Phân tích Vợ nhặt đoạn cuối ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống

Phân tích đoạn cuối Vợ nhặt - Phân tích ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống. Anh/Chị hãy phân tích đoạn trích trên; từ đó, nhận xét cách nhìn cuộc sống của nhà văn Kim Lân được thể hiện trong đoạn trích. Đây là nội dung chính thuộc câu 2 phần làm văn của đề thi tốt nghiệp THPT 2023 môn Ngữ văn. Sau đây là mẫu dàn ý phân tích đoạn cuối Vợ nhặt đoạn ngoài đình bỗng dội lên có kèm theo dàn ý giúp các em có thêm tài liệu tham khảo cho đáp án đề thi THPT Ngữ văn 2023.

Đề bài Ngữ văn THPT 2023 - phần làm văn

Trong truyện ngắn Vợ nhặt, nhà Văn Kim Lân viết:

Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợ hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vần trên nền trời như những đám mây đen. Người con dâu khẽ thở dài, thị nói lí nhí trong miệng:

- Trống gì đấy, u nhỉ?

- Trống thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt gồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ...

- Bà lão ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc. Người con dâu có vẻ lạ lắm, thị lầm bầm:

- Ở đây vẫn phải đóng thuế cơ à?

Im lặng một lúc thị lại tiếp:

- Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa đấy.

Tràng thần mặt ra nghĩ ngợi. Cái mặt to lớn bặm lại, khó đăm đăm. Miếng cám ngậm trong miệng hắn đã bã ra chát xít... Hắn đang nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật.

Tràng hỏi vội trong miếng ăn:

- Việt Minh phải không?

- Ừ, sao nhà biết?

Tràng không trả lời. Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm.

Hôm ấy hắn láng máng nghe người ta nói họ là Việt Minh đấy. Họ đi cướp thóc đấy. Tràng không hiểu gì sợ quá, kéo vội xe thóc của Liên đoàn tắt cánh động đi lối khác. À ra họ đi phá kho thóc chia cho người đói. Tự dưng hắn thấy ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu.

Ngoài đình tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập. Mẹ và vợ Tràng đã buông đũa đứng dậy. Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…

(Trích Vợ nhặt, Kim Lân, Ngữ văn 12, tập hai, Nxb Giáo dục, 2011, tr.24)

Anh/chị hãy phân tích đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét cách nhìn cuộc sống của nhà văn Kim Lân được thể hiện trong đoạn trích.

Phân tích đoạn cuối Vợ nhặt

1. Dàn ý Phân tích đoạn cuối Vợ nhặt

I. Mở bài:

- Kim Lân là cây bút văn xuôi tiêu biểu của nền văn học Việt Nam. Các sáng tác của ông thiên về chủ đề nông thôn và người nông dân nghèo với ngòi bút phân tích tâm lý nhân vật tài tình.

- Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc của Kim Lân viết trong bối cảnh nạn đói năm 1945. Tác phẩm đã ngợi ca giá trị tinh thần của con người ngay trên bờ vực cái chết.

- Giới thiệu vấn đề nghị luận của bài viết: Vẻ đẹp tâm hồn người nông dân; cách nhìn cuộc sống của nhà văn Kim Lân.

II. Thân bài:

1. Phân tích đoạn trích

a. Vị trí và bối cảnh đoạn trích.

- Vị trí: Đoạn trích được trích ở phần cuối của tác phẩm, trong bữa cơm đón nàng dâu mới.

