Bà lão lòa đọc hiểu (có đáp án)

Bà lão lòa là một tác phẩm của nhà văn Vũ Trọng Phụng về số phận ê chề, nhục nhã của một bà lão, người mà đã sống rất phúc đức và lương thiện khi còn trẻ. Tác phẩm là những mảnh ghép đối lập về các sống, cách cư xử của con người trong xã hội. Thông qua tác phẩm, tác giả đã ngầm phê phán sự bội bạc, bất nhân của người đời và tố cáo cái nghèo làm nhân cách con người dần thảm hại như nó. Sau đây là một số đề đọc hiểu văn bản Bà lão lòa sẽ giúp các em hiểu rõ hơn về nội dung, ý nghĩa cũng như nghệ thuật của truyện ngắn Bà lão lòa.

Đọc hiểu văn bản Bà lão lòa

1. Tóm tắt văn bản Bà lão lòa

Bà lão lòa của Vũ Trọng Phụng là một truyện ngắn với thông điệp phê phán sâu sắc về sự bất công của xã hội đối với những người yếu thế. Tác giả đã xây dựng một hình ảnh đầy thương tâm về bà lão lòa - một phụ nữ giàu có và tốt bụng nhưng lại phải chịu sự khắc nghiệt và quay lưng từ người thân và xã hội. Bà lão lòa từng là người hào phóng, sẵn sàng giúp đỡ mọi người xung quanh. Nhưng sau những rủi ro, bà trở nên nghèo khó và bị lãng quên. Con trai vô ơn bán ruộng để tránh trách nhiệm, còn cháu họ thì thể hiện sự thờ ơ và lạnh lùng. Qua câu chuyện của bà lão lòa, nhà văn đã phản ánh rõ sự bất công của cuộc sống cũng như lòng tham lam và sự nhẫn tâm, vô tình của con người. Chi tiết cuối cùng khi bà lão lòa bị bắt đi xin ăn và chết trong một đêm mưa bão là minh chứng cho việc tình thương và lòng biết ơn vẫn chẳng đáng giá trong một xã hội tàn ác. Tác giả đã tạo ra một bức tranh đen tối và thương tâm về một phụ nữ giàu có với đức tính tốt lành, nhưng sau cùng lại trở thành nạn nhân của sự thờ ơ, lạnh lùng và tàn nhẫn.

2. Văn bản Bà lão lòa

76 tuổi đầu, mỗi bữa thất thểu ăn một lưng cơm, bà lão lòa ở nhờ một đứa cháu họ, thật đã lắm phen cực nhục. Cháu bà, bác đánh giậm, với vợ, một chị mò cua bắt ốc, khốn thay, dưới nách hai đứa con mọn, cũng lắm phen nhăn nhó vì chẳng đủ ăn. Hai mươi năm về trước, bà lão lòa này còn là người có của trong làng. Con trai bà nó chơi, nó phá, nó bán ruộng, cầm nhà rồi nó bỏ bà nó đi, chẳng biết đi đâu, lòng mẹ đối với con tuy có giận mà vẫn có thương, bà khóc lóc một mình đến nỗi lòa cả mắt. Trong thời bà còn giàu có, ngoài những việc cúng tiền tô tượng đúc chuông, bà còn năng giúp đỡ kẻ nghèo khó; trong họ ngoài làng, nhiều người đã được nhờ bà mà đến khi bà gặp bước khốn cùng thì chẳng ai thương cả. Cũng vì xưa kia đã nhiều phen ngửa tay nhận lấy đồng tiền cứu giúp của bà, bác đánh giậm đành cắn răng, vuốt bụng, nhắm mắt nuôi cô trong lúc hoạn nạn. Nhưng vốn bị ma nghèo ám ảnh, mới nuôi cô được độ ba năm, bác đánh giậm đã thấy nản lòng. Cái cảnh túng bấn nó thường đẩy người ta vào chốn bùn nhơ, nó thường buộc người vào vòng tội lỗi, đối với bác đánh giậm, ác hơn, nó làm bác quên bỏ cả lương tâm. Quên hẳn cái ơn ngày trước, bác ta chỉ còn biết xót ruột khi bà lão lòa lò rò ngồi vào mâm, cướp cơm của vợ, của con nhà bác.

