Top 4 bài phân tích tội ác của giặc Minh

Phân tích bản cáo trạng tội ác giặc Minh trong tác phẩm Bình Ngô đại cáo. Có thể nói đoạn 2 tác phẩm Bình Ngô đại cáo chính là lời tố cáo đanh thép của tác giả, tác giả đã chỉ ra những tội ác của giặc Minh đối với những người dân vô tội. Sau đây là dàn ý phân tích tội ác của giặc Minh, các bài văn mẫu cảm nhận của em về tội ác của giặc Minh, phân tích tội ác của giặc Minh siêu hay sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích cho các bạn học sinh khi làm bài viết về tác phẩm Bình ngô đại cáo.

1. Dàn ý Phân tích tội ác của giặc Minh

A. Mở bài:

Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm Đại cáo bình Ngô và nội dung đoạn trích.

B. Thân bài:

Tác giả vạch trần tội ác của giặc Minh với một trình tự logic:

- Tác giả chỉ rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh

+ Vạch trần luận điệu “phù Trần diệt Hồ” của giặc Minh (việc nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần chỉ là một nguyên cớ để giặc Minh thừa cơ gây họa, mượn gió bẻ măng)

+ Âm mưu muốn thôn tính đất nước ta vốn đã có sẵn, có từ lâu.

- Tác giả vạch trần những chủ trương cai trị phản nhân đạo của giặc Minh

+ Thu thuế khóa nặng nề.

+ Vơ vét sản vật, bắt chim trả

+ Ép người làm những việc nguy hiểm (dòng lưng mò ngọc, đãi cát tìm vàng,…).

- Tác giả tố cáo mạnh mẽ những hành động tội ác của giặc.

+ Hủy hoại cuộc sống con người bằng hành động diệt chủng, tàn sát người dân vô tội (nướng dân đen, vùi con đỏ,…)

+ Hủy hoại cả môi trường sống (Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ)

=> Đây là bản cáo trạng đanh thép về tội ác của giặc Minh

C. Kết bài:

Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích, nêu chủ đề của đoạn trích.

2. Phân tích Bản cáo trạng tội ác của giặc Minh chi tiết

Nguyễn Trãi là một trong ba danh nhân văn hóa của dân tộc được UNESCO công nhận, đồng thời là nhà quân sự lỗi lạc, nhà tư tưởng chính trị kiệt xuất của Việt Nam. Ông sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước rối ren, loạn lạc – nhà Trần suy yếu, nhà Hồ nhiễu nhương, lại phái quân cuồng Minh xâm lược, hoàn cảnh ấy càng thổi bùng lên tinh thần yêu nước vốn đã thấm nhuần trong tư tưởng truyền thống xuất phát từ dòng tộc. Sự cống hiến của Nguyễn Trãi lớn lao khôn tả, chẳng những là mưu sĩ với thần cơ diệu toán của khởi nghĩa Lam Sơn, ngòi bút của ông cũng góp phần quan trọng vào sự nghiệp đánh đuổi giặc ngoại xâm, đem lại thái bình cho nước nhà, điển hình là hai tác phẩm “Quân trung từ mệnh tập” và “Đại cáo bình Ngô”. Đặc biệt, tác phẩm “Đại cáo bình Ngô” được xem như “bản tuyên ngôn độc lập thứ hai” của dân tộc có giá trị cả về mặt chính trị, lịch sử lẫn văn học. Không những là áng thiên cổ hùng văn về tư tưởng tự chủ tự cường của dân tộc mà còn là bản cáo trạng luận tội giặc Minh xâm lược, chỉ rõ sự độc ác nhơ bẩn của chúng:

“…Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi…”

Đoạn hai của tác phẩm với những lí luận sắc sảo, đanh thép, chứng cứ xác thực, đã vạch mặt lũ ngoại xâm với mưu mô, thủ đoạn dơ bẩn và sự tàn bạo, độc ác của chúng.

