Tưởng tượng gặp gỡ và trò chuyện với ông Hai (6 mẫu)
Tưởng tượng gặp gỡ và trò chuyện với nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng
- 1. Dàn ý tưởng tượng gặp gỡ và trò chuyện với ông Hai ngắn gọn
- 2. Dàn ý tưởng tượng gặp gỡ và trò chuyện với ông Hai chi tiết
- 3. Sơ đồ tư duy Tưởng tượng gặp gỡ và trò chuyện với ông Hai
- 4. Tưởng tượng em được gặp gỡ nhân vật ông Hai trong truyện ngắn "Làng" của nhà văn Kim Lân và trò chuyện cùng ông về những ngày tháng đi tản cư. Hãy kể lại cuộc gặp gỡ đó
- 5. Kể lại cuộc gặp gỡ với nhân vật ông hai trong truyện ngắn Làng
- 6. Tưởng tượng gặp gỡ và trò chuyện với ông Hai ngắn gọn
- 7. Tưởng tượng gặp gỡ và trò chuyện với ông Hai chi tiết
- 8. Tưởng tượng gặp gỡ với ông Hai trong tác phẩm Làng
- 9. Tưởng tượng bản thân gặp gỡ và trò chuyện với ông Hai
Tưởng tượng gặp gỡ và trò chuyện với ông Hai - Tưởng tượng gặp 1 nhân vật trong tác phẩm văn học là một dạng đề bài thường gặp trong chương trình Ngữ văn lớp 9. Ở bài viết trước Hoatieu đã chia sẻ đến các bạn đọc bài văn mẫu tưởng tượng gặp gỡ và trò chuyện với bé Thu. Trong bài viết này chúng tôi xin chia sẻ mẫu bài văn tưởng tượng và kể lại cuộc gặp gỡ trò chuyện với ông Hai giúp các bạn học sinh có thêm ý tưởng khi làm dạng bài viết này.
1. Dàn ý tưởng tượng gặp gỡ và trò chuyện với ông Hai ngắn gọn
1. Mở bài: Tạo dựng tình huống gặp gỡ giữa bản thân với ông Hai. Thời điểm, thời gian, dẫn dắt hợp lý.
2. Thân bài:
Nói được hoàn cảnh khiến nhân vật ông Hai phải tản cư. Kể về niềm kiêu hãnh, tự hào, nỗi nhớ quê hương da diết và sự quan tâm tới kháng chiến của nhân vật ông Hai
Nêu diễn biến tâm lý nhân vật ông Hai khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, thấy được tình yêu làng quê hòa quyện với tình yêu đất nước, Tổ quốc
Từ sự bàng hoàng, sững sờ, tới cảm giác xấu hổ, lo lắng, buồn, chán nản
Sự bế tắc, tuyệt vọng của ông Hai, sự đấu tranh nội tâm gay gắt giữa việc lựa chọn làng, hay lựa chọn kháng chiến, giữa đi nơi khác hay trở về làng.
Lời tâm sự của ông Hai với đứa con thể hiện tấm lòng chung thủy, son sắc của ông Hai với cách mạng và kháng chiến, tình yêu nước, yêu Tổ Quốc rộng lớn bao trùm lên tình yêu quê hương của ông Hai
3. Kết bài
Ấn tượng, cảm xúc của em sau cuộc trò chuyện đó.
2. Dàn ý tưởng tượng gặp gỡ và trò chuyện với ông Hai chi tiết
I. Mở bài:
- Tạo tình huống gặp gỡ với ông Hai. Nêu về thời gian, không gian, địa điểm, nhân vật một cách hợp lí, hấp dẫn.
II. Thân bài:
- Nói đến hoàn cảnh khiến ông Hai cùng gia đình phải đi tản cư; Kể về niềm hãnh diện, tự hào, nỗi nhớ quê hương da diết và sự quan tâm đến cuộc kháng chiến của ông Hai khi ông ở nơi tản cư.
- Nêu diễn biến tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng Chợ Dầu có người theo giặc làm Việt gian, từ đó thấy rõ tình yêu làng sâu sắc hòa quyện thống nhất với tình yêu nước, yêu Tổ Quốc, yêu cách mạng của ông Hai:
- Từ sự bàng hoàng, sững sờ khi mới nghe tin ấy đến cảm giác xấu hổ, lo lắng, buồn bã, chán nản rồi nó trở thành một nỗi ám ảnh thường xuyên nặng nề khiến ông Hai vô cùng đau đớn, khổ sở.
- Sau đó là tình thế bế tắc, tuyệt vọng của ông khi ông và gia đình bị đuổi đi, sự đấu tranh nội tâm của ông giữa đi nơi khác hay trở về làng chợ Dầu khiến ông phải đau đầu. Nhưng ông quyết tâm không trở về làng, vì trở về là chống lại cách mạng, chống lại Cụ Hồ. Qua đó thấy rõ được tình yêu nước, yêu Tổ Quốc rộng lớn, bao trùm lên tình yêu quê hương của ông Hai.
- Lời tâm sự của ông Hai với đứa con trai út thể hiện tấm lòng thủy chung, son sắc của ông với cách mạng, với kháng chiến.
- Kể về tâm trạng vui sướng, vô bờ bến của ông Hai khi tin làng theo giặc được đính chính.
III. Kết bài:
Ấn tượng, cảm xúc và suy nghĩ của bản thân em sau cuộc trò chuyện ấy.
3. Sơ đồ tư duy Tưởng tượng gặp gỡ và trò chuyện với ông Hai
Cách làm bài văn Tưởng tượng gặp gỡ và trò chuyện với ông Hai
- Về nội dung các phần bài viết
1. Mở bài: Cần tạo tình huống gặp gỡ với nhân vật ông Hai (thời gian, không gian, địa điểm, nhân vật.) một cách hợp lí, hấp dẫn.
2. Thân bài
- Mở đầu câu chuyện là cuộc trò chuyện về hoàn cảnh khiến ông Hai phải đi tản cư; niềm hãnh diện, tự hào, nỗi nhớ làng da diết và sự quan tâm đến cuộc kháng chiến của ông Hai khi ở nơi tản cư.
- Nêu bật diễn biến tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc từ đó bộc lộ rõ tình yêu làng sâu sắc hòa quyện thống nhất với tình yêu nước của ông Hai:
+ Từ sự bàng hoàng sững sờ khi mới nghe tin đến cảm giác xấu hổ, lo lắng, buồn bã, chán nản rồi trở thành nỗi ám ảnh thường xuyên nặng nề khiến ông Hai vô cùng đau đớn khổ sở.
+ Tiếp theo là tình thế bế tắc, tuyệt vọng của ông khi bị đuổi đi, sự đấu tranh nội tâm của ông giữa đi nơi khác hay trở về làng qua đó làm rõ được tình yêu nước rộng lớn, bao trùm lên tình yêu làng quê của ông Hai.
- Lời tâm sự của ông Hai với đứa con út thể hiện tấm lòng thủy chung son sát của ông với cách mạng, với kháng chiến.
- Trò chuyện để thấy được tâm trạng vui sướng vô bờ của ông Hai khi tin làng theo giặc được cải chính.
Chú ý: Hình thức của bài văn là một cuộc trò chuyện nên lời đối thoại phải tự nhiên, linh hoạt, không gượng ép; văn phong trong sáng, giàu tính biểu cảm; sử dụng kết hợp các hình thức đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm để khắc họa rõ nét diễn biến tâm trạng của nhân vật...
3. Kết bài: Học sinh cần nêu ấn tượng, cảm xúc và suy nghĩ của bản thân sau cuộc trò chuyện với ông Hai.
- Về hình thức: Viết một bài văn với đủ ba phần, các ý trong thân bài sắp xếp hợp lí, chữ viết rõ ràng, không sai lỗi chính tả.
4. Tưởng tượng em được gặp gỡ nhân vật ông Hai trong truyện ngắn "Làng" của nhà văn Kim Lân và trò chuyện cùng ông về những ngày tháng đi tản cư. Hãy kể lại cuộc gặp gỡ đó
Văn học thời kì trước và sau cách mạng tháng Tám năm 1945 gần như đều viết về hình tượng người nông dân chất phác, có lòng tự trọng, lòng yêu nước và phẩm chất tốt đẹp. Bên cạnh những nhân vật tha hóa, rơi vào cảnh khốn cùng do chế độ xã hội "một cổ hai tròng" như trong các tác phẩm của nhà văn Nam Cao, điển hình là Chí Phèo, thì đâu đó vẫn luôn tồn tại những người nông dân có phẩm chất cao đẹp, có lòng tự tôn và lòng yêu nước sâu sắc như Lão Hạc, chị Dậu, A Phủ, ông Hai... Mỗi một nhân vật với mảnh đời khác nhau, trong những hoàn cảnh khốn khó khác nhau đều để lại trong tâm trí tôi cũng như bạn đọc ấn tượng sâu sắc.
Đặc biệt, nhân vật ông Hai trong truyện ngắn "Làng" của nhà văn Kim Lân luôn ám ảnh tâm trí tôi mỗi khi nghĩ đến, ngay cả trong giấc mơ chập chờn. Trong giấc mơ ấy, tôi như đang thấy bản thân lạc giữa một ngôi làng nhỏ mang đậm nhét đặc trưng của miền trung du. Ở đây, những căn nhà tranh vách đất cách nhau ca một khu vườn, những con đường đất không ánh đèn, không tiếng còi xe, tất cả đều là hình ảnh bình yên của vùng làng quê nghèo vào những năm 40-50 của thế kỷ trước. Trong hoàn cảnh xa lạ, mơ hồ mà chân thực, tôi bước đi trên con đường nhỏ, nhìn vài người đứng dưới gốc đa đầu làng trò chuyện râm ran. Nơi xa xa có cánh đồng lúa rộng lớn, đàn cò trắng thảnh thơi bay lượn, bầu không trí trầm tĩnh mà chúng ta khó lòng thấy được ở những vùng quê nông thôn mới khang trang, cũng không thể ngờ đây là làng quê Việt Nam trong thời chiến.