- Khái quát bối cảnh đoạn trích: Tràng vốn là một người đàn ông xấu xí, thô kệch lại là dân xóm ngụ cư sống trong nạn đói. Trong một lần đẩy xe bò đã “nhặt” được vợ. Đoạn trích tái hiện lại phản ứng của các nhân vật trước sự việc thu thuế diễn ra sau khi Tràng nhặt vợ.

b. Đoạn trích thể hiện vẻ đẹp tâm hồn, niềm tin vào tương lai và khát vọng đổi đời đáng trân trọng của những con người đang trên bờ vực của cái chết

* Đoạn trích thể hiện niềm tin vào tương lai

- Trong bữa cơm đón nàng dâu mới, sau khi truyền cho các con niềm tin, niềm vui thông qua một loạt những hình dung tích cực về tương lai thì tiếng trống thúc thuế vang lên dồn dập, kéo bà cụ Tứ trở về với hiện thực, niềm vui của bà không thể cất cánh, niềm tin của bà không thể mở rộng; nỗi lo lắng phục sinh vẹn nguyên.

- Thế nhưng ngay sau đó, câu nói của người con dâu mới đã đưa đến thông tin mang tính chất như định hướng để mở ra lối thoát. Người vợ nhặt đã đem đến một niềm tin, niềm hi vọng cho một tương lai mới mẻ.

- Nỗi niềm của bà vơi dần đi qua lời nói của người con dâu về những điều bà chưa từng được nghe, được thấy bao giờ -> ánh sáng le lói cuối đường hầm. Bà đã nhìn thấy lối thoát cho mình, cho gia đình mình và tất cả những người dân khốn cùng như bà.

* Đoạn trích thể hiện khát khao đổi đời của nhân các nhân vật.

Khao khát đổi đời được thể hiện rõ nhất qua suy nghĩ của nhân vật Tràng sau khi nghe người vợ nhặt nói về việc phá kho thóc của Nhật.

- Tràng từ một anh chàng thô kệch, ngờ nghệch đã bắt đầu biết quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội: mạn Thái Nguyên, Bắc Giang không đóng thuế mà còn phá kho thóc Nhật chia cho người đói. Tràng nghĩ ngợi, anh nhớ lại sự kiện những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp, đằng trước là lá cờ đỏ to lắm. Hôm ấy Tràng không hiểu gì nên đã kéo xe thóc đi lối khác. Bây giờ thông qua câu chuyện của người vợ, anh biết được họ phá kho thóc để chia cho người đói. Nghĩ đến đây anh bỗng thấy hối hận.

=> Đây là tín hiệu cho một tương lai tươi sáng. Người đọc tin tưởng Tràng sẽ đi theo Việt Minh, theo cách mạng.

- Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng hiện lên trong tâm chí Tràng báo hiệu cho một sự giải phóng. Tràng sẽ hòa vào dòng người kia để giải phóng những người dân nghèo cũng như giải phóng chính mình.

c. Đánh giá:

- Nghệ thuật thể hiện vẻ đẹp tâm hồn người nông dân:

+ Thủ pháp đối lập tương phản giữa tính cách và hoàn cảnh sống.

+ Với ngôn ngữ mộc mạc mà tinh tế, Kim Lân bộc lộ tài năng xây dựng nhân vật khi họ cùng hoàn cảnh, cùng chung tâm trạng vui sướng hạnh phúc nhưng mỗi người lại có cách biểu lộ cảm xúc riêng.

+ Sự am hiểu tâm lí con người đã giúp ông có được những trang văn chân thực, cảm động.

+ Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, giọng điệu tự nhiên, không cầu kì, đậm phong thái của những con người nơi vùng quê chất phác.

=> Nhà văn Kim Lân không chỉ nói lên sự sống mỏng manh của con người trước nạn đói khủng khiếp mà quan trọng hơn là đứng trên bờ vực của sự sống và cái chết vẻ đẹp của con người vẫn luôn tỏa rạng. Trong cái khốn cùng, thiếu thốn, đói nghèo con người vẫn dành cho nhau những tình cảm chân thành và đáng trân trọng nhất: “Câu chuyện Vợ nhặt đầy bóng tối nhưng từ trong đó đã lóe lên những tia sáng ấm lòng”. (Hoài Việt)

2. Nhận xét về cách nhìn cuộc sống của nhà văn Kim Lân

- Cái nhìn của tác giả là cái nhìn sắc sảo để phơi bày hiện thực xã hội những năm trước cách mạng

- Cái nhìn tiến bộ của thế giới quan cách mạng: hiện thực cuộc sống luôn có sự vận động từ tăm tối, khốc liệt tới ánh sáng, tương lai.