Bằng biện pháp phóng đại, Nguyễn Trãi đã chỉ rõ những điều bại hoại nhân nghĩa, luân lí mà giặc Minh đã làm với dân tộc ta qua hình tượng “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội” và “Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”. Thực vậy, tội ác chúng gây ra nhiều không kể xiết đến nỗi ghi tạc chúng lên thân trúc Nam Sơn cũng chẳng hết, hình tượng này cho thấy sự căm phẫn lên đến tột độ của nhân dân đối với sự bạo ngược của quân xâm lược. Chẳng những quá đỗi tàn bạo, giặc Minh còn thi hành những chính sách hết sức nhơ bẩn, đê hèn và quỷ quyệt nhằm bẻ gãy ý chí dân tộc, tinh thần chiến đấu và âm mưu biến nước ta thành quận huyện, đồng hóa dân tộc ta thành người Hán và vĩnh viễn xóa sổ người Việt khỏi cõi trời đất. Chính vì lẽ ấy mà tác giả Nguyễn Trãi đã dành hẳn một phần lớn trong tác phẩm để đưa ra những lí lẽ, dẫn chứng hùng hồn nhằm luận tội lũ giặc tàn bạo và xảo quyệt.

Chính sử Việt Nam chép rất rõ về những chính sách cai trị vô cùng thâm độc trong ngót hai mươi năm đô hộ nước ta, song phần nhiều đều biên soạn dựa theo những bản ghi chép của Nguyễn Trãi, đặc biệt là “Đại cáo bình Ngô”, ấy cũng bởi mưu sĩ họ Nguyễn là người trực tiếp sống và chiến đấu trong giai đoạn nước ta bị giặc Minh xâm lược. Từ đó có thể thấy, những luận cứ trong bài đại cáo hết sức xác thực và giàu tính chiến đấu. Qua tác phẩm, tác giả đã tố cáo tội ác dã man của bè lũ xâm lược và bán nước:

“…Vừa rồi:

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà

Để trong nước lòng dân oán hận

Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa

Bọn gian tà bán nước cầu vinh…”

Từ đây, từng câu từng chữ trong tác phẩm đều như một nét mực châm phá nên bức tranh về bối cảnh loạn lạc của đất nước, vè sự xảo trá, “mượn gió bẻ măng” và nham hiểm của giặc Minh. Chúng sử dụng chiêu bài xâm lược “phù Trần diệt Hồ” với quân bài chủ chốt Trần Thiêm Bình nhằm mua chuộc quý tộc nhà Trần về phe chúng để đô hộ nước ta Những chính sách của chúng đều sặc mùi dối trả, phỉnh gạt:

“…Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế

Gây binh kết oán trải hai mươi năm…”

Chính từ đó, người đọc thấy rõ sự nhơ nhuốc, bại hoại nhân nghĩa và xảo quyệt không lường của bọn xâm lược:

“…Bại nhân nghĩa nát cả đất trời

Nặng thuế khóa sạch không đầm núi…”

Chung quy lại, mục đích duy nhất mà giặc Minh hướng đến khi gót giày chúng dẫm lên lãnh thổ Đại Việt là đô hộ và cai trị, âm mưu xóa sổ và thôn tính nước ta, vì lẽ đó nên những điều ngụy biện của chúng chẳng thể dối gạt nhân dân Việt Nam, và tội ác, thủ đoạn của chúng thật là “Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”

Sau khi chỉ rõ âm mưu và sự bẩn thỉu trong kế sách xâm lược của quân Minh, tác giả bắt đầu chuyển mạch ngôn từ và liệt kê hàng loạt tội ác của chúng:

“…Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ…”

Không từ thủ đoạn, quân xâm lược tàn sát người vô tội chẳng những nhằm thỏa mãn thú tính và bản chất hung tàn của chúng mà còn âm mưu diệt chủng dân nước Nam, ép những người không phục tùng chúng phải đi vào chỗ chết. Chẳng những vậy, đối với những cuộc đấu tranh chống lại sự tàn độc của lũ xâm lược, chúng chẳng ngại ngần dìm những cuộc khởi nghĩa vào bể máu, gây cảnh binh đạo. Chưa hết, giặc Minh còn ra sức vơ vét của cải, sản vật quý hiếm của nước Nam để thảo mãn nhu cầu vật chât, thú vui xa hoa vô lối của chúng bằng cách bóc lột, bức ép người Việt phải săn lùng sản vật để cống nộp bất chấp mạng sống:

“…Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc

Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng

Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi đặt cạm…”

Bằng biện pháp liệt kê, tác giả đã tài tình khắc họa về thảm cảnh tang tóc do chính sách cai trị tàn bạo và vô luân lí của giặc Minh gây nên. Không dừng lại ở đó, quân xâm lược còn thi hành hàng loạt biện pháp man rợ khác nhằm bóc lột sức lao động, vắt kiệt sinh khí của nước ta, đồng thời tàn phá kế sinh nhai của nhân dân:

“…Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ

Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng…”

Rồi thì:

“…Nay xây nhà, mai đắp đất, tay chân nào phuc dịch cho vừa

Nặng nề những nỗi phu phen

Tan tác cả nghề canh cửi…”

Tất cả những tội ác của chúng đều được vạch rõ và chứng minh bằng những chứng cứ xác đáng, không thể chối cãi, rồi dồn lại vào hình tượng đối lập giữa lũ giặc mọi rợ hùng bạn với người dân nhỏ bé bị chúng hành hạ, vắt kiệt sức lực, mồ hôi, máu và nước mắt:

“…Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bất no nê chưa thỏa…”

Bại hoại nhân nghĩa, trời bất dung, đất bất thứ là những thứ dùng để diễn tả về những tội ác đẫm máu của quân Minh trên đất Đại Việt. Tất cả đều được ngòi bút sắc hơn ngọn giáo của Nguyễn Trãi ghi tạc vào sử sách bằng giọng điệu uất hận nghẹn ngào kết hợp với biện pháp phóng đại, hình ảnh kì vĩ, vô tận, tội ác chồng chất bị phơi bày trong bản cáo trạng đẫm máu và nước mắt. ở đây, bản tuyên ngôn độc lập còn có giá trị như một bản tuyên ngôn nhân quyền, vạch rõ sự bại hoại nhân nghĩa của quân thù:

“…Lẽ nào trời đất dung tha

Ai bảo thân nhân chịu được…”

Tội ác mà thần bất dung, nhân bất thứ thì quả thật là “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội.”

Qua những phân tích nêu trên, hậu thế có thể thấy thảm cảnh chiến tranh tang thương đến nhường nào, từ đó ra sức đấu tranh vì một cuộc sống độc lập tự do cố gắng gìn giữ nền hòa bình dân tộc, chủ quyền cương vực lãnh thổ. Đồng thời, phải ra sức phấn đấu rèn luyện nhằm cống hiến và xây dựng quốc gia giàu đẹp, ấy vậy mới xứng đáng với non sông mà ông cha phải đánh đổi cả máu xương mới gìn giữa được.

Tóm lại, qua đoạn hai của “Đại cáo bình Ngô”, có thể thấy rõ sự tàn bạo, thâm hiểm, độc ác của giặc xâm lược, tất cả được khắc họa chi tiết nhờ nghệ thuật chính luận tài tình của Nguyễn Trãi. Qua đó, hậu thế thấy được giá trị của việc bảo vệ và gìn giữ non sông gấm vóc Việt Nam.

3. Phân tích tội ác của giặc Minh

Sau khi quân ta đại thắng, tiêu diệt và làm tan rã mười lăm vạn viện binh của giặc Minh, tướng giặc Vương Thông buộc phải giảng hòa, chấp nhận rút quân về nước. Cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, chấm dứt hai mươi năm thảm khốc dưới ách đô hộ của giặc Minh, mở ra kỉ nguyên hòa bình lâu dài cho dân tộc. Nguyễn Trãi thừa lệnh chủ soái Lê Lợi viết Đại cáo bình Ngô. Đây là một bản tổng kết về cuộc kháng chiến vĩ đại để báo cáo rộng rãi cho toàn dân được biết. Đại cáo bình Ngô được coi là “bản tuyên ngôn độc lập thứ hai" sau Thơ Thần của Lý Thường Kiệt, xứng đáng là áng “thiên cổ hùng văn” trong lịch sử văn chương nước ta.

Với nghệ thuật chính luận chặt chẽ và cảm hứng trữ tình sâu sắc, tác giả đã tố cáo tội ác tày trời của kẻ thù xâm lược, đồng thời ca ngợi sức mạnh thần kì của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Toàn bộ nội dung Đại cáo bình Ngô được triển khai trên cơ sở tư tưởng nhân nghĩa và chân lý về chủ quyền độc lập của nước Đại Việt.

Có một chi tiết xưa nay ít ai để ý nhưng thật ra nó rất có ý nghĩa, đó là tại sao Nguyễn Trãi lại gọi quân xâm lược nhà Minh là giặc Ngô và viết Đại cáo bình Ngô? Từ Ngô xuất hiện từ khi nhà Ngô đời Tam Quốc xâm chiếm và cai trị nước ta hết sức tàn ác. Sau đó, từ Ngô nhập vào vốn ngôn ngữ dân gian của Đại Việt và trải qua hàng nghìn năm, nó được dùng để chỉ quân giặc phương Bắc nói chung với thái độ khinh bỉ. Như vậy là Nguyễn Trãi đã cố ý dùng cách gọi mà nhân dân quen gọi để bày tỏ thái độ căm phẫn và coi thường của mình.