Tôi lang thang hết đoạn đường dài, đến khi chân mỏi định tìm một nơi nghỉ tạm. Bất ngờ, tôi nhìn thấy một ông cụ khoảng chừng sáu mươi tuổi, dáng người mảnh khảnh ngồi trong quán nước vừa hút thuốc lào vừa uống nước chè, miệng chóp chép ra điều đắc ý lắm. Trong sự ngờ ngợ, tôi nghĩ đến dáng vẻ ông Hai mà nhà văn Kim Lân đã miêu tả trong sách. Chẳng lẽ tôi đã gặp ông Hai trong giấc mơ? Nghĩ vậy, tôi mạnh dạn bước tới chỗ quán nước, hỏi ông:
- Cháu chào ông ạ! Ông có phải ông Hai người làng chợ Dầu không ạ?
Nghe tôi nhắc tới làng chợ Dầu, ông liền ngẩng mặt nhìn tôi, hai mắt sáng rỡ:
- Đúng rồi cháu, ông là người làng chợ Dầu. Cháu là ai? Cũng là người làng tản cư lên ư? Sao ông lại chưa thấy cháu bao giờ?
Bấy giờ tôi mới vỡ lẽ, ông đúng là ông Hai thật. Nhưng nơi này không phải làng của ông mà là nơi tản cư. Tôi lễ phép đáp lại câu hỏi của ông:
- Dạ cháu từ nơi khác đến đây. Cháu có nghe nói đến làng chợ Dầu nên muốn hỏi ông vài điều ạ.
- Cháu ngồi xuống đây, uống miếng nước rồi ông cháu mình nói chuyện.- Nghe nhắc tới làng của mình, ông Hai phấn khởi ra mặt, ông rót cho tôi một chén nước rồi bảo tôi ngồi xuống.
Tôi không biết bắt đầu câu chuyện từ đâu, đành hỏi ông làng Chợ Dầu của ông cách đây bao xa, làng có giống như nơi này không. Ông như chỉ chờ có vậy, nói một hơi dài không nghỉ, ông khoe:
- Làng ông có phòng thong tin tuyên truyền sang sủa rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh cao bằng ngọn tre, chiều chiều phát thanh cả làng đều nghe thấy. Làng ông nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh. Đường trong làng toàn lát đá xanh, trời mưa trời gió tha hồ đi khắp đầu làng cuối xóm, bùn không hề dính tới gót chân. Tháng năm ngày mười phơi rơm, phơi thóc thì tốt thượng hạng, không có lấy một hạt thóc đất. – Mắt ông sang lên, nói rành mạch không sai một chữ, giống như ông đã ghi nhớ hết, chỉ cần có ai hỏi là ông có thể nói ngay.
Dừng một lát, như nhớ ra điều gì đó, ông lại nói:
- Chết! Còn cái dinh cơ cụ thượng làng ông. Có lăm lắm là của. Vườn hoa cây cảnh nom như động ấy. Có cái tượng đá ông Hoàng Thạch Công đánh rơi giày, bát tiên quá hải bằng người sứ. Cả cái cọc sắt cắm vào cái bầu rượu có đắp 4 con giơi quét vôi vàng mãi tít trên ngọn sinh phần là cột thu lôi, thu cả sấm sét vào. Khiếp lắm!
Ông mải mê khoe mãi, khoe hết mọi thứ trong làng ông. Nhân lúc ông dừng lại uống nước, tôi liền hỏi:
- Làng tốt như vậy, sao ông lại tản cư đến đây ạ?
Không hào hứng như trước đó, khuôn mặt ông như trầm hẳn xuống, ông không trả lời tôi ngay mà hướng ánh mắt ra xa, chậm rãi nói:
- Kháng chiến nổ ra, ông cũng không muốn xa làng, muốn ở lại cùng anh em bộ đội và dân quân khàng chiến bảo vệ làng. Nhưng sau cùng, ông vẫn phải mang theo gia đình đi tản cư. Ông nhớ làng, nhớ cả những ngày tháng cùng anh em đào đường đắp ụ, mệt nhưng mà vui lắm… Nhớ làng nên ngày nào ông cũng ra phòng thong tin để nghe tin tức kháng chiến. Ông vừa mới từ nơi đó ra đây ngồi thì gặp cháu.
Cảm nhận được nỗi nhớ nặng trĩu qua giọng nói của ông, tôi vừa thương vừa khâm phục tình yêu làng của ông. Để ông không quá đau lòng khi nhớ làng mà vẫn chưa thể trở về, tôi vội hỏi:
- Hẳn là có nhiều tin tức thắng trận từ làng lắm đúng không ạ?
- Có chứ cháu, tin quân ta giết địch, rồi tin thằng bé nhỏ tuổi dám bơi ra giữa hồ cắm cờ của ta. Nghe mà ruột gan ông cứ múa hết cả lên. – Nét mặt ông lại rạng rỡ hẳn lên. Có lẽ tình yêu làng tha thiết đã hun đúc lên tình yêu nước mãnh liệt trong ông.
Tôi thấy ông lại lặng người đi, không hiểu vì sao cũng không dám lên tiếng hỏi. Một lát sau đó, ông lại tiếp tục kể:
- Cách đây ít lâu, ông nghe tin dữ từ làng Chợ Dầu. Hôm ấy, ông gặp tốp người tản cư từ Gia Lâm, người ta nói cả làng Chợ Dầu Việt gian theo Tây. Cảm giác đó vẫn còn nguyên, cổ họng nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lặng đi, tưởng như không thể thở được. Ông cố hỏi lại nhưng người ta vẫn khăng khăng đó là sự thật. Sau đó, người ta nói gì ông cũng không nghe rõ, cúi mặt mà đi về.
Ông Hai yêu làng như vậy, ngày nào cũng chờ mong tin tức về làng, đến khi nghe tin lại là tin như thế. Chắc hẳn khi ấy, ông đau đớn bàng hoàng lắm. Tôi chỉ nghĩ thầm trong lòng mà không dám ngắt lời ông. Dù là chuyện đã qua và không phải sự thật nhưng nỗi đau khi ấy nhớ lại vẫn làm ông nghẹn ngào:
- Khoảng thời gian đó rất khó khăn. Ông không tin người làng lại đổ đốn ra đến vậy. Nhưng không có lửa làm sao có khói? Nhìn lũ con ông lại càng đau đớn hơn, nếu là thật chẳng phải chúng là trẻ con làng Việt gian sao? Rồi ông lại hay tin người làng Chợ Dầu đi đến đâu là đuổi đến đó. Gia đình ông cũng là người làng Chợ Dầu, lại đang tản cư. Mụ chủ nhà hôm ấy cũng tới đuổi khéo. Ông bế tắc không biết làm thế nào cho phải…
- Ông có nghĩ sẽ quay về làng không ạ? – Tôi hỏi
Ông Hai lại nhấp thêm một ngụm chè:
- Suy nghĩ ấy có thoáng qua, nhưng làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù. Thằng con út ông ấy vậy mà thông minh lắm, những ngày tin làng theo giặc đồn ra, xấu hổ nhục nhã ông nào dám đi đâu. Ở nhà, ông thủ thỉ nói chuyện với nó, thằng bé muốn về làng nhưng nó ủng hộ cụ Hồ. Tâm bố con ông là vậy, bên trên cụ Hồ, an hem soi xét cho bố con ông.
Đoạn, nét mặt ông vui tươi hẳn lên:
- Nhưng may mắn cháu ạ, mấy hôm sau, tin làng Chợ Dầu theo Tây được cải chính. Bọn Tây nó đốt nhà ông, ông chủ tịch làng ông lên tận nơi cải chính. Ông vui quá cháu ạ.
Tôi thấy nước mắt ông tràn qua kẽ mắt, thầm cảm động lòng yêu làng của ông. Dù ông nói phải thù vì làng theo Tây mất rồi, nhưng ông vẫn chưa từng thôi hy vọng tin tức kia là giả, làng của ông vẫn là làng kháng chiến. Tôi định hỏi tiếp thì nghe thấy tiếng loa phát thanh ở xa, ông Hai đứng dậy rồi chạy đi. Tôi gọi với theo thì chỉ nghe tiếng ông vọng lại:
- Chắc là có tin ta thắng trận, ông phải ra xem mới được…
Tôi choàng tỉnh. Nhìn bầu trời đã bắt đầu hửng sáng ngoài cửa sổ, tôi mới hay mình ngủ quên trên bàn học, quyển sách giáo khoa mở đúng truyện ngắn “Làng”. Dù chỉ là một giấc mơ nhưng tôi vẫn cảm nhận được tình cảm yêu làng, yêu nước đáng quý của ông Hai. Ông chính là đại diện cho tầng lớp nông dân yêu nước, kháng chiến giành độc lập dân tộc, đáng trân trọng, ngợi ca.
