Phân tích Nói với con khổ 2 (3 mẫu)

Phân tích bài Nói với con khổ 2 - Y Phương, một nhà thơ mang tiếng nói riêng rất đặc trưng của dân tộc Tày. Nói với con là một bài thơ hay và ý nghĩa về tình cha con thiêng liêng. Trong bài viết này Hoatieu xin chia sẻ đến bạn đọc dàn ý phân tích bài Nói với con khổ 2 kèm theo một số bài văn mẫu phân tích bài Nói với con khổ 2 hay và chi tiết giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống.

Phân tích Nói với con khổ 2

1. Dàn ý phân tích Nói với con khổ 2

1. Mở bài:

Giới thiệu tác giả, tác phẩm, khổ 2.

2. Thân bài:

a. Lời ca ngợi về đức tính cao đẹp của người đồng mình

- “Người đồng mình”: tiếng gọi thân thương, gần gũi chỉ những người sống cùng một vùng.

- Người đồng mình tuy sống trong vất vả nhưng mạnh mẽ, kiên cường:

+ “Cao đo nỗi buồn”, “xa nuôi chí lớn”: dùng chiều kích của không gian để thể hiện tâm hồn rộng mở, phóng khoáng, bền gan, vững chí của “người đồng mình”.

- Người đồng mình sống lạc quan, thủy chung với quê hương:

+ “Gập ghềnh”, “nghèo đói”, “lên thác xuống ghềnh”: những khó khăn mà người đồng mình phải trải qua.

+ “Không chê”, “không lo cực nhọc”: sức sống mạnh mẽ, tinh thần lạc quan và tấm lòng thủy chung với quê hương.

+ “Sống như sông như suối”: sống cuộc đời tự do, phóng khoáng.

- Người đồng mình mộc mạc nhưng giàu ý chí tự lập, tự cường, xây dựng quê hương

+ Cấu trúc: thô sơ da thịt – chẳng mấy ai nhỏ bé: người đồng mình mộc mạc, giản dị, chất phác, thật thà nhưng cốt cách không hề “nhỏ bé”.

+ “Đục đá kê cao quê hương” là ý chí xây dựng quê hương, xây dựng văn hóa, phong tục tập quán của người đồng mình

b. Mong ước của người cha qua lời tâm tình với con

- Lời căn dặn con hãy kế tục những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình.

- Tiếng gọi “con ơi” tha thiết, tâm tình, nhắn nhủ với con điều lớn lao nhất đó là lòng tự hào dân tộc và niềm tự tin bước vào đời.

- “Nghe con” lời nhắn chan chứa tình yêu thương, nỗi niềm và sự kì vọng của cha đối với con.

c. Đánh giá

- Về nội dung: Khổ thơ hai của bài thơ đã thể hiện niềm tự hào về phẩm chất của những người đồng mình và là lời căn dặn thiết tha đối với con của người cha.
- Về nghệ thuật:

+ Giọng điệu thơ thiết tha, trìu mến.

+ Hình ảnh mộc mạc, gần gũi, giàu chất thơ, vừa cụ thể vừa khái quát.

3. Kết bài:

Khẳng định giá trị khổ thơ, bài thơ.

2. Phân tích khổ 2 Nói với con ngắn gọn

Trong nền văn học Việt Nam, Y Phương là nhà thơ có phong cách sáng tác vô cùng độc đáo qua tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của người miền núi. Điều này đã được thể hiện rõ thông qua bài thơ “Nói với con”. Bài thơ là lời người cha nói với con về cội nguồn sinh dưỡng của con. Đặc biệt, qua khổ thơ thứ hai, tác giả đã ca ngợi sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của quê hương mình, mong con tiếp nối và phát huy truyền thống tốt đẹp đó.