Buổi chiều hôm ấy... Trước túp lều tranh xiêu vẹo như chỉ còn chờ một trận gió to là đổ ụp xuống, cái sân đầy những bã mía, lá khô, một mâm cơm bát đàn đũa mộc trong để đĩa cá rô kho chuối với đĩa cá đen sịt đen sì, cầm trên tay mấy bát cơm ngô vàng ói, bà lão lòa, bác gái và hai đứa bé chỉ còn chờ bác trai rửa mặt rửa chân tay, ngồi vào là cùng cầm đũa. Đàn ruồi vù vù bay lung tung như đánh trận, hết bâu đầy vào mấy nốt mụn chốc trên đầu thắng cụ còn lại bay xuống đặt mình vào đĩa cá.

Bác trai, người mảnh khảnh, đen như củ súng, trấn răn, má hợp, mặt kèm nhèm, mặc cái áo vải và đã đến năm mười miếng mụn, đóng khổ, vừa ngồi xổm xuống đất cầm lấy bát cơm, vợ đã vội hỏi:

- Bố nó hôm nay kiếm được bao nhiêu tất cả...? Ấy tôi chỉ được có bốn sóc cua hai xu với một mẹt tôm riu năm xu là bảy dãy thôi. Gạo ăn bữa mại hết rồi […]

Bà lão lòa, ăn hết một lưng, tay lấy bẩy chìa bát ra toàn xin ít nữa, chưa kịp nói, bác gái đã quát:

- Hết rồi... Còn đâu nữa mà chìa mãi bát ra... Đến tôi đây quần quật suốt ngày, đã ốm cả xác mà cũng chỉ được có ba lưng thôi đấy… Bà không phải làm gì, ngồi nhà ăn ít cũng được.

Bà lão giật mình, đó người ra một lúc rồi đứng lên đi vào trong nhà, ngồi xuống bậu cửa, lấy cái tăm gài trên mái tóc xuống xỉa răng. trong trí nhớ của bà lại thấy hiện ra:

[....] Giữa chợ gần chỗ hàng gà, hàng cá, mùi hôi tanh xông lên nhức đầu, một đám đông xúm quanh một người đàn bà ăn mặc rách rưới, tay ôm đứa bé chừng bốn năm tháng.

- Thưa bà, cháu chỉ lấy có năm đồng thôi đấy ạ.

- Thôi, chả của đâu mà trả đến năm đồng. Trông gầy thế kia, biết rồi có sống được không? Ba đồng đấy, bằng lòng đi!...

- Rõ tội nghiệp chưa! Tôi mà có năm đồng thì tôi trả ngay..!

Bỗng có một bà ăn mặc lụa là, phúc hậu, len lỏi vào cất tiếng dõng dạc hỏi:

- Này nhà bác kia! Làm gì mà đến nỗi phải bán con đi thế?

- Thưa bà, nhà con phải bệnh, liệt giường liệt chiếu đã hơn nửa tháng nay, không có tiền thuốc thang gì thì chết mất. Con phải bán cháu đi để cứu lấy nhà con...

- Này..! Cứ ẵm cháu về, đừng có bán nó đi mà phải tội đấy! Năm đồng đây tôi xin giúp. Hãy cầm về mà liệu thuốc men cho bác trai. Người kia ngạc nhiên ngơ ngác nhìn lên, mãi chưa dám tin là thật, bàng hoàng như đang lúc chiêm bao… phục ngay xuống đất mà rưng rức khóc. Đám người tản mát, có kẻ thì thào: người đâu mà phúc đức tệ.

Ấy đó, đổi lại bao nhiêu điều thiện xưa kia ông trời cay nghiệt nay đều trả bà bằng hai con mắt lòa với một cảnh ăn gửi nằm nhở cực kỳ khổ sở. Cho rằng kiếp xưa tiền oan nghiệp chướng chỉ đây, nghĩ thương mình, thương đứa con bất hiếu, thương vợ chồng con cái bác đánh giậm, bà lão lòa thổn thức, trên hai gò má răn reo lại thấy mấy giọt nước mắt chảy ròng ròng. Bà lão gục đầu xuống gối tỉ tê khóc không ra tiếng, chỉ thấy sụt sùi hậm hực, khiến thằng cu con lò rò bò đến với bà, không hiểu ra sao bỗng cũng khóc thét lên. Bác gái chạy vào bực mình xỉa xói [...]

- Trời làm đói kém thế này, vợ chồng chúng tôi không thể nuôi bà được nữa đâu, bà phải liệu mà giúp đỡ chúng tôi mới được. Rồi từ mai trở đi, để thằng cháu nó giắt bà ra đầu đê, bà ngả nón dưới bóng cây gạo mà ngồi, thấy tiếng người chợ búa qua lại thì bà chìa rá ra xin, nếu có được mỗi ngày một vài xu cũng là đỡ được cái mồm bà rồi đấy...