5. Kể lại cuộc gặp gỡ với nhân vật ông hai trong truyện ngắn Làng
Truyện Làng của Kim Lân là một truyện ngắn đặc sắc về chủ đề tình yêu quê hương đất nước của người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Nhân vật chính của tác phẩm - ông Hai – chẳng những là một người nông dân chất phác, đôn hậu như bao người nông dân khác mà còn là một người có tình yêu làng quê, đất nước thật đặc biệt. Hình ảnh người nông dân chân lấm tay bùn ấy lại mang trong mình một thứ tình cảm cao quý đáng trân trọng đã làm tôi luôn tò mò mãi, trăn trở mãi từ khi đọc xong truyện Làng. Tôi mong muốn được thấy dáng hình, giọng nói của ông, đặc biệt hơn tôi muốn được nghe chính ông kể về sự việc làng ông theo Tây. Và tôi cũng không ngờ rằng cơ hội ấy sẽ đến nhanh thế, đó là một lần tôi ngồi nghe ông tôi kể lại truyện ngắn Làng dưới mái hiên nhà, nơi ánh trăng đang sáng tỏ. Ánh trăng hòa quyện cùng lời kể trầm lắng của ông tôi như đưa tôi vào một không gian khác. Nơi ấy, tôi đã gặp được Ông Hai - nhân vật chính trong truyện!
Trong không gian mờ ảo, như có ánh trăng rọi xuống, tôi đã đến gặp ông Hai. Ông đang ngồi trước mái hiên nhà và nhâm nhi chén chè. Thấy tôi xuất hiện trong sân nhà mình, ông ngạc nhiên lắm. Ông hỏi thăm tôi đến từ đâu để ông dẫn về vì ông nghĩ rằng tôi bị lạc. Tuy nhiên khi tôi nói không nhớ, ông thở dài và giữ tôi lại. Ông và tôi cùng ngồi ngắm vầng trăng và uống chè. Tôi bắt đầu bắt chuyện với ông. Dù biết rõ về ông, tôi vẫn hỏi:
- Ông là người dân ở đây ạ?
Ông Hai nhìn tôi một lát rồi bật cười:
- Không, ông không phải.. Ông là người làng Chợ Dầu, chỉ là tản cư lên trên này thôi.
Khi nhắc đến cái tên làng Chợ Dầu, tôi thấy rõ mắt ông như sáng lên, và cả người như chìm vào cảm giác hạnh phúc và nhớ nhung. Ông khoe với tôi cảnh vật ở trong làng Chợ Dầu, nào là có cái phòng thông tin rộng nhất vùng, cái chòi phát thanh cao tít bằng ngọn tre, chiều chiều tiếng loa gọi vang vọng khắp cả một khoảng trời, không ai là không nghe thấy. Rồi thì nhà ngói san sát nhau, sầm uất như tỉnh. Đường trong làng toàn lát đá xanh, trời mưa trời gió tha hồ đi khắp đầu làng cuối xóm, bùn không dính đến gót chân. Tháng năm ngày mười phơi rơm, phơi thóc thì tốt thượng hạng, không có lấy một hạt thóc đất. Chắc là Ông hai tự hào về cái làng của ông lắm các bạn ạ. Vì ông vẫn có tính hay khoe làng như thế xưa nay. Rồi giọng ông chợt chùng xuống đầy tức giận và bất lực. Thế mà chỉ vì cái bọn giặc đáng khinh kia mà cả làng chợ Dầu đã bị tàn phá, dân trong làng thì phải đi tản cư hết. Thế là từ đó ông không khoe về cảnh vật trong làng với người dân ở đây nữa, ông chuyển sang nói về cảnh ông làm việc cùng anh em trong làng khi chuẩn bị cho cách mạng, nào là đào đường đắp ụ, xẻ hào, khuân đá.. rồi cả đào đường hầm bí mật.
- Chà, khi ấy sao mà vui thế. Ông thấy mình như trẻ ra, bây giờ thì phải hì hục vỡ đất rồi trồng trọt vài trăm cây, không được làm cùng anh em, chỉ có một mình nên ông phải làm cố, lúc nào hai vai ông cũng mỏi nhừ vì mệt.
Ông vừa nói vừa dùng tay bóp hai bả vai, tôi thấy thương cho ông nên tôi vội đến đấm bóp giúp ông. Ông nhìn tôi cười rồi thở dài:
- Chao ôi, lão già này nhớ làng, nhớ cái làng ấy quá, không biết khi nào mới được trở về.
Rồi ông Hai lại kể về những thói quen hằng ngày của ông sau khi tản cư cùng gia đình lên vùng này. Ngày nào cũng vậy, sau khi làm xong việc của mình. Trồng trọt và vỡ đất, ông lại đi đến phòng thông tin nghe đọc báo. Trên đường đi mà gặp ai quen ấy, ông lúc nào cũng níu lại mà bảo: Nắng này thì bỏ mẹ chúng nó! Tôi cười cười khi ông nói đến, tôi biết chúng nó là bọn nào, là bọn Tây chứ còn ai nữa, tôi cũng mong vậy, được vậy thì những người dân Việt Nam cũng đở khổ hơn. Ông kể tiếp, ngày nào ông cũng ra phòng thông tin để nghe tin tức kháng chiến ở quê hương mình. Tâm can ông cứ nhảy múa hết cả lên khi nghe được tin hay, tin quân ta đánh được địch. Ông Hai không nhận được mặt chữ in nên ông rất ghét những anh nào "ra vẻ ta đây" biết chữ đọc báo mà chỉ đọc thầm không đọc to lên cho người khác còn biết. Sau khi nghe xong, ông lại ghé vào quán vợ để dặn vài điều rồi đi thẳng ra lối huyện cũ để hút điếu thuốc lào và uống chè. Ông đang náo nức đến mức ruột gan ông cứ múa cả lên, vui quá! Vì những tin kháng chiến mà dan ta giành chiến thắng khi chống địch thì biến cố bất ngờ xảy ra. Một người đàn bà tản cư ngồi gần đó vừa cho con bú vừa ngấm nguýt khi nhắc đến cái làng Chợ Dầu, nói rằng địch đã tràn qua làng và toàn bộ làng Chợ Dầu yêu quý của ông đã việt gain theo Tây. Khi ông nhận cái tin ấy cứ như bị sét đánh ngang tai. Tôi thấy ông hai lặng đi, tường như đến không thở được, có lẽ ông đang nhớ đến cảm giác khi ấy. Một lúc lâu ông mới rặng è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ và nói tiếp, lúc ấy ông chỉ muốn cúi gằm mặt xuống mà đi, nghĩ đến sự dè bỉu của bà chủ nhà, lại nhìn đến đàn con trong nhà.
- Khi ấy, nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông cứ tràn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu.. thôi đấy cháu ạ.
Khi kể cho tôi, mắt ông cũng trở nên đo đỏ, lúc ấy ông xấu hổ cực kì. Chao ôi cái thời ấy mà cả làng theo Việt gian thì còn làm ăn gì nữa, những người trong làng có tản cư thì ai mà chứa, người ta ghét, người ta hắt như hắt hủi. Cả gian nhà ông như lặng đi và ứ đọng trong căng thẳng, cả nhìn nhau cũng không dám nữa. Ông tuyệt giao với cả mọi người xung quanh, ông sợ người ta nhắc đến chuyện ấy. Và cái chuyện vợ chồng ông lo nhất cũng đã đến. Bà chủ nhà bóng gió đuổi gia đình ông, chỉ vì họ là người của làng theo Tây. Gia đình ông Hai ở vào tình thế căng thẳng. Cho dù có chính sách của cụ Hồ, người ta chẳng đuổi đi nữa, ông cũng chẳng còn mặt mũi mà đi đến đâu. Cứ vậy, lúc ấy ông lại đâm ra thù làng, về chi cái làng ấy nữa, về đấy khác nào đi theo giặc, bán nước, phản bội cụ Hồ! Tôi cũng rưng rưng theo từng lời ông kể, người nông dân chân chất ấy, người từng yêu ngôi làng hơn ai hết lại đâm ra thù hận, tình yêu quê hương đất nước trong ông đã bao trùm lên cả tình yêu đối với làng.
- Thật là tuyệt đường sống! Trong giây phút ôm đứa con trai út vào lòng ông đã nghĩ vậy đấy. Ông lại thủ thỉ với đứa con ông, cha con ông quyết ủng hộ cụ Hồ, anh em đồng chí biết cho bố con ông, cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông.
Tôi biết chứ, rằng từng lời đáp của đứa con trẻ cũng là tâm huyết, gan ruột của ông Hai, một người lấy danh dự của làng quê làm danh dự của chính mình, một người son sắt một lòng với kháng chiến, với Cụ Hồ. Những lời thốt ra từ miệng con trẻ như minh oan cho ông, chân thành và thiêng liêng như lời thề đinh ninh vang lên từ đáy lòng ông.
Nhưng rồi ông Hai trước mặt tôi bỗng tươi tỉnh hơn hẳn, có vẻ như ông dã nhớ đến cái tin đính chính cho làng Chợ Dầu, tôi cũng thấy mừng cho ông. Ông kể cho tôi nghe với giọng nói hào hứng đến lạ thường:
- Tây nó đốt nhà ông rồi cháu ạ, đốt nhẵn! Ra là láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả..
Tôi hỏi lại:
- Thế ông không buồn ạ? Ngôi nhà là cơ ngơi của mọt người nông dân cơ mà?
- Ôi dào, ai lại quan tâm chuyện ấy nữa. Cái tin ấy đã xác nhận làng ông vẫn nhất quyết đứng về phía kháng chiến. Cái tin ấy đã khiến ông lại được sống lại như một người yêu nước, ông không phản bội lại cụ Hồ!
Mặt ông hồng hào và đầy vui mừng, hệt như một đứa trẻ. Tôi cảm thấy thân mình bỗng nhẹ, tôi có cảm giác rằng mình đã sắp phải về. Tôi vội chào ông:
- Có vẻ cháu phải về rồi ông ạ, cháu xin chào ông.