Nguyễn Trãi mở đầu bài cáo bằng đạo lí nhân nghĩa được xây dựng trên nền tảng là tư tưởng thân dân mà ông rất coi trọng:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Nhân nghĩa là mối quan hệ giữa con người với con người được xây dựng bằng tình thương yêu và đạo lí. Điều đáng nói hơn nữa là Nguyễn Trãi đã đưa vào tư tưởng nhân nghĩa một nội dung mới rút ra từ thực tiễn của lịch sử dân tộc. Theo ông, yên dân trước hết là phải trừ bạo để cho dân được sống yên lành, hạnh phúc trong một đất nước độc lập, hoà bình.

Trong bài văn này cũng như trong các tác phẩm khác của Nguyễn Trãi, không chỉ là dân đen, con đỏ chung chung mà đã cụ thể ra là manh, lệ (kẻ đi cày, người đi ở), là dân mọn nơi xóm làng, là nhân dân lao động ở khắp bốn phương đất nước. Giặc giày xéo đất nước đồng nghĩa với giày xéo nhân dân. Lo nước tức lo dân, thương nước tức thương dân, cứu nước tức cứu dân. Nước và dân là một.

Nhân nghĩa không còn hạn hẹp trong phạm vi đạo đức mà đã là một lý tưởng xã hội, một đường lối chính trị lấy dân làm gốc (dân vi bản) làm chỗ dựa. Vì thế phải chăm lo cho dân chúng được no ấm, bình yên.

Tư tưởng nhân nghĩa gắn liền với sự nghiệp chống xâm lược. Nhân nghĩa là chống xâm lược, chống xâm lược là nhân nghĩa. Như vậy là Nguyễn Trãi đã bóc trần luận điệu nhân nghĩa xảo trá của địch và phân định rạch ròi ta là chính nghĩa, giặc là phi nghĩa.

Dân tộc ta vùng lên chiến đấu chống xâm lược là phù hợp với đạo lí nhân nghĩa, cho nên sự tồn tại có chủ quyền độc lập của quốc gia Đại Việt cũng là một chân lý khách quan.

Sau đó, Nguyễn Trãi viết tiếp bằng giọng văn hào hùng, thể hiện lòng tự hào, tự tôn về đất nước có một nền văn hiến lâu đời:

Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.

Núi sông bờ cõi đã chia,

Phong tục Bắc Nam cũng khác.

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,

So hào hào kiệt đời nào cũng có

Đại Việt là một đất nước có cương vực, ranh giới rõ ràng (Tiệt nhiên định phận tại thiên thư - Thơ Thần), từ lâu đời đã song song tồn tại cùng các quốc gia phương Bắc. Phong tục tập quán cũng khác hẳn phương Bắc. Các triều đại vua Nam xưng đế, hùng cứ một phương, chứ không phải là chư hầu. Truyền thống văn hiến có tự ngàn năm cùng với hào kiệt đời nào cũng có đã khẳng định Đại Việt là quốc gia có chủ quyền độc lập, tự do.

So với bài Thơ Thần của Lý Thường Kiệt thì Đại cáo bình Ngô thực sự là một bước tiến dài của Nguyễn Trãi trong việc hoàn chỉnh khái niệm về quốc gia và dân tộc. Lý Thường Kiệt với bài Thơ Thần cũng nhấn mạnh chủ quyền dân tộc ở lãnh thổ riêng biệt, ở ý chí độc lập thể hiện trong việc xưng đế, trong sức mạnh đánh bại quân xâm lược để bảo vệ nền độc lập ấy. Nhưng Nguyễn Trãi đã nâng cao khái niệm đó lên rất nhiều. Các vua Nam cũng xưng đế chẳng khác gì các đời vua của Trung Quốc: mỗi bên xưng đế một phương, hoàn toàn ngang hàng, bình đẳng. Nguyễn Trãi cũng nói đến bờ cõi riêng biệt, nhưng không viện đến quy định của trời mà nói đến truyền thống văn hiến, tức nói đến nền văn hoá của con người sống trên bờ cõi đó, có nghĩa là nói đến một dân tộc với đầy đủ tư cách độc lập. Như vậy, chủ quyền của quốc gia Đại Việt là một chân lý tất nhiên, không có bạo lực nào xâm phạm nổi. Tác giả đã chứng minh cho đạo lí nhân nghĩa bằng chính những chứng cứ còn ghi trong lịch sử:

Vậy nên:

Lưu Cung tham công nên thất bại,

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.