Đã được nửa tháng nay, sáng nào cũng thấy thằng cu lớn dắt bà ra ngồi đầu đê rồi chiều đến lại dắt về... Chẳng may, nếu hôm nào về tay không thì vợ bác đánh giậm - cháu bà - lại nghiến răng xỉa xói thậm tệ:

- Hôm nay chẳng ai thí cho bà đồng nào..! Bà có biết thế là bà lại ăn phần cơm của thăng cu lớn đấy không? Từ mai, bà liệu mà kêu to lên mới được... Hay tại bà ngồi dưới bóng cây mát mà ngủ thiếp đi...? Bà liệu đấy…!

Bát cơm ngô điểm quả cà thiu, bà lão lòa trước khi và vào mồm đã chan đầy như canh bằng nước mắt.

Một ngày kia, trời tháng ba nắng gay gắt, bà lão lòa dưới gốc cây gạo, ngồi từ sáng đến quá trưa, bụng đã đói mềm mà chẳng thấy người khách đi đường nào vứt cho lấy một đồng trinh...bốn bề im lặng như tờ. Hai cánh tay khẳng khiu ôm lấy bụng mà nhăn nhó, cố quật lại với cái đói nó cào xé ruột gan, bà lão lòa thở hổn ha hổn hển.

Chợt có tiếng người giẫm lạo xạo trên đống lá khô, đi về phía mình bà lão vội chìa ngay nón:

- Lạy ông đi qua, lạy bà đi lại...! Cứu cho thân tôi lấy một miếng cơm...

- Tôi đây...! Phải ai đâu mà lạy với lục...? Bà được đồng nào chưa thì đưa đây cho tôi...

- Đã được đồng nào đâu...? Chẳng thấy ai đi qua đây cả... Mẹ nó có dắt tôi về thì dắt, tôi đói lắm rồi...!

- Bà đói à? Bà đói thì dễ tôi no à? Bà hãy ngồi đấy xem sao, buổi chợ chiều nay, rồi họ về qua đây nhiều... chốc nữa, tôi sẽ bảo thằng cu nó ra nó dắt....

Rồi bác ta thoăn thoắt bước đi...Bỗng trên trời mây kéo đen nghịt tối sầm hẳn lại, rồi nổi một cơn giông. Bác đánh giậm chạy vội ra sân vơ quần áo đem vào nhà, giục thằng cu lớn mau mau chạy ra để dắt bà về kẻo mưa to gió lớn. Nghe câu ấy, bác gái ngồi ôm con một góc giường cau mày ngẫm nghĩ: Thật vậy! Ba bốn năm nay, bác ta đã nhịn như nhịn cơm sống ấy rồi, quá lắm thì không chịu được. Mặc kệ bà ấy! Để bà ấy chết quách đi cho rãnh mắt.

[....] Không, không! Không thể thế được... Bà lão ấy chỉ là một bà cô... mà lạ là cô họ chồng, có lẽ nào báo hại mãi nhau.

Kìa! Thằng cu! Tao bảo thế nào…? Không bỏ bếp đấy mà ra dắt bà về à?

Bỗng bác gái đặt phịch con xuống giường, quặn mình nhăn nhó:

- Ôi trời đất ôi...! Ôi trời đất ôi…!

- Chết chửa… làm sao thế? Sao thế hở mẹ nó?

- Sao mà bụng tôi cứ thấy đau xoắn lại thế này! Ối trời đất ôi, đau thế này thì đến chết mất thôi

- Chết chửa! Kìa thằng cu.. ẵm em dỗ đi.. dỗ đi cho nó nín rồi dậy đấm cho u mày một chốc… để tao đi nướng hòn gạch mà chườm bụng vậy… Rõ khổ chửa?

[…]Tiếng sấm động ù ù, mỗi khi chớp nhoảng chớp nhoáng nó lại nom rõ thấy giữa những vũng bong bóng phập phồng, những dây nước ròng ròng từ mái tranh rỏ xuống. Chợt nghĩ đến bà nó ở ngoài đầu đê không biết ra sao, quay lại nhìn thì bố nó vẫn lúi húi dọn cơm, nét mặt thản nhiên như không, thằng cu phụng phịu nét mặt, hỏi gắt:

- Kìa thày! Thế bà ở ngoài đầu đê,

Nó chưa nói hết cầu, bố nó đã như bị một luồng điện giật nảy người ra, mắt tròn xoe, mãi mới nói được.