Rồi tôi chạy vụt ra cổng, vừa ra khỏi, tôi đã quay lại nơi cũ, ông của tôi vẫn đang ngủ, tôi lấy cái chăn đắp cho ông rồi vội ngồi vào bàn viết nhật kí. Đó đúng là một cuộc gặp gỡ và trò chuyện thật tuyệt vời mà tôi cữ ngỡ mình vẫn còn trong giấc mơ. Qua cuộc gặp gỡ tôi lại càng thêm đông tình với ý kiến của nhiều độc giả: Ông Hai quả thật là một nhân vật độc đáo mang nhiều đặc điếm chung tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp nhưng đồng thời cũng mang những đặc điểm tính cách rất riêng, rất thú vị. Ông đã trở thành linh hồn của Làng và thể hiện trọn vẹn tư tưởng của nhà văn Kim Lân và truyện ngắn Làng.
6. Tưởng tượng gặp gỡ và trò chuyện với ông Hai ngắn gọn
Nhắc đến nhân vật ông hai trong truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân là nhắc đến hình ảnh một người nông dân chịu thương chịu khó, một hình ảnh đại diện cho tầng lớp nông dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp vĩ đại của dân tộc. Đó là hình ảnh của những người dân yêu nước da diết, yêu nơi chôn nhau cắt rốn của mình bằng một tình cảm thiêng liêng. Đã bao lần tôi mơ ước được một lần gặp nhân vật ông Hai để trò chuyện với ông về câu chuyện cuộc đời ông. Thế rồi một hôm khi vừa khép lại trang truyện, đi ngủ tôi mơ màng thấy mình được nói chuyện cùng nhân vật ông Hai. Đây quả thực là một giấc mơ không thể nào quên được.
Tôi đứng giữa một khoảng không mờ ảo cảnh vật khắp nơi đều rất đơn sơ mộc mạc nó giống với ngôi làng của nhà ông nội tôi vậy. À hình như tôi nhớ ra rồi đây chính là ngôi làng của ông Hai trong truyện ngắn của nhà văn Kim Lân. Ngôi làng nhỏ lắm ước chừng chỉ được khoảng mấy mươi nóc nhà. Tôi bước đi trong con đường gạch nhỏ giữa làng, xung quanh là dăm ba tốp người đang xì xào chuyện trò nào thì ruộng con trâu cái cày, nào là chuyện ruộng lúa trỗ bông… Tiếng cười nói của tụi trẻ con đang đùa nhau râm ran. Xa xa đàn cò đang sải cánh bay rập rờn….
Tôi đi đến gốc đa ven đường thì nhìn thấy một người đàn ông khoảng trên dưới sáu chục tuổi đang ngồi rít điếu cày trong quán nước gần đó. Người đàn ông hớp miếng nước chè tươi rồi chóp chép cái miệng. Tôi đến gần, lúc này mới thấy rõ được hình dáng của ông, người mảnh khảnh đầu chít khăn gọn gàng. Tôi nhớ hình như đây chính là ông Hai. Tôi liền mạnh dạn hỏi:
- Ông là ông Hai có phải không ạ? Cháu thấy quen lắm ạ?
- Ừ ông là ông Hai. Ôi dào quen gì đây là nơi tản cư ấy mà. Bao nhiêu người đến người đi. Thế bố mẹ cháu đâu mà lại đi lạc thế này? Ông trả lời.
- Cháu không nhớ ạ. Ông có thể đưa cháu về được không?
Ông Hai nhón trong túi trả tiền nước chè rồi dẫn tôi theo sau. Vừa đi ông vừa bảo: “được rồi tôi cứ dẫn cháu về nhà tôi nghỉ lát tí tôi lên báo cho phòng thông tin xã để tìm người nhà cho cháu.
Tôi nối bước theo ông Hai về nhà ông. Dọc đường đi tôi thấy ông chào hỏi mọi người niềm nở à hóa ra mọi người thường gọi ông là ông Hai Thu đấy. Thế là ước mơ của tôi đã thành sự thật rồi tôi đã gặp được ông Hai thật rồi. Về đến nhà ông Hai hỏi tôi vì sao lại bị lạc, ở đâu mà đến đây? Tôi cũng chẳng biết chuyện gì đang xảy ra nên cũng chỉ ậm ờ trước câu hỏi của ông. Tôi bèn hỏi ông chuyện khác: “Ông ơi hình như làng mình nhiều anh hùng lắm ạ? Ông có thể kể cho cháu nghe chuyện các chú ấy đánh giặc thế nào không ạ?
Như được chạm đúng vào mạch ông Hai thao thao bất tuyệt kể cho tôi nghe về làng ông, với một nỗi lòng say mê đến lạ. Ông khoe nào thì làng ông có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa rộng rãi, cột phát thanh cao quá ngọn tre, mỗi chiều loa gọi cả làng nghe thấy. Nào là cái làng của ông nhiều nhà ngói san sát, cả làng sầm uất như trên tỉnh. Đường trong làng lát toàn đá xanh mưa gió đi chân chẳng dính bùn. Tháng năm ngày mươi vào mùa gặt phơi lúa thì sướng phải biết….
Mặc dù đã được đọc câu chuyện của nhà văn Kim Lân nhưng nghe ông Hai kể chuyện tôi vẫn thấy hào hứng đến lạ. Sau đó ông kể tiếp: Kháng chiến chống pháp bùng nổ, ông muốn ở lại cùng với anh em bộ đội bám làng đánh giặc thế nhưng ngặt nỗi vì hoàn cảnh gia đình nên ông phải tản cư lên đây. Ở đó không ngày nào ông không nhớ quê hương mỗi khi nhớ quá ông lại kể về làng mình cho những người tản cư nghe. Rồi lại thi thoảng chạy lên phòng thông tin nghe tin tức quân ta đánh được địch mà ông vui như mở hội. Rối ông Hai có vẻ trầm ngâm: Tôi vội hỏi:
- Ông sao thế ạ? Sao ông lại không kể tiếp?
Ông Hai nhấp ngụm nước trà rồi nói tiếp. Hôm ấy ông nghe được tin làng chợ Dầu đi theo Việt Gian ông buồn như nghẹt thở, huyết quản trong ông nhu bị đông lại. Ông nghi ngờ về cái tin ấy mà người ta thì khẳng định chắc nịch. Ông cúi gằm mặt xuống rồi đi một mạch về nhà. Lòng ông nặng trĩu. Có cái gì đó đau đớn tủi nhục khi một người đàn bà dưới xuôi tản cư lên nói: “Cả làng nó đi theo tây rồi ông ạ, từ thằng chủ tịch mà xuống”. Niềm tự hào bao lâu nay của ông như sụp đổ. Giá như cái tình yêu quê hương của ông không sâu đậm đến thế thì ông đã không đau đớn đến thế này.
Về nhà ông nằm vật ra giường. Ông nhìn thấy lũ trẻ mà nước mắt cứ trào ra. Đấy thì ra chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy. Chúng nó cũng chịu sự hắt hủi rẻ rúm đấy. Thế rồi như không thể chấp nhận được sự thật ông tưởng tượng lại trong đầu những người dân làng ông đều là những người yêu nước họ yêu kháng chiến đến thế tại sao lại bán nước? thế nhưng những lời nói kia thì sao? Không có lửa thì làm sao có khỏi? Hôm ấy bà nhà ông về bà cũng khác lạ chỉ đến tối bà mới dám hỏi ông về cái tin tức đấy, lúc đầu ông im lặng sau ông gắt um lên còn bà im bặt.
Phải đến mấy ngày hôm sau ông mới dám bước chân ra ngoài đường ông sợ mỗi lần cái loa phát thanh nhắc đến tin chiến sự. Nỗi đau đớn càng trở nên cao trào khi mà ở đâu người ta cũng đuổi người dân làng Dầu vì không muốn cho lên tản cư. Đến ngày mụ chủ nhà ông cũng cố tình đuổi khéo vợ chồng ông. Thế nhưng ông kiên quyết không đi đâu cả. Đi về là bán nước, bỏ cụ Hồ ông nhất định không làm.
Đến đây tôi cũng thấy nghèn nghẹn chua xót. Tôi thấy có thứ gì đó lấp lánh trong suốt chảy ra từ khóe mắt của ông. Lấy tay quệt vội giọt nước mắt ông hai kể tiếp:
Thế rồi một hôm vào khoảng ba giờ chiều có một người đàn ông đến nhà ông chơi ông ấy rủ ông đi đến tối mới về. về đến nhà ông như hóa thành một con người khác. Đến bậc cửa ông đã hét toáng lên “thằng tây nó đốt nhà mình rồi, ông chủ tịch vừa lên báo thế, ông ấy bảo cái tin làng chợ Dầu theo tây là hoàn toàn sai lầm”. Cái tin này như hồi sinh ông vậy. Ông phấn khởi lắm ông mua quà cho mấy đứa con ông lật đật đi khắp nơi để khoe cái làng ông không theo giặc. Ông chạy sang bác Thứ và lại thao thao bất tuyệt về cái làng của mình một cách đầy tự hào sung sướng.
Nói đến đây ông quệt vội giọt nước mắt sung sướng mỗi lần nhắc đến kỉ niệm đó. Tôi như đắm chìm trong câu chuyện của ông một con người cả đời dành tình yêu cho làng cho nước cho quê hương bản sứ của mình. Chỉ đến khi nghe tiếng người gọi ngoài cổng “ Ông hai ơi ngoài ủy ban đang nói tin về làng chợ Dầu ông kìa”. Ông Hai mới lật đật bước ra dặn tôi nghỉ ngơi, ông ra xem tin tức gì đồng thời báo cáo về tình trạng của tôi.