Việc xưa xem xét,

Chứng cớ còn ghi.

Sự thất bại thảm hại của Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã Nhi được tác giả đưa ra để nhấn mạnh ý: Những thế lực phi nghĩa ắt phải tiêu vong, đồng thời khẳng định chiến thắng luôn đứng về phía những người đấu tranh cho chính nghĩa. Cách lập luận của Nguyễn Trãi trong đoạn này thật hùng hồn và sắc sảo.

Chỉ bằng hai mươi bốn câu, với những chi tiết cụ thể và nhận định khái quát, tác giả đã vẽ ra thảm cảnh của dân tộc Đại Việt dưới ách đô hộ của giặc Minh. Cả đất nước chỗ nào thịt da cũng như rướm máu, chỗ nào cũng vang lên tiếng thét căm giận, oán than. Nguyễn Trãi đã viết nên một bản cáo trạng đanh thép kết tội bọn bán nước và quân cướp nước.

Trước hết, tác giả vạch trần âm mưu xâm lược, sau đó lên án chủ trương cai trị thâm độc và cuối cùng là tố cáo mạnh mẽ những hành động tội ác của giặc Minh:

Vừa rồi:

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,

Để trong nước lòng dân oán giận.

Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,

Bọn gian tà bán nước cầu vinh.

Nguyễn Trãi vạch trần âm mưu cướp nước Đại Việt của giặc Minh đã có từ lầu, đồng thời vạch trần luận điệu bịp bợm "phù Trần diệt Hồ”, để “mượn gió bẻ măng” của chúng. Việc nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần chỉ là một nguyên nhân, đúng hơn chỉ là một cái cớ để giặc Minh thừa cơ gây hoạ. Những từ như nhân (nhân dịp), thừa cơ đã góp phần phơi bày luận điệu giả nhân giả nghĩa của chúng. Điều đáng lưu ý là khi vạch rõ âm mưu xâm lược của nhà Minh, Nguyễn Trãi đã đứng trên lập trường dân tộc, nhưng khi tố cáo chủ trương cai trị thâm độc và tội ác của giặc thì Nguyễn Trãi đứng trên lập trường nhân nghĩa:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

Ông đã tố cáo tội ác của chúng bằng hai hình ảnh rất ấn tượng: nướng dân đen, vùi con đỏ, vừa diễn tả một cách rất cụ thể tội ác man rợ kiểu trung cổ của lũ giặc, vừa mang tính khái quát như khắc vào bia căm thù để muôn đời người dân nước Việt nguyền rủa quân xâm lược bạo tàn.

Ở Đại cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi không đi sâu vào việc tố cáo chủ trương đồng hóa thâm độc mà tố cáo những chủ trương cai trị phản nhân đạo của giặc Minh. Chúng không chỉ vơ vét hết các sản vật quý báu mà còn bóc lột sức người, sức của bằng thuế má, phu phen, dâng nạp cống vật và huỷ hoại cả môi trường sống, tàn sát dân chúng vô tội không biết ghê tay. Người dân nước Nam sống trong tình cảnh bi đát đến cùng cực. Cái chết đợi họ trên rừng, dưới biển, đúng như lời bài cáo đã nêu:

Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,

Gây binh kết oán trải hai mươi năm.

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,

Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.

Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.

Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,

Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.

Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,

Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.

Đối lập với thảm cảnh của người dân vô tội là hình ảnh kẻ thù xâm lược hung hãn, man rợ: Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán. Câu văn đã khắc hoạ bộ mặt quỷ sứ khát máu của quân xâm lược.

Để diễn tả tội ác chất chồng của giặc và khối căm hờn sôi sục của nhân dân ta, Nguyễn Trãi đã kết thúc bản cáo trạng bằng hai câu văn mang ý nghĩa khái quát rất cao:

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.

Tác giả đã lấy cái vô hạn (trúc Nam Sơn) để so sánh với cái vô hạn (tội ác của giặc), dùng cái vô cùng (nước Đông Hải) để nói cái vô cùng (sự dơ bẩn của kẻ thù). Câu văn đầy hình tượng ấy đã giúp chúng ta cảm nhận sâu sắc tội ác của giặc Minh xâm lược. Dân tộc ta chỉ còn con đường duy nhất là đứng lên hành động:

Lẽ nào trời đất dung tha,

Ai bảo thần nhân chịu được?