- Chết chửa! Biết làm thế nào bây giờ. U mày đau bụng, kêu rồi rít lên, làm tao cũng quên bẵng đi mất…

- Thế thì chắc bà chết rét mất rồi... Còn gì nữa…

Nghĩ đến cái chết của bà lão lòa ở ngoài đầu đề - tình cháu đối với cô – bác đánh giậm rùng mình, rợn tóc gáy nhưng bác tự dối lương tâm, bác đáp lại con:

- Ôi già... chả việc gì phải sợ.. dễ bà lại không biết lần mò đến một cải quán nào đẩy mà ẩn hay sao...?

Rồi bác gọi vợ con dậy ăn cơm. Bữa ấy bác gái tuy kêu đau bụng mà cũng cố ăn được đến bốn năm lưng, mặc dầu hai đứa bé không thấy bà nó đâu, thường nhắc đi nhắc lại. Trời vẫn mưa, lúc to lúc nhỏ, rả rích suốt đêm.

Sáng hôm sau, ánh sáng mặt trời xé những đám mây bay tan tác, chiều xuống trông lại càng tươi càng đẹp. [...]

Bác đánh giậm hôm ấy dậy rất sớm, đóng khổ, cài rổ, vác vợt ra đi... Mon men ở dưới chân để, lội lõm bom qua mấy vũng bùn lầy xa xa, phía dưới cây gạo - chỗ bà lão lòa vẫn ngồi, bác thấy giữa ruộng, trong một đám mạ xanh tươi tốt, một đàn quạ, con bay con liệng, kêu sào sạc rồi đậu xúm xít vào một chỗ. Bụng tưởng hẳn là một tổ rắn chi đây, bác ta vác ngay một vợt tre lên mặt rồi phăm phăm chạy lại. Đàn quạ vùng bay lên rồi tản mác đi... Chao ôi! Bước vừa đến nơi thì bỗng bác ta rú lên một tiếng, trợn mắt rít răng mà ngã phục xuống.[…]

3. Trắc nghiệm Bà lão lòa

Câu 1: Những dấu hiệu KHÔNG cho biết văn bản trên là truyện ngắn?

A. Nhân vật ít

B. Dung lượng ngắn (gần 4 trang)

C. Sự việc diễn ra chủ yếu ở một gia đình

D. Phản ánh xã hội rộng lớn

Câu 2: Dòng nào nói lên thông tin từ nhan đề của tác phẩm?

A. Đề tài

B. Nhân vật chính

C. Chủ đề

D. Bức thông điệp

Câu 3: Nhân vật chính của truyện ngắn trên là?

A. Bà lão lòa

B. Hai mẹ con bà lão lòa

C. Bà lão lòa, hai vợ chồng người cháu họ

D. Hai bố con người cháu họ

Câu 4: Nội dung của đoạn mở đầu văn bản là?

A. Cực nhục và kí ức

B. Bà lão chết trong mưa gió

C. Gia cảnh bà lão lòa

D. Bà lão lòa phải đi ăn xin

Câu 5: Nội dung nào sau đây nén nhiều sự việc (hàm súc) có khả năng phản ánh số phận của nhân vật như tiểu thuyết?

A. Bà lão lòa phải đi ăn xin

B. Gia cảnh bà lão lòa

C. Bà lão chết trong mưa gió

D. Cực nhục và kí ức

Câu 6: Đoạn có chứa nội dung Cực nhục và kí ức sử dụng thủ pháp nghệ thuật chính nào? Để làm gì?

A. Đối thoại để làm nổi bật bản chất của người cháu dâu

B. Tái hiện hồi ức để làm nổi bật tấm lòng nhân hậu của bà lão

C. Đối lập tương phản để khắc họa nỗi cực nhục hiện tại của bà lão

D. Đối thoại để làm nổi bật tình cảnh cơ cực của vợ chồng người cháu họ

Câu 7: Các sự việc trong tác phẩm được sắp xếp theo trình tự nào?

A. Thời gian

B. Không gian

C. Hiện thực, hồi ức đan xen

D. Tất cả các ý trên

Câu 8: Dòng nào nói lên cảm hứng bao trùm toàn tác phẩm?

A. Phê phán người cháu dâu tệ bạc

B. Xót thương cho bao kiếp người cơ cực

C. Ngợi ca tấm lòng cậu bé (con trai người cháu)

D. Lên án người con trai của bà lão lòa

Câu 9: Phân tích lời nói, hành động người cháu họ của bà lão lòa khi vợ kêu đau bụng, khi bà lão lòa ở ngoài đê trong mưa cho đến sáng hôm sau để thấy được bản chất con người này.