Nhìn cái dáng vẻ khắc khổ của ông nhắc đến quê hương mà thấy thật đáng quý thật trân trọng biết bao.
Tiếng chuông báo thức vang lên. Ôi thế là tôi đã đến lúc phải dậy đến trường rồi. Hóa ra tôi đã có một giấc mơ thật đẹp như thế đấy. Cuộc trò chuyện với ông khiến tôi phần nào thấu hiểu cuộc sống lam lũ của người dân trong cuộc kháng chiến vĩ đại nhưng vẫn ánh lên tình yêu nước sự tin tưởng bất diệt vào cách mạng và cụ Hồ.
7. Tưởng tượng gặp gỡ và trò chuyện với ông Hai chi tiết
Hình ảnh ông Hai trong truyện “Làng” là một trong những hình ảnh đẹp đại diện cho người nông dân bình thường, chân lấm tay bùn nhưng giàu lòng yêu nước trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Hình tượng Ông Hai với những tình cảm chân thực và thắm đượm tình yêu quê hương, đất nước. Từ khi đọc truyện ngắn “Làng” tôi thường mơ ước một lần được gặp ông để cùng trò chuyện với ông và tìm hiểu điều gì đã xảy ra với ông. Và vào một đêm hôm nọ, sau khi đọc lại câu chuyện, tắt đèn và lên giường đi ngủ, điều tôi mơ ước đã thành sự thật. Tôi đã được gặp gỡ và trò chuyện với ông Hai, đó là những phút giây mà tôi không thể quên được.
Trong không gian mờ mờ ảo ảo tôi đã đến đây, ngôi làng nơi ông Hai ở. Tôi đưa mắt ra xa tôi thấy mình đang ở trong một ngôi làng nhỏ của miền trung du. Cái làng này nhỏ lắm, chỉ chừng mấy mươi nóc nhà thôi. Tôi mơ màng đặt chân đi trên con đường đất nằm giữa làng. Tôi thấy hàng tốp người đang đứng, ngồi dưới mấy gốc đa xù xì, cành lá sum sê đan vào nhau, trải bóng mát xuống mặt đường và bãi cỏ rộng lớn. Tiếng người lớn, tiếng trẻ con cùng với tiếng cười nói râm ran. Uốn quanh co phía dưới chân đồi là những thửa ruộng lúa xanh mượt, lấp loáng như một khúc sông quê. Thấp thoáng đâu đó là mấy bóng cò trắng bay dật dờ….
Bỗng tôi giật mình, tôi cảm thấy cảnh này vừa lạ lạ vừa quen quen. Hình như quang cảnh này tôi đã gặp đâu đó rồi thì phải nhưng tôi không thể nào nhớ được. Bỗng tôi nhìn thấy một ông lão ngồi trong một cái quán nước gần đây. Vừa hút một điếu thuốc lào, uống một bát nước chè tươi nóng, ông chóp chép cái miệng như đang đắc ý một điều gì đó trong đầu. Tôi mạnh dạn tiến lại gần. Bấy giờ tôi mới nhìn rõ đó là một ông lão với dáng người mảnh khảnh, đầu chít khăn gọn gàng. Tôi đoán ông độ trên dưới sáu mươi tuổi. À, ông Hai thì phải? Hình như đã có lần tôi được gặp gỡ và trò chuyện với ông Hai rồi thì phải? Tôi thấy ông quen lắm.
- Cháu chào ông? Ông có phải là ông Hai không ạ? Ông có thể cho cháu biết đây là đâu không ạ? Tôi hỏi.
- Ừ, ông là ông Hải. Cháu không biết mình đang ở nơi tản cư à! Bố mẹ cháu đâu rồi? - Ông đáp
- Cháu không biết tại sao cháu lại ở đây? Ông có thể giúp cháu về nhà được không ạ?
Ông Hai đặt bát nước chè tươi xuống chõng và nói: Thôi, tốt nhất là cháu theo ông về nhà ông, rồi ông sẽ đi báo chính quyền đưa lên loa phát thanh của xã để tìm người nhà cho cháu. Ông Hai đứng dậy, trả tiền nước, chèm chẹp miệng vài tiếng và vươn vai nói to: về nhà nào…
Tôi đi theo ông về nhà. Trên đường đi về ông giới thiệu với tôi ông là người làng chợ Dầu và mọi người thường gọi ông với cái tên thân mật là ông Hai Thu. Lúc đó tôi mới xác nhận đúng là mình đã gặp ông Hai thật. Tôi đang bâng khuâng không biết điều này thực hay mơ đây thì đã về tới nhà ông. Vào nhà ông rót cho tôi một chén nước và hỏi chuyện tôi. Ông hỏi tôi từ đâu tới đây, vì sao tôi bị lạc cha mẹ…Tôi nhận thấy hình như ông không thấy tôi quen thì phải hay ông không nhớ…? Tôi chỉ trả lời ậm ờ cho qua chuyện, vì tôi cũng không rõ đang có chuyện gì xảy ra. Tôi bèn đánh trống lảng hỏi sang chuyện khác:
- Cháu nghe nói làng mình nhiều anh hùng lắm ông nhỉ! Ông có thể kể cho cháu nghe được không?
Như bắt được mạch, ông Hai kể chuyện say sưa. Ông kể chuyện về làng, về những con người nơi đây một cách say mê và náo nức lạ thường. Hai con mắt ông sáng lên, cái mặt biến chuyển khi kể từ sự việc này sang sự việc khác. Ông khoe ở làng có cái phòng thông tin - tuyên truyền được xây dựng sáng sủa, rộng rãi nhất vùng này, cột phát thanh thì cao bằng ngọn tre, cứ chiều chiều loa nói cả làng đều nghe thấy. Ông khoe làng ông có nhiều nhà ngói nằm san sát, cả làng sầm uất như trên tỉnh. Đường trong làng toàn lát bằng đá xanh, trời mưa gió mà phải đi khắp đầu làng cuối ngõ cũng không sợ bùn dính đến gót chân. Tháng năm ngày mười vào mùa gặt nhà nhà phơi rơm, phơi thóc thì tốt thượng hạng, không có lấy một hạt thóc bị dính đất.
Dù những điều này tôi đã đọc thuộc lòng trong truyện nhưng khi nghe ông kể tôi vẫn cảm thấy xúc động. Ông Hai nhìn tôi say sưa kể tiếp: Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, người người đi sơ tán, nhà nhà đi sơ tán nhưng ông thì muốn ở lại làng cùng anh em bộ đội và dân quân kháng chiến bám làng để đánh giặc. Nhưng vì hoàn cảnh gia đình nên ông vẫn phải cùng gia đình đi tản cư. Ở nơi tản cư, ông rất nhớ quê hương và thường hay kể về làng mình cho những người nơi tản cư nghe. Ngày nào ông cũng ra phòng thông tin để nghe tin tức kháng chiến ở quê hương mình. Tâm can ông cứ nhảy múa hết cả lên khi nghe được tin hay, tin quân ta đánh được địch.
Kể đến đây ông dừng lại, có vẻ trầm ngâm suy nghĩ. Tôi vội hỏi:
- Chuyện gì xảy ra vậy ông? Sao ông không kể tiếp?
Ông Hai nhìn tôi với cặp mắt đầy suy tư, tâm trạng:
- Cứ từ chứ! Chờ ông uống miếng nước.
Nói xong ông lấy cốc nước uống một ngụm. Ông kể tiếp: Hôm ấy ông nghe được tin có người dân làng chợ Dầu của ông theo giặc làm Việt gian. Cổ họng ông nghẹn đắng lại, mặt ông nặng trĩu. Ông lặng đi, tưởng như nghẹt thở. Một lúc lâu ông mới đằng hắn một cái, nuốt vào trong lòng có cái gì đó vướng ở cổ, ông chạy đi hỏi lại về cái tin ấy, thì người ta đã khẳng định lại một cách chắc chắn. Ông cúi gằm mặt xuống, đứng lảng ra chỗ khác rồi đi thẳng một mạch về nhà về nhà. Ông buồn quá, buồn tận trong đáy lòng.