Lời văn trong bản cáo trạng vừa hùng hồn, vừa thống thiết. Khi thì uất hận trào sôi, khi thì cảm thương da diết; lúc muốn thét thật to, lúc nghẹn ngào, căm tức. Tất cả cùng một lúc diễn tả những cung bậc khác nhau trong tâm tư tình cảm của Nguyễn Trãi. Đại cáo bình Ngô chứa đựng những nội dung thiết yếu của một bản "tuyên ngôn độc lập" bởi chính những nội dung đã phân tích ở trên.

Nguyễn Trãi đã phản ánh chân thực giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bằng bút pháp tự sự kết hợp với trữ tình. Tác giả đã khắc hoạ thành công hình tượng Lê Lợi trong buổi đầu dấy nghiệp đầy gian khổ:

Ta đây:

Núi Lam Sơn dấy nghĩa,

Chốn hoang dã nương mình.

Trong hình tượng Lê Lợi có sự thống nhất hài hòa giữa con người bình thường và thủ lĩnh nghĩa quân. Lê Lợi xứng đáng là linh hồn của cuộc khởi nghĩa bởi ông có khả năng tổ chức, tập hợp, đoàn kết mọi người, đồng thời có phẩm chất của một nhà quân sự, chính trị tài ba. Lê Lợi căm thù giặc sâu sắc và có quyết tâm cao độ để thực hiện lí tưởng đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi đất nước:

Ngẫm thù lớn há đội trời chung,

Căm giặc nước thề không cùng sống.

Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời;

Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.

Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh;

Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kĩ.

Những trằn trọc trong cơn mộng mị,

Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi.

Ngẫm thù lớn há đội trời chung, căm giặc nước thề không cùng sống là thái độ và chí hướng của lãnh tụ. Đau lòng nhức óc, nếm mật nằm gai, quên ăn vì giận... là sự rèn luyện, thử thách đối với bản thân, từ trái tim đến khối óc. Không phải một sớm một chiều mà là suốt mười mấy năm trời. Bởi vì trong tâm trí lúc nào cũng canh cánh mối lo toan cứu nước, cứu dân cho nên Lê Lợi luôn ở trong tâm trạng: Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi. Qua hình tượng Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã nói lên được tính chất nhân dân của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

Lúc đầu, so sánh tương quan lực lượng giữa hai bên thì ta yếu hơn giặc rất nhiều:

Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,

Chính lúc quân thù đương mạnh.

Buổi đầu của cuộc khởi nghĩa vô cùng gian nan, thiếu thốn. Lê Lợi và nghĩa quân đã phải vượt qua muôn ngàn khó khăn, gian khổ: Tuấn kiệt như sao buổi sớm, Nhân tài như lá mùa thu. Thiếu quân, thiếu lương nhưng nhờ tấm lòng cứu nước, nhờ tướng sĩ một lòng phụ tử mà cuộc khởi nghĩa đã vượt qua những khó khăn thử thách và ngày càng lớn mạnh, đủ sức tổng phản công giành thắng lợi.

Vậy sức mạnh nào đã giúp nghĩa quân Lam Sơn vượt qua những khó khăn nói trên? Trước hết, nghĩa quân có sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa, của ý thức dân tộc, của mục đích chiến đấu là nhằm mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, bảo vệ nền độc lập và truyền thống văn hiến lâu đời của quốc gia Đại Việt. Sau đó, yếu tố quan trọng quyết định thắng lợi của cuộc khởi nghĩa là tài trí mưu lược, phẩm chất anh hùng của Lê Lợi. Ông thể hiện rất rõ vai trò của một bậc minh chủ: căm thù giặc sâu sắc, tự tin, tự nguyện đặt vận mệnh của quốc gia, dân tộc lên vai mình.

Tội ác của giặc Minh trong Bình Ngô đại cáo.

Bình ngô đại cáo là “áng thiên cổ hùng văn” đầy khí thế của dân tộc ta một thời oanh liệt, ẩn trong đó là tài năng, là dấu ấn sâu đậm cho phong cách văn chương Nguyễn Trãi. Cùng theo dõi bài viết bên dưới để tường tận thêm những hành động tàn nhẫn, vô nhân đạo của giặc minh đã dày vò dân ta thông qua lời kể của tác giả.