- Cái nhìn giàu tình thương và nhân ái: trân trọng, nâng niu khát khao sống và khát vọng hạnh phúc của người nông dân. Thể hiện niềm tin về khả năng kì diệu của con người khi bị đẩy đến bờ vực, con người không còn là nạn nhân một chiều của hoàn cảnh mà có khả năng cải tạo hoàn cảnh, cách mạng chính là con đường sáng dẫn lối.

III. Kết luận

- Khái quát lại vấn đề.

- Giá trị nội dung, nghệ thuật.

2. Phân tích đoạn trích ngoài đình bỗng dội lên - Đoạn cuối Vợ nhặt

1. Giới thiệu khái quát về tác giả Kim Lân

- Kim Lân là nhà văn được coi là “con đẻ của đồng ruộng”. Ông “một lòng đi về với đất, với người với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn” (Nguyên Hồng). Ông viết chân thực về những người nông dân quê mình chất phác, hóm hỉnh mà rất tài hoa.

- Hoàn cảnh sáng tác: Tác phẩm có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được viết ngay sau khi cách mạng Tháng Tám thành công nhưng còn dang dở và bị mất bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc (1954), Kim Lân dựa vào một phần của cốt truyện cũ để viết tác phẩm “Vợ nhặt”. Tác phẩm được đưa vào tập “Con chó xấu xí” (Xuất bản 1962).

2. Phân tích đoạn trích

Tóm tắt: Tác phẩm phản ánh chân thực cuộc sống của người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ trong nạn đói kinh hoàng năm 1945. Nhưng trong hoàn cảnh đó người nông dân vẫn đùm bọc yêu thương, vẫn khao khát mái ấm gia đình và luôn có một niềm hi vọng vào tương lai.

Truyện viết về cuộc sống của những người dân ở xóm ngụ cư trong nạn đói mà tiêu biểu là cuộc sống của gia đình Tràng. Vì cái đói cái nghèo nên Tràng không thể có một đám cưới đàng hoàng và bữa cơm đón nàng dâu mới của nhà Tràng cũng rất thảm hại “Giữa cái mẹt rách chỉ có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo”. Trong bữa ăn họ nghe thấy tiếng trống thúc thuế, qua lời của người vợ, Tràng đã nhớ lại có lần mình gặp Việt Minh và “Trong óc Tràng bỗng hiện lên đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”. Đây được xem là đoạn trích hay, thể hiện rõ cách nhìn cuộc sống mới mẻ của nhà văn Kim Lân.

- Đoạn trích mở đầu bằng những tiếng trông thúc sưu quen thuộc trong cộng đồng đời sống xã hội Việt Nam trước 1945 - một thời điểm lịch sử trong đất nước ta vào những năm tháng chuẩn bị cho cuộc cách mạng và đó là những ngày tiền khởi nghĩa với phong trào phá kho thóc Nhật chia cho dân nghèo. Vậy nên trong hoàn cảnh đói khát cùng cực ấy người nông dân nhận ra kẻ thù gây đau khổ cho mình là bọn Pháp và Nhật. Thực dân Pháp thi hành những “luật pháp dã man’, vơ vét của cải còn phát xít Nhật thì bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay, trồng thầu dầu rồi cùng với thiên tai, lũ lụt… Những người dân sống trong hoàn cảnh đó họ sẽ ý thức được mình phải đứng lên đấu tranh tìm con đường cho mình. Họ sẽ tìm đến với cách mạng như một điều tất yếu.

