỉnh, Đại tướng tức là người cầm đầu đội quân bình Trấn Tây, phủ doãn đứng đầu ở kinh đô. Ngoài ra, ông còn có đóng góp khác như: khai hoang ở Kim Sơn và Tiền Hải, trị thủy ở đê sông Hồng; đấu tranh với tệ cường hào ở nông thôn… Tất cả công việc ấy đều được Nguyễn Công Trứ thực hiện với tinh thần trách nhiệm, có hiệu quả cao. Con đường công danh của ông thênh thang rộng mở cho đến khi ông được ‘Giải tố chi niên”. Ông tự tin khẳng định mình là người “Tài bộ” tức là kẻ có “tài năng lỗi lạc xuất chúng” trong vũ trụ. Theo quan niệm của nho giáo thì dù có tài giỏi đến đâu cũng cần phải khiêm tốn giữ mình nhưng Nguyễn Công Trứ đi ngược lại điều ấy tự tin, mạnh dạn đề cao vai trò của bản thân, thể hiện tài năng của mình phá vỡ bức tường thành của nho gia.

Nhà nho chân chính là những người coi thường danh lợi, không màng vinh hoa phú quý. Lập thân cốt chỉ để giúp vua giúp nước. Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng vậy khi triều chính rối ren bao kẻ tranh giành chức tước, hơn thua nhau nhưng họ lựa cho mình con đường cáo quan về ở ẩn. Nguyễn Công Trứ cũng vậy khi nói về các chức vị của mình ông chỉ dùng những từ cộc lộc, ngắn gọn chứng tỏ ông không phải là người coi trọng công danh, mà tất cả chỉ là phận sự của đấng nam nhi đứng trong vũ trụ. Nguyễn Công Trứ đã từng có một câu nói nổi tiếng: “Làm tổng đốc tôi không lấy làm vinh, làm lính tôi cũng không coi là nhục”. Dù đã giữ nhiều chức quan lớn trong triều nhưng đối với ông cũng thật nhẹ tênh, không có gì quan trọng. Chính điều ấy khiến ông thể hiện mình với cái tôi “Ngất ngưởng” trong toàn bài.

Nhân cách nhà nho chân chính của Nguyễn Công Trứ thật khác thường, khác người làm nên nét độc đáo riêng. Nếu như những nhà nho khác khi đã thi đỗ làm quan thì suốt một đời cố gắng cho hoạn lộ công danh nhưng với ông khi đã làm trọn bổn phận “bề tôi”, trọn phận sự của mình với đất nước ông cho phép mình được hưởng thú tiêu dao, hành lạc. Ông quan niệm “cuộc đời hành lạc chơi đâu là lãi đấy”, ông hành động ngất ngưởng xưa nay chưa từng có. Ngày xưa các quan lớn đi đâu thường đi bằng ngựa hoặc có kiệu rước nhưng Nguyễn Công Trứ lại ngất ngưởng trên con bò vàng đeo đạc ngựa: “Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng” là thế. Người đời có kẻ bảo ông ngông nghênh, lập dị, kẻ lại cho rằng ông cao ngạo coi thường dư luận nhưng đây là một lối chơi ngông khẳng định cái tôi của mình, cho thiên hạ thấy ông đã được “giải tố chi niên”, được tự do thoát khỏi “cái lồng” làm quan tù túng, giam hãm tâm hồn cá nhân tác giả.

Ông cáo quan về ở ẩn với cái cách sống khác, tận hưởng thú vui của mình. Nếu người ta đến chùa là để lễ Phật, cầu may cầu lộc cầu tài thì ông lại đến bày tiệc ca hát, có cả ả đào đàn trống theo sau:

“Kìa núi nọ phau phau mây trắng

Tay Kiếm tay cung mà nên dạng từ bi

Gót tiên đủng đỉnh một đôi dì

Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”

Chỉ với bốn câu thơ cho thấy nhân cách đối lập của nhà nho. Kiếm cung, binh đao mà lại từ bi được sao? Viếng chùa chay tịnh, thanh tục mà lại đem theo ả hầu? Những điều đó tưởng chừng là bất kính, vô lễ nhưng lại khiến Bụt cũng phải cười độ lượng trước ông quan già tính khí khác người.