Cuộc gặp gỡ và trò chuyện với ông Hai của tôi như đang bắt đầu vào cao trào. Nghe ông kể đến đây tôi có thể cảm nhận được tâm trạng ông khi đó. Có gì đó đau đớn, tủi nhục cho ông Hai khi nghe được một người đàn bà di tản từ dưới xuôi lên nói: “Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây rồi”, “Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi cơ ông à!”, Niềm tự hào bao lâu nay bỗng chốc tan tành, sụp đổ ngay trước mặt ông. Giá như ông không yêu nơi sinh trưởng của mình đến thế, thì giờ đây ông đâu cảm thấy đau đớn và nhục nhã đến như vậy. Ông Hai kể tiếp:
- Về đến nhà, ông nằm vật ra giường nhìn thấy lũ con mà tủi thân quá, nước mắt ông cứ chảy ràn rụa ra. Bọn trẻ chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó bị người ta rẻ rúm, hắt hủi đấy ư? Ông ngờ ngợ chả nhẽ những người ở lại làng lại đốn đến thế ư? rồi ông tự điểm lại trong đầu thấy họ đều là những người đều có tinh thần yêu nước, yêu quê hương, yêu kháng chiến, chẳng nhẽ lại đi làm cái điều nhục nhã ấy sao? Ông đắn đo, suy nghĩ nhưng “không có lửa làm sao có khói”. Ông cảm thấy tủi nhục vô cùng. Chiều hôm ấy bà nhà ông về, bà ấy cũng có vẻ khác lạ. Trong nhà tồn tại cái sự im lặng thật là khó chịu. Mãi đến khuya bà ấy mới hỏi ông về cái tin tức ấy. Ông nghe bà hỏi, lúc đầu ông im lặng, rồi sau đó ông gắt lên vậy là bà im bặt. Phải đến ba bốn ngày hôm sau ông vẫn không dám bước chân ra ngoài đường chỉ ở trong gian nhà chật chội để nghe ngóng tin tức từ cái loa phóng thanh của xã. Lúc nào ông cũng trong tình trạng nơm nớp lo sợ, hễ nghe đến tin chiến sự là ông lại giật mình. Ông căm ghét bọn phản bội bán làng, bán Tổ quốc. Nỗi đau đớn, nhục nhã và lo sợ của ông lên tới đỉnh điểm khi nghe tin nhân dân địa phương có người làng Dầu tản cư đến là họ tẩy chay người dân làng ông, “đi đến đâu có người làng Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi”, ngay mụ chủ nhà cũng đã đuổi khéo vợ chồng, con cái nhà ông ra khỏi nhà. Trước tình cảnh ấy, bế tắc lắm nhưng ông nhất định không chịu trở về làng: “Về làng là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”. Cũng không thể đi đâu, đâu đâu người ta cũng đuổi người làng ông. Trong tâm trạng đau đớn, tủi nhục, ông tâm sự với thằng con trai út. Như trút được bầu tâm sự bấy lâu nay, nỗi khổ của ông cũng vơi đi phần nào.
Tuy được gặp gỡ và trò chuyện với ông Hai đến đây, tôi cũng lặng đi trong xúc động. Thật thương cho ông Hai. Không hiểu sao nước mắt đã nhòe trong khóe mắt và chỉ trực tràn ra trên khuôn mặt tôi. Ông Hai lấy tay quệt nước mắt cho tôi và cười nói: Xem cháu kìa! Mau nước mắt quá! Nghe ông nói vậy tôi chỉ biết cười ngượng. Tôi hỏi ông:
- Vậy tin làng Chợ Dầu theo Tây được đính chính khi nào hả ông?
Nghe tôi hỏi vậy ông Hai ngẩn người ra. Tôi biết mình đã lỡ lời. Thoáng chút im lặng trôi qua, ông nói với tôi, giọng xúc động:
- Vào một hôm khoảng ba giờ chiều, có một người đàn ông đến nhà ông chơi. Ông ấy rủ ông đi theo ông ấy mà không biết ông đi đâu, đến sẩm tối ông mới về nhà. Lúc ấy tâm trạng ông rất vui. Đến bậc cửa ông đã bô bô khoe rằng thằng Tây nó đốt nhà mình rồi, ông chủ tịch làng ông vừa mới lên khu tản cư để cải chính, ông ấy cho biết cái tin làng chợ Dầu của ông theo Tây làm Việt gian là sai hoàn toàn. Niềm vui mừng của ông thật vô bờ bến biết bao. Ông mua quà cho các con, ông muốn chia sẻ niềm vui sướng ấy cho mọi người trong đó có cả mụ chủ nhà từng gieo cho ông bao nỗi bực dọc, căm tức. Cứ thế ông lật đật đi khoe khắp nơi, tối hôm ấy ông còn sang gian bác Thứ kể chuyện về làng của mình trong tâm trạng tự hào, vui sướng.
Nói xong ông đưa tay quệt nước mắt đã rơi trên gò má khi nhắc đến kỉ niệm đó. Tôi cảm thấy mình thật nhỏ bé trước ông Hai. Ông đã gắn tình yêu đắm say quê hương, làng mạc của mình với tình yêu đất nước. Điều này đã làm nên con người vĩ đại trong ông. Cũng chính vì thế mà có như thế nào đi nữa, ông vẫn một lòng, một dạ ủng hộ kháng chiến, ủng hộ Cụ Hồ. Đang trầm ngâm với suy nghĩ của mình tôi nghe tiếng gọi
- Ông Hai ơi ngoài ủy ban đang nói tin về làng chợ Dầu của ông kìa?
Nghe tiếng gọi ông Hai vội vàng đứng dậy, ông bảo tôi nghỉ ngơi còn ông nhanh chóng chạy ra ủy ban nghe tin đồng thời báo cáo về trường hợp của tôi. Nhìn cái dáng tất bật của ông mà tôi trào dâng niềm yêu thương.
Reng! Reng! Reng! Tiếng chuông báo thức vang lên làm tôi giật mình tỉnh dậy. Giờ tôi mới nhận ra mình đã có một giấc mơ thật đẹp. Cuộc gặp gỡ và trò chuyện với ông Hai đã giúp tôi hiểu thêm về vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược nước ta. Đó là lòng yêu làng, yêu nước và gắn bó với kháng chiến. Có lẽ vì thế mà tác phẩm “Làng” xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam giai đoạn văn học hiện đại.
8. Tưởng tượng gặp gỡ với ông Hai trong tác phẩm Làng
Thật đúng như nhà văn I-li-a Ê-ran-bua nói: “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu đồng quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”. Quả thật, ông Hai trong truyện ngắn “ Làng” là hình ảnh đẹp của những người nông dân bình thường nhưng giàu lòng yêu nước trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trước đây (1946-1954). Ông Hai là hình tượng người nông dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp với những tình cảm chân thực và thắm đượm tình yêu quê hương, đất nước. Và từ khi được học tác phẩm “Làng” tôi thường mơ ước được gặp ông để tìm hiểu rõ hơn điều gì đã xảy ra với ông. Điều đó đã thành sự thật cách nay chưa lâu. Tôi không thể quên được giây phút phút đó.
Không gian mờ ảo đưa tôi đi. Khi tôi mở mắt ra thì thấy mình ở trong một ngôi làng trung du nhỏ. Cái làng này chỉ có chừng vài mươi nóc nhà. Tôi mơ màng đi trên con đường đất thẳng giữa làng. Tôi thấy, những tốp người đứng ngồi lố nhố cả ở dưới mấy gốc đa xù xì, cành lá rườm rà ken vào nhau, rải xuống mặt đường và bãi cỏ một vùng bóng mát rộng. Tiếng quạt, tiếng thở, tiếng trẻ con khóc, cùng với tiếng cười nói râm ran một góc đường. Dưới chân đồi, những thửa ruộng lúa xanh mượt, uốn quanh co dưới trời nắng, lấp loáng như một khúc sông. Có mấy bóng cò trắng bay dật dờ…. Tôi giật mình. Tôi thấy cảnh này vừa lạ vừa quen. Hình như tôi đã gặp đâu đó rồi thì phải nhưng tôi không nhớ được. Bỗng tôi nhìn thấy ông lão ngồi trong một cái quán gần đấy. Hút thuốc lào, uống chè tươi nóng, ông chóp chép cái miệng như có bao nhiêu ý nghĩ vui thích chen chúc trong đầu óc. Tôi mạnh dạn đi lại gần. Bây giờ tôi mới nhìn rõ đó là ông lão người mảnh khảnh, đầu chít khăn, dáng điệu gọn gàng. Tôi đoán ông độ trên dưới sáu mươi.
– Chào ông? Ông có biết đây là đâu không? Tôi hỏi.
– Cháu không biết mình ở nơi tản cư à! Bố mẹ cháu đâu?
– Cháu không biết tại sao cháu ở đây? Ông giúp cháu về nhà nhé?
Ông Hai đặt bát nước xuống chõng nói: Thôi cháu theo ông về nhà, để ông báo chính quyền tìm người nhà cho cháu. Ông Hai trả tiền nước, đứng dậy, chem chẹp miệng một tiếng, vươn vai nói to: về nào…
Tôi theo ông về nhà. Trên đường đi ông giới thiệu mình là người làng chợ Dầu và mọi người thường gọi tôi là ông Hai Thu. Lúc đó tôi mới nhận ra mình đang nói chuyện với người mình mơ gặp bấy lâu. Tôi đang bâng khuâng không biết điều này thực hay mơ đây thì đã về tới nhà. Vào nhà ông rót nước và hỏi chuyện tôi. Ông hỏi tôi từ đâu tới, vì sao lạc cha mẹ… Tôi chỉ trả lời ậm ờ cho qua chuyện. Tôi đánh trống lảng hỏi sang chuyện khác:
– Cháu nghe nói làng chợ Dầu anh hùng lắm! Ông có thể kể cho cháu nghe về nó không?
Như bắt được mạch, ông Hai kể trong say sưa. Ông nói chuyện về làng một cách say mê và náo nức lạ thường. Hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển, hoạt động. Ông khoe làng ông có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy. Ông khoe làng ông nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh. Đường trong làng toàn lát đá xanh, trời mưa trời gió tha hồ đi khắp đầu làng cuối xóm, buồn không dính đến gót chân. Tháng năm ngày mười phơi rơm, phơi thóc thì tốt thượng hạng, không có lấy một hạt thóc đất.
Dù đã đọc những điều này trong truyện nhưng tôi vẫn cảm thấy xúc động. Tôi nhìn ông Hai say sưa kể tiếp: Kháng chiến bùng nổ ông muốn ở lại làng cùng anh em bộ đội và dân quân kháng chiến. Nhưng vì hoàn cảnh gia đình nên ông phải cùng gia đình đi tản cư. Ở nơi tản cư ông rất nhớ làng và thường có hay khoe về làng mình. Hôm nào ông cũng ra phòng thông tin để nghe tin tức kháng chiến. Ruột gan ông cứ múa hết cả lên khi nghe được bao nhiêu tin hay – toàn tin quân ta giết được địch.