4. Tội ác của giặc Minh trong Bình Ngô đại cáo

Mở bài phân tích về tội ác của giặc Minh trong Bình Ngô đại cáo

Kho tàng văn học Việt có vô vàng những tác phẩm, mỗi tác phẩm mang cho mình một giá trị nhất định. Song so bề lịch sử, lại có những áng văn hùng hồn khí thế dân tộc, đọc nó ta thấy được một thời chinh chiến hào hùng hiện lên trước mắt, ta cảm được cái rạo rực từ trong tim ta. Và trong số đó có “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi. Nói đến “Bình Ngô đại cáo” là nói đến một cột mốc lịch sử quan trọng của nước ta – đánh đuổi giặc Minh xâm lược. Tác phẩm được xem là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của nhân dân ta, là bài tổng kết đầy đủ nhất được viết bởi Nguyễn Trãi. Đọc “Bình Ngô đại cáo” ta ấn tượng với luận điệu và lý lẽ đanh thép của Nguyễn Trãi khi kể tội kẻ thù, làm người đọc cảm nhận rõ những đau thương mất mát mà đồng bào đã hứng chịu.

Thân bài về tội ác của giặc Minh trong Bình Ngô đại cáo

“Bình Ngô đại cáo” là tác phẩm để đời của Nguyễn Trãi, ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng đọc giả và sống mãi đến tận ngày hôm nay. Ông sinh ra trong thời đất nước loạn lạc, triều đình suy tàn thế nên ông hiểu rõ nỗi đau quê hương bị dằn xéo. Bằng cảm xúc chân thật và tài năng của mình, ông cho ra đời “Bình Ngô đại cáo”, để thay lời muốn nói, đó là lời kết cho một cuộc chinh chiến đã qua cũng là lời mở cho một thời kì mới bắt đầu. Thấm nhuần suốt tác phẩm là tư tưởng nhân nghĩa ở đời, là truyền thống và tinh thần Đại Việt.

Đọc tác phẩm, chắc hẳn bạn đọc sẽ trăn trở vì sao giặc Minh xâm lược nhưng ở tiêu đề lại là bình “Ngô”. Ngô là cách gọi chung của người nước ta ám chỉ giặc phương Bắc và quân tàn bạo, Nguyễn Trãi đặt tựa “Bình Ngô đại cáo” chính là thể hiện thái độ khinh thường và căm phẫn tột độ với quân giặc. Đồng thời biểu dương quân dân Đại Việt đã chiến thắng được kẻ thù xâm lược.

Từ lâu tư tưởng nhân nghĩa đã thấm sâu trong trí óc các nhà nho yêu nước, Nguyễn Trãi chỉ rõ “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời” để kể tội của chúng. Giặc Minh âm mưu cướp nước ta với luận điệu “Phù Trần diệt Hồ” thực chất đó chỉ là cái cớ để chúng dễ bày mưu tính kế chen chân vào Đại Việt. Song trong tác phẩm, Nguyễn Trãi đã vạch trần luận điệu xảo trá, gian dối của chúng “Quân cuồng Minh thừa cơ gây loạn” trong một câu thơ bảy chữ, Nguyễn Trãi đã tóm gọn được âm mưu của giặc. Từ đó, ta thấy được sự tài hoa trong việc lựa chọn từ ngữ chắt lọc, nhưng lại đủ ý, mỗi chữ kết hợp với nhau rất vừa vặn, vào trọng tâm vấn đề chứ không dài dòng.

Bình Ngô đại cáo - Áng thiên cổ hùng văn

Nếu ở câu trên tác giả đưa việc nhân nghĩa để mở đầu cho tội ác của chúng, thì ở các câu thơ dưới đây sẽ thể hiện một cách rõ nét nhất sự thú tính, man rợ của giặc Minh:

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.”

Hai hình ảnh táo bạo trong hai câu thơ đã khắc trong tim người Việt một vết thương rỉ máu muôn đời vì nỗi đau dân tộc. Độc ác thay chúng không chỉ vơ vét của cải, tài sản của nhân dân, chúng còn tàn nhẫn ra tay tàn sát người vô tội. Hình ảnh “dân đen” và “con đỏ” vừa cụ thể vừa sống động, làm hai câu thơ như có máu và nước mắt đang chảy, dường như trước mắt ta như hiện lên hình ảnh những sinh linh đang quằn quại đau đớn đến tột cùng. Đó là một trong số những tội ác mà chúng đã gieo rắc lên bờ cõi nước ta.

Nhưng đâu chỉ có thế, những tội ác tày trời của chúng còn được tác giả chỉ ra trong các câu:

“Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế

Gieo binh kết oán trải hai mươi năm

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời

Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.”