Sự hợp lí ở đây là họ chỉ mới bắt đầu nhận thức về cách mạng, đó mới chỉ là ánh sáng đầu tiên của “ lá cờ đỏ bay phất phới”. Ở đây mới dừng lại ở việc qua lời người vợ mà Tràng đã nhớ lại có lần anh đã nhìn thấy đoàn người đi phá kho thóc và được nghe nói họ là Việt Minh. Quá trình nhận thức ấy được diễn tiến từ từ. Cách kết truyện như thế là phù hợp.

Truyện kết thúc nhưng đã mở ra cho người đọc nhiều suy ngẫm. Truyện không nói cụ thể rõ ràng là cuộc sống của Tràng, bà cụ Tứ, người vợ nhặt sẽ đi đến đâu, cuộc sống của họ tiếp theo sẽ như thế nào để gượng ép trói buộc suy nghĩ của bạn đọc thiên về một hướng và nhiều khi chỉ suy nghĩ theo chiều hướng ấy. Và thật khéo léo khi Kim Lân để “lửng”. Kết thúc “lửng” ấy chứa đựng bao suy nghĩ của tác giả. Phải chăng nhà văn Kim Lân đang thầm kín bày tỏ sự trân trọng với cách tiếp cận, nhận thức của độc giả đồng thời cũng hướng họ rằng nên phải suy nghĩ, chiêm nghiệm để viết tiếp câu chuyện ấy với sự phù hợp và đúng đắn nhất theo quan điểm nhận thức của mỗi người. Việc tạo ra kết thúc mở cũng khơi sâu sự tìm tòi khám phá một góc độ của cuộc sống, của xã hội thay vì chỉ là đọc trên giấy và hiểu tác phẩm một cách đơn thuần. Theo quan điểm của bản thân có thể suy ngẫm Tràng sẽ được đứng chung đoàn người dưới lá cờ đỏ sao vàng kia. Bởi anh đã thấy bản thân nên người, có trách nhiệm hơn với gia đình này và xã hội.

Một điểm nữa trong cách kết truyện của Kim Lân là có kết truyện “sáng” không giống như văn học hiện thực phê phán trước cách mạng.Trước đây, nhà văn Nam Cao đã để cho nhân vật Chí Phèo cảm nhận hương vị của cuộc sống, để cho hắn cảm nhận tình yêu thương…nhưng rồi Chí Phèo lại rơi vào bi kịch bế tắc. Nhà văn Ngô Tất Tố cũng để nhân vật của mình - Chị Dậu vùng lên chống lại ách áp bức của bọn địa chủ nhưng rồi cuối cùng trước mắt chị là “trời tối đen như mực giống như cái tiền đồ của chị”…Họ đều rơi vào luẩn quẩn, bế tắc không lối thoát. Ở “Vợ nhặt”, Kim Lân đã để cho những người nông dân hướng về tương lai. Ông đã hướng họ vào ánh sáng của tương lai, của cách mạng “Trong óc Tràng bỗng hiện lên đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”. Những con người trong hoàn cảnh khốn cùng cận kề cái chết nhưng họ không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng đến sự sống, vẫn hi vọng tin tưởng ở tương lai. Những người đói ấy vẫn khao khát về cuộc sống ấm no, đầy đủ hơn. Nhà văn đã để người dân nhận thức, tự giác ngộ và khơi lên tinh thần đấu tranh ở họ. Thật là một cách kết truyện sáng mở ra cuộc sống tươi sáng cho con người.

3. Cách nhìn cuộc sống của nhà văn Kim Lân

“Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng đến sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn sống, sống cho ra con người.” ( Kim Lân) Đó là một cái nhìn nhân đạo hết sức mới mẻ của một cây bút thân, hiểu và yêu thương người nông dân một cách chân thành. Kim Lân không chỉ cảm thông, trân trọng, xót xa trước thân phận của người nông dân chịu nhiều cơ cực, áp bức, bị dồn vào bước đường cùng. Ông vẫn nhìn thấy ở họ ánh lên vẻ đẹp của tình người, niềm tin cuộc sống và khát vọng một tương lai tươi sáng.