Nói đến đây ông dừng lại, trầm ngâm suy nghĩ. Tôi vội hỏi:
– Chuyện gì xảy ra vậy ông? Sao ông dừng lại không kể tiếp?
Ông Hai nhìn tôi với cặp mắt đầy suy tư
– Từ từ chứ! Chờ ông uống miếng nước đã. Nói xong ông lấy ly nước uống một ngụm. Uống xong ông kể tiếp: Hôm ấy đang trong tâm trạng náo nức thì ông nghe được tin làng chợ Dầu của ông theo Tây làm Việt gian. Lúc đó cổ họng ông nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lặng đi, tưởng như không thở được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, ông hỏi lại về cái tin ấy thì người ta đã khẳng định một cách chắc chắn. Ông vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác rồi đi thẳng về nhà.
Nghe ông kể tôi có thể cảm nhận được tâm trạng ông lúc đó. Có gì đau đớn, tủi nhục cho ông Hai bằng khi nghe một người đàn bà tản cư từ dưới xuôi lên nói: “Cả làng chúng nó (làng Dầu) việt gian theo Tây”, “Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi cơ ông à!”, Niềm tự hào bao lâu bỗng chốc tan tành, sụp đổ. Giá không yêu nơi sinh trưởng của mình, ông đâu cảm thấy đau đớn và nhục nhã đến thế. Ông Hai vẫn đang kể:
– Về đến nhà, ông nằm vật ra giường nhìn lũ con mà thấy tủi thân, nước mắt ông cứ tràn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Ông ngờ ngợ chả nhẽ bọn ở làng lại đốn đến thế ư rồi ông tự kiểm điểm trong óc thấy họ đều là những người có tinh thần yêu nước, yêu kháng chiến chẳng nhẽ lại đi làm cái điều nhục nhã ấy? Nhưng không có lửa làm sao có khói. Ông cảm thấy tủi nhục. Chiều hôm ấy vợ ông về cũng có vẻ khác. Trong nhà có cái sự im lặng thật là khó chịu. Mãi đến khuya vợ ông mới hỏi ông về cái tin ấy. Ông im lặng rồi gắt lên vậy là bà ấy im bặt. Ba bốn ngày hôm sau ông không dám bước chân ra ngoài chỉ ở trong gian nhà chật chội để nghe ngóng tin tức. Lúc nào ông cũng nơm nớp lo sợ, hễ nghe đến chuyện ấy là ông lại giật mình. Ông căm ghét bọn phản bội làng, phản bội Tổ quốc. Nỗi đau đớn và nhục nhã và lo sợ của ông lên tới cao độ khi nghe tin nhân dân địa phương có người làng Dầu tản cư đến là họ tẩy chay dân làng ông, “đến đâu có người chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi”, ngay mụ chủ nhà cũng đã đuổi khéo vợ chồng, con cái ông ra khỏi nhà. Trước tình cảnh ấy, ông bế tắc nhưng ông nhất định không chịu trở về làng: “Về làng là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”. Cũng không thể đi đâu, ở đâu, người ta cũng đuổi người làng chợ Dầu của ông. Trong tâm trạng đau đớn tủi hờn, ông tâm sự với thằng con út. Sau khi tâm sự xong, nỗi khổ của ông với đi phần nào.
Tôi lặng đi trong xúc động. Thật thương cho ông Hai. Không hiểu sao nước mắt đã nhòe trên mặt tôi. Ông Hai lấy tay quệt nước mắt cho tôi cười nói: Coi cháu kìa! Mau nước mắt quá! Nghe ông nói tôi chỉ biết cười ngượng. Vội hỏi cho đỡ ngượng:
– Vậy tin làng chợ dầu theo tây được cải chính khi nào?
Nghe tôi hỏi ông Hai ngẩn người ra. Tôi biết mình đã lỡ lời. Nhưng một thoáng im lặng trôi qua, ông nói với giọng xúc động:
– Một hôm khoảng ba giờ chiều, có người đàn ông đến nhà ông chơi. Ông ấy rủ ông đi theo ông ấy, đến sẩm tối ông mới về. Lúc ấy ông rất vui. Đến bực cửa ông đã bô bô khoe rằng Tây nó đốt nhà mình rồi, ông chủ tịch làng ông vừa mới lên cải chính, ông ấy cho biết cái tin làng ông theo Tây làm Việt gian là sai. Nỗi vui mừng của ông thật vô bờ bến. Ông hào phóng mua quà cho các con, ông muốn san sẻ niềm vui sướng ấy cho mọi người trong đó có cả mụ chủ nhà từng gieo cho ông nhiều nỗi bực dọc, căm tức. Cứ thế ông lật đật đi khoe khắp nơi, tối hôm ấy ông còn sang gian bác Thứ nói chuyện về làng của mình.
Nói xong ông đưa tay quệt nước mắt đã rơi khi nhắc đến kỉ niệm đó. Tôi cảm thấy mình thật nhỏ bé khi nghĩ đến ông. Ông Hai đã gắn tình yêu đắm say làng mạc của mình với tình yêu đất nước. Điều này làm nên con người vĩ đại trong ông. Cũng chính vì thế mà làng Dầu của ông có như thế nào đi nữa, ông vẫn một lòng, một dạ ủng hộ kháng chiến, ủng hộ Cụ Hồ. Đang trầm ngâm với suy nghĩ của mình tôi nghe tiếng gọi
– Ông Hai ơi ngoài ủy ban có tin về làng chợ Dầu kìa?
Nghe tiếng gọi ông Hai nhanh chóng bảo tôi nghỉ ngơi còn ông sẽ chay ra ủy ban báo cáo về trường hợp của tôi. Nhìn dáng tất bật của ông mà tôi trào dâng niềm yêu thương.
Reng! Reng! Tiếng chuông báo thức vang lên. Giờ tôi mới nhận ra mình đã có một giấc mơ thật đẹp. Ông Hai đã giúp hiểu thêm về vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược: Yêu làng, yêu nước và gắn bó với kháng chiến. Có lẽ vì thế mà tác phẩm “Làng” xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại.
9. Tưởng tượng bản thân gặp gỡ và trò chuyện với ông Hai
Nếu ai đã đọc và tìm hiểu những tác phẩm truyện của Kim Lân, chắc hẳn mọi người sẽ biết đến tôi. Tôi chính là nhân vật ông Hai trong trong tác phẩm đó. Hôm nay tôi ở đây sẽ kể lại cho mọi người nghe tất cả diễn biến tâm trạng và suy nghĩ của mình. Tôi biết Kim Lân đã làm việc này thay tôi rất xuất sắc, nhưng tôi vẫn muốn kể lại cho mọi người nghe. Tôi là một con người có lòng yêu quê hương tha thiết. Quê hương với tôi đúng là chùm khế ngọt, và với tôi quê hương cũng chỉ có một mà thôi. Tôi yêu ngôi làng nhỏ của mình, yêu con người nơi đây một cách vô tận. Với tôi, luôn có một niềm tin yêu sâu sắc vào làng chợ Dầu, về con người nơi tôi sinh ra và lớn lên. Truyện sẽ chẳng có gì cho tới khi tôi nghe tin làng tôi theo giặc. Lúc bấy giờ tâm trạng tôi như không thể kiểm soát, có cái gì mắc cứng ở cổ họng, da mặt tê rân rân,… Không phải đợi lâu nữa, ngay sau đây tôi sẽ kể hết cho mọi người nghe toàn bộ sự việc.
Ngày ấy, nghe theo Đảng, nghe theo chính sách của Cụ Hồ. Gia đình tôi cùng bao gia đình ở làng chợ Dầu phải tản cư để tránh đòn tấn công của kẻ địch, hạn chế tối đa thiệt hại về người và tài sản. Bao nhiêu năm sống và chiến đấu trên mảnh đất quê mình. Đến cả nhắm mắt tôi cũng biết được ở đâu có có khúc sông, có giếng làng. Phải xa quê, không ở lại cùng anh em chiến đấu bảo vệ làng làm tôi cũng buồn khó tả. Tôi cũng muốn ở lại với anh em, với các chú bộ đội, đào ấp, xây hầm, quyết sống chết với thằng Tây mũi lõ, dám cướp làng, cướp nước ta. Nhưng vì hoàn cảnh gia đình, mẹ nó và cả đàn con leo nhóc, tôi không thể bỏ chúng được,tôi đành đi. Nhưng tôi luôn có niềm tin dân làng mình sẽ chiến đấu đến cùng để bảo vệ từng tấc đất cho quê hương. Tôi tự hào về làng mình lắm. Nói không phải khoe chứ làng tôi có nhiều cái hay lắm, mà tôi muốn cho mọi người biết. Tôi nói nhiều đến nỗi cụ Thứ còn biết hết, nhớ hết những điều tôi nói. Làng tôi, mọi người có biết không, có cái phòng thông tin truyền thông sáng sủa nhất vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy. Làng tôi nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh. Với tôi làng tôi luôn đẹp nhất, tôi tự hào về mọi thứ ở làng tôi có. Tôi luôn nói cho mọi người biết làng tôi đẹp, người dân thật thà chất phác, yêu lao động, yêu hòa bình, ghét cái bọn Tây cướp nước như thế nào, dù không súng, không đạn, chỉ cần cuốc, xẻng, gậy gộc, hay tay không chúng tôi cũng đánh.