Ở đây, Nguyễn Trãi không hướng hoàn toàn người đọc đến chủ trương đồng hóa mất nhân tính của lũ giặc mà tố cáo chính sách cai trị vô nhân đạo của chúng. Vừa vơ vét tài sản,vừa thu thuế nặng đẩy nhân dân lâm vào cảnh khốn cùng, chúng vét sạch sành sanh không chừa lại chút gì, như thế chẳng khác nào đẩy dân ta vào chỗ chết. Ấy vậy mà trong hai mươi năm, nhân dân Đại Việt phải sống trong cảnh lầm than, khổ cực như địa ngục.

Bao nhiêu đó vẫn chưa thỏa mãn được lòng tham của bọn xâm lăng chúng bắt dân ta lên rừng xuống biển tìm bắt sản vật cống nạp cho chúng. Người bị ép xuống biển mò ngọc chết vì cá mập, thuồng luồng; người bị bắt lên núi đãi cát tìm vàng chết vì rừng sâu nước độc. Đến cả côn trùng cây cỏ nhỏ bé chúng cũng không tha, giăng lưới, đặt bẫy tàn sát hết thảy. Hậu quả để lại là sự mất mát không thể nào bôi xóa được, biết bao gia đình phải chịu cảnh vợ mất chồng, con mất cha – “Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng”.

Song song với những hình ảnh cùng cực của nhân dân, tác giả còn chỉ rõ bộ mặt quỷ ma của lũ giặc bất nhân tính “ Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán” câu thơ làm người đọc phải nổi hết da gà vì kinh sợ bộ mặt khát máu của lũ quỷ. Tội ác của chúng chẳng nơi nào có thể dung thứ, không biết bao nhiêu giấy bút ghi hết cho được: “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội/ Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.” Hai câu thơ mang ý nghĩa khái quát rất cao, tác giả dùng cái vô hạn để nói đến cái vô hạn, rồi tiếp tục dùng cái vô cùng để nói cái vô cùng.

Ở mặt nội dung “Bình Ngô đại cáo” là bản cáo trạng đầy đủ, chi tiết của Nguyễn trãi. Ở mặt nghệ thuật tác phẩm là một “áng thiên cổ hùng văn”. Nét nổi bật trong tác phẩm là giọng văn, lúc uất hận trào sôi, khi lại cảm thương tha thiết, rồi nghẹn ngào ấm ức. Trong hầu hết các câu thơ kể tội, tác giả đều sử dụng nghệ thuật liệt kê tài tình kết hợp cùng việc chọn lựa hình ảnh tiêu biểu đắt giá làm nên sự đặc sắc, gợi tả hình ảnh và cảm giác chân thực cho người đọc như được mắt thấy tai nghe. Với những lập luận sắc bén, lý lẽ của Nguyễn Trãi làm cho lũ giặc phải câm nín. Bởi bấy nhiêu đó đã quá đủ cho một dân tộc bị đọa đày phải vươn lên đấu tranh, khởi nghĩa, khởi nghĩa không chỉ đánh đuổi ngoại bang xâm lược, mà cuộc khởi nghĩa này còn là cuộc cách mạng giải phóng tự do cho dân tộc, giành lại quyền sống cho con người.

Kết bài về tội ác của quân Minh trong Bình Ngô đại cáo

Có thể trong mỗi chúng ta sẽ có một cảm nhận khác nhau khi đọc đoạn kể tội đầy máu và nước mắt này. Nhưng chắc chắn rằng khi bạn còn cảm thương, còn nhói đau nghĩa là trong tim bạn còn chảy dòng máu anh hùng, còn tồn tại tình yêu quê hương sâu nặng. Tác phẩm là bản cáo trạng đanh thép kể tội giặc Minh trong hai mươi năm gieo rắc đau thương trên đất Việt. Để có được một bản cáo trạng như thế không thể không kể đến công lao của Nguyễn Trãi, thật không thể không thán phục tài năng của ông cùng với sự hiểu biết sâu rộng.

Trong tác phẩm có sự đan xen kết hợp giữa hình ảnh khái quát mang tính tượng trưng và hình ảnh cụ thể, sinh động. Chính vì vậy, ta có thể tự hào nói với thế giới rằng, chúng ta tự hào về dân tộc, về lịch sử ta, nhờ đó chúng ta biết yêu thêm non sông đất nước, biết giữ gìn và phát triển đất nước phồn vinh, muôn năm.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tài liệu của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
1 4.264
Bạn có thể tải về tập tin thích hợp cho bạn tại các liên kết dưới đây.
0 Bình luận
Sắp xếp theo