Bằng lời nói giản dị, mộc mạc gợi bao yêu thương và gần gũi, trong khổ thơ thứ hai, tác giả đã tái hiện thành công vẻ đẹp của người đồng mình. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp điệp ngữ thông qua cụm từ “Người đồng mình” được lặp đi lặp lại nhằm khẳng định vẻ đẹp của “người đồng mình” chính là phẩm chất của quê hương. Đặc biệt, trong khổ thơ, cách tư duy giàu hình ảnh người miền núi đã được tác giả vận dụng qua câu thơ: “Cao đo nỗi buồn/ Xa nuôi chí lớn”. Bằng lối nói cân xứng, nhịp nhàng, đăng đối giữa hai câu thơ, kết hợp sử dụng những tình từ vốn để diễn tả khoảng cách không gian như “cao”, “xa”, nhà thơ Y Phương đã khắc họa thành công vẻ đẹp của “người đồng mình”. Đó là tầm cao của lối sống tâm hồn và ý chí nghị lực phi thường của người đồng mình. Dù cuộc sống phải trải qua nhiều khó khăn, cực nhọc, nhưng họ vẫn giữ được sự lạc quan cùng niềm vui:

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như núi

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc

Thông qua biện pháp tu từ điệp ngữ kết hợp hình ảnh so sánh cụ thể “Sống như sông như suối” cùng việc vận dụng các kiểu câu ngắn dài khác nhau, cuộc sống cùng phẩm chất của “người đồng mình” đã được khắc họa rõ nét. Dẫu phải trải qua nhiều khó khăn, “lên thác xuống ghềnh” nhưng họ vẫn sống khoáng đạt, mạnh mẽ như sông như suối. Đặc biệt là luôn giữ vững tinh thần lạc quan, niềm vui đối diện và vượt qua mọi thử thách, gian nan bằng ý chí, nghị lực và niềm tin để gắn bó với quê hương:

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục

Thông qua việc sử dụng động từ “tự đục đá kê cao”, câu thơ đã diễn tả hành động dựng nhà dựng cửa quen thuộc của người miền núi. Tuy nhiên, quê hương vốn là một khái niệm trừu tượng, bởi vậy hình ảnh trên còn là biểu tượng ẩn dụ cho tinh thần tự tôn, ý thức bảo vệ cội nguồn của đồng bào miền núi. Bằng sự lao động cần cù, nhẫn nại, họ đang làm nên những phong tục, tập quán tốt đẹp cho quê hương. Câu thơ đã chất chứa niềm tự hào của người cha khi nói về quê hương của mình.

Qua khổ thơ thứ hai, chúng ta còn thấy được ước mong của người cha. Qua câu thơ “Dẫu làm sao thì cha cũng muốn”, tác giả đã thể hiện mong muốn con hãy kế tục xứng đáng những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình. Đặc biệt, người cha mong muốn người con đem những truyền thống tốt đẹp của quê hương trở thành hành trang để con vững bước vào đời:

Con ơi, tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ nhỏ bé được

Nghe con

Bằng những hình ảnh cụ thể, mộc mạc cùng giọng điệu thiết tha, trìu mến, lời dặn dò, nhắn nhủ của người cha đã được thể hiện một cách trực tiếp. Dù con đường phía trước còn nhiều chông gai, và con người chỉ “thô sơ da thịt” nhưng con “không bao giờ nhỏ bé được”. Câu thơ thể hiện mong muốn người con luôn vững bước trên đường đời bởi hành trang của con có gia đình, quê hương, bởi trong tim con vẫn luôn ẩn chứa những phẩm chất quý báu của người đồng mình. Đồng thời, người cha mong con hãy tự tin bước vào đời, hãy kế tục và phát huy xứng đáng những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Lời cha dặn là lời gửi trao thiêng liêng là lời chuyển giao của các thế hệ người Việt Nam.

Như vậy, thông qua khổ thơ thứ hai, tác giả Y Phương đã khắc họa thành công những vẻ đẹp, phẩm chất của con người, quê hương. Qua đó gửi gắm bức thông điệp về ý chí, nghị lực cùng niềm tin, ước mong con vững bước, trưởng thành và sống xứng đáng với quê hương. Tình yêu thương đối với người con đã hòa với tình yêu dân tộc, quê hương, tạo thành một tình cảm thiêng liêng, cao đẹp.

3. Phân tích khổ 2 Nói với con học sinh giỏi

Y Phương là một trong những nhà thơ dân tộc Tày nổi tiếng. Những bài thơ của ông thường thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ, lời thơ hay, giàu hình ảnh về những con người miền núi. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông phải kể đến bài thơ “Nói với con”, đây là bài thơ về tình cảm gia đình, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của con nguời, quê hương đất nước. Một trong những đoạn trích ấn tượng nhất là khổ thứ 2 của bài thơ. Đây là khổ thơ thể hiện lòng tự hào về sức sống mãnh liệt, bền bỉ, những truyền thống tốt đẹp cao cả của quê hương.