Mọi thứ vẫn diễn ra, kháng chiến vẫn đang trường kì. Tôi mong đợi một ngày bọn Tây nó chết hết đi, dám cướp nước, cướp làng ta, làm bao kiếp khổ. Buổi trưa hôm ấy, tôi ở nhà một mình, con bé lớn thì gánh hàng cho mẹ nó ngoài chợ bán. Còn hai đứa nhỏ, tôi cho nó ra vườn chơi, vừa trông bọn gà không cho chúng phá rau. Tôi thì từ sáng tới giờ vỡ được mấy luống đất rồi, đang tính là trồng thêm mấy luống rau. Nhà mỗi người một việc, việc lớn thì người lớn làm, việc nhỏ thì người nhỏ làm. Đang mệt nằm giường nghỉ một lát, thế nào tôi lại nghĩ đến làng mình. Nghĩ tới làng, tôi vui lắm, như trẻ ra vậy. Tôi lại lẩm nhẩm mấy câu hát ngày xưa, sao mà nhớ làng đến lạ. Muốn về với anh em đồng cam cộng khổ đánh nhau với bọ Tây cướp nước. Ngày trước tôi có muốn đi đâu, mà bà nó giục quá, cứ bảo con nhỏ dại, tôi không đi thì mẹ con chúng biết chông cậy vào ai, thế là thương gia đình tôi đi di tản, chứ có một mình, tôi quyết không bao giờ bỏ làng mà đi. Nghĩ linh tinh, tôi đứng dậy ra khỏi nhà. Ghét cái bọn Tây, tôi chửi đổng.
– Nắng thế này bỏ mẹ chúng nó.
Người đi đường thấy tôi nói vậy quay lại hỏi
– Bọn nó nào?
Tôi chỉ tay về chỗ có tiếng súng
– Tây chứ còn bọn nào nữa. Ngồi trong vị trí giờ bằng ngồi tù.
Rồi tôi lại đi tiếp, hôm nào cũng vậy, tôi lại ra phòng thông tin nghe tin tức. Tuy tôi không biết mặt chữ in nhưng cũng muốn ra nghe tin tức kháng chiến lắm. Chả phải hóng hớt nhưng tôi thích nghe tin hôm nay mình đánh được bao nhiêu thằng, thắng ở đâu, như thế làm tôi vui lắm. Ra đây nghe tin tức, tôi ghét là ghét mấy anh cậy chữ đọc thầm, chẳng cho ai nghe với. May sao hôm nay có anh bạn đọc to cho mọi người cùng nghe. Cao ôi bao nhiêu là tin tức hay, có tìm một em nhỏ trong ban truyền tin dũng cảm cắm lá cờ quốc kì lên nóc hồ gươm. Tuổi nhỏ mà dũng cảm vậy đó. Một anh đội trưởng sau khi giết bảy tên giặc đã tự sát bằng một quả lựu đạn cuối cùng. Cứ cái đà này, thì kháng chiến rồi cũng kết thúc thôi, bọn Tây cũng phải đầu hàng.
Rời khỏi phòng thông tin, tôi ra gốc đa xù xì nơi mọi người hay ngồi nghỉ, làm điếu thuốc lào, uống ngụm nước chè tươi nóng. Bao suy nghĩ vui mừng cứ múa lên trong đầu tôi. Thấy mấy ông bà từ dưới lên. Thì ra là mấy ông bà từ gia lâm lên, cũng hỏi chuyện thóc lúa đồng áng xem như thế nào. Mấy hôm nay thấy súng bắn nhiều, tôi hỏi
– Này bác có biết mấy hôm nay súng bắn ở đâu mà rát thế.
– Nó rú từ Bắc Ninh qua chợ Dầu khủng bố ông ạ. Một người đàn bà đang cho con bú nói sang
Thấy tin quê mình bị địch bắn, tôi vừa lo, vừa sợ, lắp bắp hỏi:
– Nó…nó vào chợ Dầu hả bác? Thế giết được bao nhiêu người
– Có giết được thằng nào đâu. Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây.
Như sét đánh ngang tai, cổ họng tôi nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân. Tôi tưởng như không thở được. Tôi lắp bắp mãi mới hỏi lại được
– Có thật không hay chỉ là…
– Thì chúng tôi từ đây lên. Việt gian từ thằng chủ tịch đi ông ạ. Tây nó vào chúng nó bảo nhau vác cờ thần ra hô. Thằng chánh Bệu khuân cả tủ chè, đỉnh đồng, vải vóc vác lên cam nhông, đưa cả vợ con lên vị trí giặc mà ngồi mà.
Bầu trời như tối đi ngay trước mắt, tôi đứng dậy trả tiền nước đi về. Bao suy nghĩ cứ nhảy múa trong đầu tôi. Hai chữ việt gian mà người đàn bà nói nó vẫn vong vỏng bên tai tôi. Đằng sau có tiếng chửi làng, tim tôi như quặn lại. Về nhà lũ trẻ thấy tôi khắc, chúng chả dám hỏi, nhìn chúng tôi lại thương. Nó là con nhà Việt gian sao, chúng nó sẽ bị mọi người xa lánh sao. Tôi nắm chặt hai tay mà rít lên.
– Chúng mày ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm Việt gian bán nước nhục nhã thế này.
Chiều hôm ấy, bà nó đi chợ về, thấy nét mặt khác, là tôi biết lại vì cái tin đồn làng tôi theo Tây rồi. Từ lúc biết tin, tôi chẳng dám ra ngoài, tôi buồn và xấu hổ vì sao dân làng mình lại làm như vậy. Không khí trong nhà tôi như năng lề hơn bao giờ hết. Bà nó đêm đấy quay sang bảo tôi hay về làng, tôi bực lắm gắt.
– Không về làm gì cái làng ấy nữa, chúng nó theo Tây cả rồi, về làng tức bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ. Về làm tức chịu làm nô lệ cho Tây.
Yêu làng bao nhiêu giờ nghe tin làng theo giặc tôi buồn bấy nhiêu. Chẳng biết tâm sự cùng ai, quay ra ôm thằng út vào lòng. Thằng bé mạnh dạn dơ tay bảo .
– Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm.
Nó làm tôi vui hơn, tôi tin vào con người làng mình hơn. Rồi khoảng lúc ấy chắc 3h chiều, có một anh bạn tôi cũng ở làng chợ Dầu qua nhà, tôi quyết định phải đi cùng anh về quê xem tình hình thế nào. Và mọi thứ được sáng tỏ, tôi vui mừng rạng rỡ hẳn lên, khác hẳn với mấy ngày hôm trước. Tôi còn mua cho bọn trẻ nhà tôi í kẹo bánh cơ. Tôi vui lắm, đi khoe khắp làng.
– Bác Thứ đâu rồi? Bác Thứ làm gì đấy? Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ, đốt nhẵn, ông chủ tịch chỗ tôi mới lên cải chính, ông ấy cho biết, cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng tôi theo Tây, láo, quá láo.
Tôi đi khoe hết bà con lối xóm, khoe nhà tôi bị đốt, nhà bị đốt mà tôi vẫn vui, tôi vui vì làng tôi trong sạch, mọi người không ai làm việc gian. Mọi người khó mà hiểu lòng tôi, thế mà đến tài ông Kim Lân ông ý biết.
Đấy, chuyện là như thế, tôi yêu làng mình và sẽ mãi tin tưởng mọi người trong làng tôi. Cũng phải cảm ơn cái ông nhà văn Kim Lân đã viết được tác phẩm làng hay như thế, để tôi hôm nay được kể lại cho mọi người nghe.
Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trong nhóm Lớp 9 thuộc chuyên mục Học tập của HoaTieu.vn.
- Chia sẻ:Trần Thu Trang
- Ngày:
Tham khảo thêm
Ngữ văn 9 viết bài tập làm văn số 2
Tìm hiểu và giới thiệu về những tấm gương hợp tác tốt của các bạn trong lớp, trường
Top 9 bài thuyết minh về cây lúa ngắn gọn
Cảm nhận 10 câu thơ giữa bài Đồng chí
Top 7 bài hãy kể về một lần em trót xem nhật kí của bạn siêu hay
Nhân ngày 20-11 kể về những kỉ niệm đáng nhớ với thầy cô giáo cũ lớp 9
Top 6 mẫu cảm nhận đoạn cuối bài Đồng chí
Gợi ý cho bạn
Có thể bạn cần
Top 8 mẫu phân tích khổ cuối bài Tràng giang hay chọn lọc
Hướng dẫn khai Phiếu đảng viên (mẫu 2-HSĐV)
Mẫu Bài thu hoạch nghị quyết trung ương 4 khóa 12 cho Đảng viên
Biên bản họp chi bộ đề nghị kết nạp Đảng viên
Top 4 mẫu Cảm nhận bài thơ Sóng hay chọn lọc
Thực hành theo hướng dẫn để tạo ra 02 sản phẩm hỗ trợ việc giảng dạy môn Toán cấp tiểu học
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 3 năm 2024 mới cập nhật
Bộ tranh thiếu nhi về chào mừng Đại hội Đoàn 2024
Công văn xin hủy tờ khai Thuế GTGT do kê khai sai 2024
Suy nghĩ về số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến
Tờ khai thuế thu nhập cá nhân Mẫu 05/KK-TNCN, 05-DK-TCT 2024
Mẫu nhận xét các môn học theo Thông tư 22, Thông tư 27
Bài viết hay Văn mẫu 9
Đọc hiểu Chuyện con chó có nghĩa của một nhà nghèo
Top 9 bài phân tích nhân vật ông họa sĩ trong Lặng lẽ Sa Pa
Trình bày mạch cảm xúc của bài thơ Sang thu
Top 5 mẫu tóm tắt bài Đấu tranh cho một thế giới hòa bình hay chọn lọc
Top 7 bài phân tích nhân vật Lục Vân Tiên siêu hay
Giáo án bồi dưỡng học sinh giỏi Văn 9 file word