4. Nhận xét nghệ thuật

- Tình huống truyện độc đáo, mới lạ, éo le từ đó bộc lộ được tính cách nhân vật và cách nhìn nhân đạo của nhà văn.

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật tiêu biểu, đặc biệt đoạn trích chỉ có vài câu thoại ngắn trên nền cảnh của hiện thực khốc liệt đã khắc họa sinh động tình cảm của nhân vật, cho thấy sự thấu hiểu của những người cùng cảnh ngộ, gợi ra cho họ một lối thoát.

- Ngôn từ giản dị, mộc mạc, gần gũi đủ để thấy Kim Lân là một nhà văn của nông dân VN.

- Kết thức mở, tự nhiên, khơi gợi cho người đọc niềm tin tươi sáng, giàu giá trị nhân văn.

Khẳng định lại vấn đề: Nếu kết thúc truyện "Tắt đèn", chị Dậu chạy ra khỏi nhà tên quan huyện trong một đêm đen "như cái tiền đồ của chị"; nếu kết thúc truyện "Chí Phèo" là cái chết trong đau đớn của Chí và hình ảnh thị Nở nhìn nhanh xuống bụng nghĩ đến cái lò gạch cũ bỏ không như dự báo một Chí Phèo con ra đời thì Kim Lân lại tìm một hướng đi khác cho câu chuyện nhặt vợ cười ra nước mắt của anh cu Tràng. Kim Lân đã không để cuộc đời của các nhân vật chìm đắm trong bóng tối của đói nghèo và cái chết, hình ảnh Việt Minh cùng lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện cuối tác phẩm "Vợ nhặt" đã tạo nên cho truyện một kết thúc "mở, tự nhiên và sáng". Bên cạnh đám người đói khổ là một khát vọng về tương lai tươi sáng.

Những nhà văn lớn đều có khuynh hướng viết về những nỗi đau lớn và những thân phận đầy nghiệt ngã. Lòng nhân đạo đã đưa Kim Lân đến những mảnh đời bần hàn, cơ cực. Ông đã quan sát, đồng cảm với những người bị vùi dập ở tận đáy xã hội như Tràng, và cụ Tứ. Ông đã hóa thân vào hoàn cảnh của họ để sống, để yêu, để đau khổ, để khao khát và ước vọng cùng họ.

3. Phân tích đoạn kết tác phẩm Vợ nhặt siêu ngắn

Kim Lân, một cây bút viết truyện ngắn điêu luyện, am hiểu và gắn bó sâu sắc với đời sống nông thôn và người nông dân. Với vốn hiểu biết này, Kim Lân đã miêu tả chân thực về cuộc sống và số phận của người nông dân trong các cuộc đấu tranh của họ thông qua các sự kiện nổi bật trong tác phẩm của mình. “Người Vợ Nhặt Gạo” là truyện ngắn tiêu biểu của Kim Lân miêu tả sinh động nạn đói. Cái kết đặc biệt của câu chuyện tạo ra nhiều liên tưởng và đi sâu hơn vào chủ đề của tác phẩm.

Trong bữa cơm vào một ngày đói kém, người vợ nhặt gạo đã kể lại chuyện những người đói đột nhập vào kho gạo của Nhật và phân phát gạo cho những người cần. Tràng nghe chuyện đã mường tượng ra hình ảnh đoàn người đói khổ đi trên đê với lá cờ đỏ phấp phới. Hình ảnh này cùng với phần kết của truyện đã gợi nên những liên tưởng sâu sắc và củng cố nội dung tư tưởng của tác phẩm.