Ông coi thường danh lợi, chẳng bận tâm đến được mất khen chê ở trên đời mà:

“Được mất dương dương người thái thượng

Khen chê phơi phới ngọn đông phong

Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng

Không Phật, không tiên, không vướng tục”

Còn người ông ở nơi trần tục mà tâm hồn thoát tục bay vút lên trên cao với âm điệu rộn rã của giọng ca, tiếng đàn. Đối với ông thú vui của bản thân mới là hạnh phúc đáng được quan tâm mọi sự cái được, cái mất, tiếng khen, tiếng chê không còn quan trọng, coi nó không tồn tại ở trên đời. Dù cho cuộc vui chơi của ông đang được thực hiện ở nơi cửa Phật, có cả đôi dì theo sau nhưng ông thấy mình vẫn thanh sạch và thoát tục không vướng bận Phật tiên. Những câu thơ trải dài nhịp điệu thênh thang, thanh thoát với cách ngắt nhịp 2/2/2/2 linh hoạt thể hiện được tâm hồn, tấm lòng mênh mông rộng mở, phóng khoáng theo kiểu khác thường của con người đã ngoài vòng cương tỏa.

Ông ngông nghênh tự đặt mình ngang hàng với những danh tài lỗi lạc bên Trung Hoa:

“Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú

Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung

Trong triều ai ngất ngưởng như ông”

Ông hành lạc vui chơi với đời nhưng vẫn tự tin khẳng định mình là nhà nho chân chính đã trọn vẹn đạo sơ chung. Ông sống, làm việc và cống hiến hết mình đồng thời cũng biết hưởng lạc, tận hưởng niềm vui mà cuộc đời ban tặng. Câu thơ cuối ông tự tin khẳng định trong triều không có ai được như ông.

Tuy là ngất ngưởng, là ngông nghênh nhưng ông vẫn luôn là một nhà nho chân chính với những phẩm chất tốt đẹp của mình. Cùng với suy nghĩ khác người và có tầm nhìn xa trông rộng như ông là Cao Bá Quát nhân cách nhà nho chân chính cũng được thể hiện trong tác phẩm “Sa hành đoản ca” Thánh Quát coi thường danh lợi, công danh trong bối cảnh thời đại phong kiến thối nát đang bước vào “cơn hấp hối”, ông coi những kẻ ham danh lợi xưa nay tất tả ngược xuôi bon chen cũng giống như người đời thấy quán rượu ngon tranh nhau đổ xô đến có mấy ai tỉnh táo để thoát ra được sự cám dỗ. Ông đi trên cát mà cứ nghĩ như mình đang bước trên con đường công danh bị sa lầy, khổ cực. Để rồi nhà nho ấy phải cất lên câu hỏi cuối cùng “Anh đứng làm chi trên bãi cát?” điều ấy đã lí giải phần nào nguyên nhân tại sao Cao Bá Quát đứng về phía nông dân khởi nghĩa chống lại triều đình phong kiến nhà Nguyễn.

Bài ca ngất ngưởng” thể hiện cái tôi ngất ngưởng độc đáo trong tính cách khác thường của Uy Viễn đại nhân. Ông không cột chặt mình vào lễ giáo nho gia, luôn tự do phóng khoáng với thú vui của bản thân. Những gương mặt tiêu biểu của nhân cách nhà nho chân chính như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát đã góp phần làm nên bộ mặt mới cho các nho sĩ lúc bấy giờ.

7. Nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngất ngưởng - mẫu 2

Nguyễn Công Trứ là người học rộng, tài cao, làm nhiều chức quan lớn trong triều đình. Nhưng cuộc đời ông cũng gặp rất nhiều khó khăn, trắc trở trên con đường hoạn lộ, khi đang làm chức quan lớn trong triều, ông đột ngột bị giáng chức, nhưng khí chất của một nhà nho chân chính thì không gì có thể lay chuyển được. Ông vẫn giữ lối sống “ngất ngưởng” khác thường. Vẻ đẹp của nhà nho chân chính đã được thể hiện trọn vẹn trong tác phẩm Bài ca ngất ngưởng của ông.

Nhân cách để nói về tư cách, phẩm chất đạo đức của con người, nhà nho là cách gọi những người tri thức xưa, theo lối Nho học. Như vậy, nhân cách của một nhà nho chân chính tức là phải biết “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Nhân cách nhà nho chân chính đối với Nguyễn Công Trứ được thể hiện khi ông còn làm quan trong triều, có đến khi ông cáo quan về hưu.

“Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc Bình Tây cờ đại tướng
Có khi về phủ doãn Thừa Thiên.”