- Lời nói, hành động của người cháu:

+ Kìa! Thằng cu! Tao bảo thế nào…? Không bỏ bếp đấy mà ra dắt bà về à? Ông lại đét cho bây giờ.

+ Để tao đi nướng hòn gạch mà chườm bụng vậy. Rõ khổ chửa?

+ Chết chửa! Biết làm thế nào bây giờ? U mày đau bụng, kêu rối rít lên, làm tao cũng quên bẵng đi mất…

+ Nghĩ đến cái chết của bà lão lòa ở ngoài đầu đê- tình cháu đối với cô- bác đánh giậm rùng mình, rợn tóc gáy.

+ Dễ bà lại không biết lần mò đến một cái quán nào đấy mà ẩn hay sao…?

+ Chao ôi! Bước vừa đến nơi thì bỗng bác ta rú lên một tiếng, trợn mắt rít răng mà ngã phục xuống…

- Phân tích: Tác giả khắc họa nhân vật qua lời thoại, hành động, suy nghĩ…

→ Làm rõ con người chân thật, mộc mạc, thương người: lo lắng cho vợ, cho bà cô họ; nhiều lần nhân vật này phải tự trấn an mình, tự lảng đi… rất lo lắng cho bà cô già mù lòa đang ở ngoài đê, dưới mưa

→ Tình thương bị nghèo đói che khuất… cái đói, nghèo chưa thể bào mòn nhân tâm của người nông dân

Câu 10: Em hãy viết tiếp câu chuyện về 3 nhân vật trong gia đình người cháu họ sau khi người chồng rú lên một tiếng, trợn mắt rít răng mà ngã phục xuống ngoài cánh đồng (khoảng 5-10 câu).

Học sinh tự làm (gợi ý: phát triển sự việc phù hợp với tính cách nhân vật hoặc có sự chuyển biến tính cách… Cần hướng về tính nhân văn).

4. Đọc hiểu tác phẩm Bà lão lòa

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản.

Phương thức biểu đạt chính của văn bản: Tự sự

Câu 2. Theo tác giả, bà lão lòa phản ứng như thế nào trước lời lẽ cay nghiệt của người cháu dâu khi bà chìa bát ra định xin cơm?

Bà lão: – giật mình, đớ người ra một lúc rồi đứng lên đi vào trong nhà, – ngồi xuống bậu cửa, lấy cái tăm gài trên mái tóc xuống xỉa răng, – nhớ lại quá khứ, – thổn thức khóc…

Câu 3: Tác giả viết “Cái cảnh túng bấn nó thường đẩy người ta vào chốn bùn nhơ, nó thường buộc người vào vòng tội lỗi, đối với bác đánh giậm, ác hơn, nó làm bác quên bỏ cả lương tâm” nhằm mục đích gì?

Cảnh báo: nghèo khổ, túng quẫn sẽ bào mòn nhân cách con người.

Câu 4: Mục đích của việc nhà văn nhắc lại những hành động giúp đỡ người nghèo của bà lão?

– Cho thấy bà lão vốn là người nhân hậu, biết yêu thương, giúp đỡ người nghèo khó

– Thể hiện nỗi thống khổ của con người trước những biến động của cuộc đời.

– Ngầm lên án sự thờ ơ của người đời trước tình cảnh cơ cực của bà lão già nua, mù lòa

Câu 5. Qua truyện ngắn trên, anh/chị rút ra một bài học có ý nghĩa nhất đối với cuộc sống hiện nay và giải thích lí do?

Học sinh nêu một bài học có ý nghĩa nhất đối với cuộc sống hiện nay và giải thích lí do.

Ví dụ:

– Cần sống yêu thương, sẻ chia, giúp đỡ lẫn nhau, nhất là với những người bất hạnh

– Luôn có ý thức đấu tranh loại trừ cái xấu, cái ác trong chính con người mình như sự vô cảm, ích kỉ …

(Học sinh có thể nêu bài học khác nhưng phù hợp với nhân vật, tư tưởng trong tác phẩm)

Trên đây là toàn bộ nội dung bộ đề đọc hiểu văn bản Bà lão lòa của nhà văn Vũ Trọng Phụng.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trong nhóm Lớp 10 thuộc chuyên mục Học tập của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
1 797
0 Bình luận
Sắp xếp theo