Hình ảnh đám đông đói khát và lá cờ đỏ sao vàng hiện lên trong tâm trí Tràng không chỉ gợi lên cảnh đói khổ cùng cực mà còn mang đến những tín hiệu rõ ràng của một cuộc cách mạng. Chỉ bằng cách đứng lên đấu tranh chống lại sự áp bức của người nghèo, các cá nhân mới có thể bảo vệ chính mình và những người thân yêu của họ. Kim Lân đã khéo léo khắc họa hiện thực xã hội thời bấy giờ qua cái kết mở của truyện.

Kết thúc của truyện Vợ Nhặt Được đánh dấu bởi tinh thần nhân đạo và niềm tin vào tương lai tươi sáng của con người. Kim Lân trân trọng sức sống mạnh mẽ của con người, ngay cả khi họ đang đối diện với cái chết, và thể hiện niềm tin mãnh liệt vào một tương lai đầy hy vọng khi cách mạng thành công và con người được giải phóng khỏi sự áp bức tàn nhẫn của phong kiến thực dân.

Trong hình ảnh đoàn người đói và lá cờ đỏ, ta có thể thấy tương lai đầy hy vọng của con người khi họ đứng lên bảo vệ cuộc sống của mình. Những cảm xúc và tinh thần tích cực được khắc họa và miêu tả trong câu chuyện, đem lại nhiều liên tưởng và suy ngẫm. Kết thúc mở còn gợi ra một âm hưởng lạc quan chung, tạo ra sự động lực tích cực và hy vọng cho cuộc sống. Câu chuyện này thực sự là một bức tranh tuyệt đẹp về tinh thần nhân đạo, hy vọng và sức sống của con người.

4. Phân tích đoạn kết Vợ nhặt

Mỗi câu truyện khép lại, là mở ra một thông điệp nhân văn, và là một bài học lớn mà mỗi cá nhân có thể tự đúc rút ra cho mình. Mỗi câu truyện sẽ có một quá trình sống riêng trong lòng người đọc, và truyện nào gây được tiếng vang và trụ vững với thời gian, ấy ắt hẳn là một tác phẩm hay. Ta không thể không nhắc đến điều đó khi nghĩ tới Vợ nhặt của Kim Lân. Một nhà văn tài hoa đã khắc họa lại rõ nét bối cảnh cuộc sống và bối cảnh tâm trạng của người dân lúc bấy giờ. Và hơn hết, ta ấn tượng với kết truyện của vợ nhặt, đã mở ra cho ta một suy nghĩ mới thật đẹp.

Kim Lân vốn là một nhà văn có sở trường viết truyện ngắn, chuyện ông viết chủ yếu là về người nông thôn và đời sống của những người nông dân nghèo khổ. Và đặc biệt với ngòi bút hồn hậu, thông minh và hóm hỉnh của mình. Kim Lân đã viết ra vợ nhặt, đứa con tinh thần đầy tính nhân văn đã thành công xuất sắc.

Ta còn nhớ kết thúc của truyện ngắn Chí Phèo, nếu như sau cái chết của Chí, Nam Cao đã để cho Thị Nở nhìn xuống bụng và xuất hiện hình ảnh cái lò gạch cũ, và đó chính là một quy luật của hành trình nối tiếp hành trình, một Chí Phèo bố chết đi ngay sau đó sẽ có một Chí Phèo con ra đời. Sự áp bức, lặp đi lặp lại của chế độ phong kiến hà khắc với những Bá Kiến tiếp tục nắm ngôi, những bà ba sẽ còn mãi và lại xuất hiện thêm những anh chí phèo không có lối thoát. Thì với kết thúc truyện đầy tính mở của mình, Kim Lân đã để lại một ý nghĩa, thông điệp khác hẳn với cái nhìn của Nam Cao.

Nếu như Nam Cao là nhà văn lúc bấy giờ chưa được soi sáng bởi lí tưởng cách mạng. Thì Kim Lân lại là nhà văn đã tiếp xúc với tư tưởng cách mạng và biết được lối thoát cho người nông dân. Đó cũng chính là một điểm mới của Kim Lân so với nhà văn thời trước.