Mở đầu tác phẩm ông đã khẳng định mọi việc trong trời đất này đều thuộc phận sự của chính tác giả. Và quả thật trong cuộc đời mình, ông thi đỗ đạt và giữ những chức vụ quan trọng trong triều đình, nhưng đồng thời ông cùng bộc lộ nỗi buồn vì bản thân bị “vào lồng” sống cuộc đời gò bó, chật hẹp. Các chức vụ ông được giữ đều là những chức vụ quan trọng: Tham tán, Tổng đốc đông, Bình Tây đại tướng, Phủ doãn Thừa Thiên. Bản thân Nguyễn Công Trứ là người có ý thức rất rõ ràng trách nhiệm của một kẻ sĩ với đời. Dù biết rõ ra làm quan sẽ mất đi sự tự do, nhưng ông vẫn sẵn sàng vào cái lồng đó, bởi ở đấy ông mới có cơ hội đem tài năng cống hiến cho đất nước, làm tròn chí làm trai của một nam nhi: “Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây/ Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn biển”. Nếu như các nhà Nho luôn sống theo lối khiêm nhường dù bản thân có tài giỏi đến đâu cũng không bao giờ bộc lộ, thì ngược lại ông Hi Văn lại sẵn sàng bộc lộ, dám thể hiện mình và khẳng định bản lĩnh cá nhân: “Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng”. Dường như sau lời thơ của ông ta còn thấy được thái độ coi thường của tác giả với những loại người bất tài nhưng hám danh lợi, sống cuộc đời luồn cúi, trong khuôn khổ. Nhưng con đường làm quan của ông cũng đầy thăng trầm, một cá nhân khi có những biểu hiện khác thường, cách tân so với đám đông thường sẽ bị mọi người ghét bỏ, tìm mọi cách hãm hại. Bởi vậy con đường hoạn lộ của ông mới thăng giáng bất thường như vậy. Có lẽ, lối sống “ngất ngưởng” của ông không phù hợp với khuôn khổ chật hẹp, gò bó của xã hội phong kiến.

Khi ông từ quan, chính là khoảnh khắc cái tôi ngất ngưởng có cơ hội được thể hiện rõ nhất:

Đô môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.

Nguyễn Công Trứ đã thực sự được sống cuộc đời tự do, tự tại, như con chim được tháo cũi sổ lồng. Những hành động lời nói của ông là biểu hiện của lối sống rất “ngông” đây cũng là nét phẩm chất làm nên cốt cách Nguyễn Công Trứ. Ông Hi Văn cưỡi bò vàng có đeo nhạc ngựa, ông làm biết bao con mắt dõi theo. Về hưu ông dựng nhà ở núi Đại, với mây trắng phau phau bao phủ bốn phía, như chốn bồng lai tiên cảnh. Đồng thời ông cũng thường xuyên đi viếng, thăm thú cảnh chùa nhưng lúc nào cũng dắt theo các cô hầu con. Điều này thật trái với quy tắc của nhà chùa. Nguyễn Công Trứ đã bất chấp mọi luật lệ, sống cuộc đời phá cách, ngang tàng, ngất ngưởng khiến cho bụt “cũng phải cười ông ngất ngưởng”.

Không chỉ vậy, ông còn bày tỏ quan điểm về lẽ sống: “Được mất dương dương người thái thượng/ Khen chê phơi phới ngọn đông phong”. Ông đưa ra quan niệm giữa được – mất trong cuộc đời này là chuyện bình thường và mỗi người cần bình thản đón nhận những biến đổi của cuộc sống. Đồng thời ông cùng khẳng định ông bỏ ngoài tai những lời khen – chê của thiên hạ đối với mình, thỏa thích vui chơi bất cứ những điều mình muốn: “Khi ca khi tửu, khi cắc, khi tùng/ Không Phật, không Tiên, không vướng tục”.

Khổ thơ cuối, như một lời tổng kết của Nguyễn Công Trứ: “Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú/ Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung/ Trong triều ai ngất ngưởng như ông”. Dù có thể ông không phải một danh tướng, danh nho nhưng trước sau lòng trung với vua ông vẫn vẹn đạo, đây chính là phẩm chất cao quý của nhà nho, thật đáng trân trọng. Ông đã dành cả cuộc đời cống hiến cho đất nước, làm trọn đạo vua tôi, ở đời ai có thể ngất ngưởng được như ông?

Qua bài Bài ca ngất ngưởng, ta có thể thấy rằng, lối sống ngất ngưởng của ông đều được xuất phát từ quan niệm Nho giáo đó là đề cao lòng trung quân, đây cũng chính là nhân cách của một nhà nho chân chính. Nhân cách ấy thật đặc biệt, khác lạ, ông không khuôn mình, trói buộc theo những tư tưởng Nho học, mà “ngất ngưởng” theo cách của riêng mình nhưng vẫn vẹn đạo với vua, với nước. Đây cũng chính là điểm nhấn tạo nên dấu ấn riêng biệt cho Nguyễn Công Trứ.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trong nhóm Lớp 11 thuộc chuyên mục Học tập của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
1 229
Bạn có thể tải về tập tin thích hợp cho bạn tại các liên kết dưới đây.
0 Bình luận
Sắp xếp theo