Tràng, một anh chàng khờ khạo lại dở tính, là người đến sống nhờ ở một miền đất khác, gọi “sang” là người xóm ngụ cư. Anh chàng xấu xí này lại tự nhiên “vớ” được một cô vợ và đem về sống chung. Truyện là những chi tiết, tình huống hết sức bất ngờ và éo le, kể về hành trình chính của anh cu Tràng, và qua đó cũng là nổi bật lên vẻ đẹp của những nhân vật khác, như bà cụ Tứ mẹ của chàng và cô vợ mới của anh, cũng được xem là một người dâu hiền vợ thảo. Và tự nhiên ta cảm thấy Chàng thật may mắn làm sao, một chàng trai như vậy cuối cùng cũng đã lấy được vợ, tuy cuộc sống chẳng thể nào khá hơn khi nhà vừa nghèo, lại phải nuôi thêm một miệng ăn nữa. Nhưng qua đó Kim Lân đã cho ta thấy một tình người thật ấm áp làm sao, dù cuộc sống có bộn bề và những khó khăn nối tiếp khó khăn, con người ta vẫn dành cho nhau sự quan tâm sẻ chia, một thái độ tích cực tìm đến chân trời của hạnh phúc. Và không nơi đâu có thể giam hãm được nó, tiếng gọi của sự hạnh phúc gia đình.

Cuối truyện, Kim Lân đã kể cho ta nghe về cuộc nói chuyện của người con dâu với Tràng và bà cụ Tứ. Có lẽ Thị là người phụ nữ ngoài xã hội, Thị đến từ đâu ta cũng không rõ, Thị như một con người bị vứt vẩn vơ ngoài đường, thế nên thị mới hỏi: “Ở đây vẫn phải đóng thuế cơ à?” và nhờ thông tin của mình, Thị kể: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc giang… người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy” và thật đúng là một tin quan trọng trong sự sống và cái chết của cái đói đang đe dọa. Chính nhờ điều này, đã khiến Tràng thầm nhớ tới cái hình ảnh “cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp.” rồi hắn tự nhiên thấy vẩn vơ, ân hận đâu đâu. Vậy hóa ra, là Việt Minh đã giúp người dân phá kho thóc của Nhật. Trong óc Tràng “vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…” vậy đấy, thật là một kết thúc mở, khẳng định ý nghĩa và niềm tin với cuộc sống. Vậy là dường như trong cái âm u của cuộc đời, cái u tối của kiếp người, đã có một mầm hy vọng nảy nở lên thật rồi. Dường như trong tương lai ta cũng có thể nhìn thấy hình ảnh anh Cu Tràng theo Việt Minh đi phá kho thóc của Nhật. Vậy là cuộc sống mới sẽ đến, và niềm tin sẽ đến, tương lai tươi sáng đang ở trước mặt họ. Kim Lân đã gieo vào lòng người một niềm tin và khát khao sống như thế đấy.

Hình ảnh kết thúc truyện, khi “trong óc tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” không chỉ mang một ý nghĩa nội dung mà còn khẳng định một ý nghĩa nghệ thuật độc đáo. Một xu hướng vận động tích cực được mở ra, dành thời gian để người đọc suy tưởng và phán đoán. Đã mang đến một âm hưởng lạc quan của cuộc đời, một trái tim ấm và nhen nhóm lên những mầm hy vọng tươi xanh.

Ý nghĩa của chi tiết kết thúc truyện thật độc đáo và ấn tượng. Từ đó truyện được mở ra một âm hưởng lạc quan và niềm tin tất thắng. Cảm ơn Kim Lân, và qua cách kết thúc truyện này ta còn biết rõ hơn về một nhà văn nhân đạo và tha thiết với con người là Kim Lân.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trong nhóm Lớp 12 thuộc chuyên mục Học tập của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
3 8.630
0 Bình luận
Sắp xếp theo