“Người đồng mình thương lắm con ơi

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn

Phân tích khổ 2 bài nói với con – Tác giả sử dụng cụm từ “Người đồng mình” cho thấy sự gắn bó, yêu thương cội nguồn của người dân nơi đây. Người đồng mình chính là người vùng mình, đây là tiếng địa phương của dân tộc miền núi, tiếng mẹ đẻ hay nói đúng hơn là tiếng của cội nguồn. Lời nói của cha dành cho con mới chân thành, tha thiết và tình cảm làm sao. Với cách gọi thân mật “người đồng mình” cha đang truyền cho con tình cảm, sự yêu thương và nhớ về cội nguồn dân tộc. Người cha cung mong con hãy biết trân trọng, giữ gìn những đức tính tốt đẹp, phẩm chất cao quý của dân tộc mình. Đặc biệt cụm từ “thương lắm con ơi” nghe tha thiết, tình cảm mà chân thành biết bao nhiêu. Khi đọc xong câu thơ này chúng ta có cảm giác như đang được nhìn thấy hình ảnh ánh mắt trìu mến của cha kể về con người, quê hương đất nước. Cảm giác cha dành cho quê hương, người quê mình là tình yêu nồng nàn, tất cả đều đáng yêu và đáng thương, đáng trân trọng. Câu nói “thương lắm con ơi”, tuy mộc mạc mà chân thành, đi vào lòng người.

Tình yêu của cha dành cho “người đồng mình” còn thể hiện qua sự thấu hiểu thương cảm với những vất vả khó khăn mà mọi người đang phải chịu. Đó là “cao đo nỗi buồn” – nỗi buồn quanh năm cảu người dân tộc nằm giữa mây đá, núi rừng. Họ thường xuyên phải xa bản làng, bước chân trải dài trên đỉnh non cao nguy hiểm, trắc trở vô cùng để có thể sống và tồn tại. Đó là nỗi vất vả, cái nghèo, cái đói vẫn còn đang bám lấy dân tộc mình. Để rồi, cha lại tự hào “xa nuôi chí lớn” khi nói với con. Người vùng mình tuy vất vả nhưng ai cũng mang trong mình một chí hướng lớn lao, nghị lực muốn bay cao bay xa hơn trong tương lai.

Chỉ hai câu thơ ngắn đã khẳng định niềm tự hào về phẩm chất tốt đẹp của dân tộc, tự hào về nghị lực sống của người dân nơi đây.

Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói”

Một lời chia sẻ chân thành tự tận đáy lòng người cha, đó là dù hoàn cảnh có khó khăn vất vả thế nào cha vẫn không “chê” quê hương, cha vẫn sẽ vượt qua. Đây chính là lời khẳng định về sự gắn bó nghĩa tình, thủy chung sâu nặng của “người đồng mình” với quê hương, dân tộc. Ba câu thơ sử từ ngữ rất giàu hình ảnh, gợi lên cho chúng ta một không gian sống đơn sơ, giản dị, nghèo đói. Đặc biệt, điệp từ “sống” và “không chê” cho ta thấy tấm lòng người cha son sắc biết bao nhiêu. Hoàn cảnh dù có nghèo đói, có khó khăn, có gập ghềnh thế nào cha cũng mong con hãy vượt lên tất cả bằng tất cả tình yêu và nghị lực của con.

“Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc”

Phân tích khổ 2 bài nói với con – Đây chính là lời nhắn nhủ, động viên con hãy sống mạnh mẽ như dòng sông, dòng suối, dù cho lên thác xuống ghềnh con cũng sẽ vượt qua mọi gian nan phía trước. Tác giả thật tài tình khi sử dụng những ngôn từ giàu hình ảnh và gắn liền với người dân tộc. Sông, suối, thác ghềnh đều là những hình ảnh quá đỗi quen thuộc đối với người dân tộc miền núi. Sử dụng những hình ảnh này để nói lên sự gian khó, vất vả đồng thời cũng ca ngợi sự kiên trì, nghi lực phi thường của người dân nơi đây. Cuộc sống không hề yên ả như mặt hồ thu, mà nó là “lên thác xuống ghềnh”, nhưng người dân nơi đây vẫn không sợ, họ sẵn sàng đương đầu với mọi thử thách phía trước. Đây chính là tâm ý mà người cha muốn truyền lại cho con.

Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục.”

Sang đoạn thơ này chúng ta càng thấy được lời khẳng định chắc nịch về người đồng mình. Hình ảnh người đồng mình hiện lên “thô sơ da thịt”, một vẻ đẹp bình dị, rắn rỏi, khỏe khoắn. Hình ảnh của người lao động, băng rừng vượt suối. Ngôn từ mộc mạc, giản dị lột tả đầy đủ vẻ đẹp bên ngoài của người dân tộc. Đặc biệt, hình ảnh bên ngoài đối lập hoàn toàn với bên trong “chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”. Nếu vẻ đẹp bên ngoài thô sơ, không hoàn mỹ thì ngược lại, vẻ đẹp tâm hồn lại được đề cao và lớn lao vô cùng. Người đồng mình ai cũng đều nuôi chí lớn, khát vọng sống một cuộc đời tươi đẹp và đủ nghị lực để thực hiện khát vọng đó. Không có ai là “nhỏ bé” – đó là sự nhỏ bé trong tâm hồn chứ không phải vẻ ngoài. Hai câu thơ được đặt cạnh nhau, đối lập nhau, càng tôn lên vẻ đẹp tâm hồn của người dân tộc miền núi. Họ sống giữa núi rừng bạt ngạt nên trái tim, tâm hồn và khát vọng cũng lớn lao như núi rừng vậy. Để rồi:

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục.”

Họ xây dựng quê hương đất nước bằng chính hai bàn tay của mình. Hình ảnh “đục đá” là một hình ảnh cho thấy một công việc vô cùng nặng nhọc vất vả, đòi hỏi sự kiên trì, nhẫn nại. Đây là hình ảnh ẩn dụ thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc, ý thức bảo vệ quê hương. Hình ảnh “đục đá” vừa mộc mạc chân thành mà giàu hình ảnh. Qua ý thơ, chúng ta có thể hình dung người dân lao động miền núi với khát vọng “đục đá kê cao quê hương” để tôn tạo lên vẻ đẹp văn hóa dân tộc, vượt qua bao thiên tai bão lu, bọm đạn hung tàn để giữ gìn và bảo vệ dân tộc. Và “Còn quê hương thì làm phong tục” càng khẳng định rằng, khi ta làm giàu cho quê hương, quê hương sẽ sẽ đem đến sự phát triển cho con người về đời sống, tinh thần và vật chất. Đây là hai câu thơ có sự gắn kết qua lại với nhau. Chúng ta xây dựng quê hương tốt đẹp chính là xây dựng cho mình một đời sống tinh thần, vật chất tốt hơn.

“Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ nhỏ bé được

Nghe con.”

Nhịp thơ chậm rãi chân thành, nghe như lời nhắn nhủ tha thiết từ trái tim người cha. Một lần nữa người cha khẳng định người đồng mình “thô sơ da thịt”, đó là hình ảnh đáng trân quý và tự hào. Hình ảnh của sự vất vả, lam lũ nơi núi rừng bạt ngàn. Hình ảnh khỏe khoắn, rắn rỏi của người dân lao động miền núi. Vẻ ngoài tuy không đẹp, tuy thô s, chân chất mộc mạc nhưng người cha nhắn con hãy nhớ, dù đi đâu, con cũng không bao giờ ngừng nuôi chí lớn, hãy luôn tự hào về quê hương dân tộc, hãy sống với khát vọng và đam mê. Người dân quê ta có thể nhỏ bé về vóc dáng, thô sơ về vóc dáng nhưng khí phách, tinh thần thì thật lớn lao. Sự đối lập giữa hình thể và tâm hồn càng khẳng định niềm tự hào về những con người dân tộc miền núi, càng cho thấy được tình yêu thương, tự hào của người cha dành cho quê hương.

Câu cuối “nghe con” nghe vừa nhẹ nhàng mà vừa dứt khoát như lời nhắn nhủ và khẳng định. Trên đường đời, dù con có đi đâu làm gì cũng hãy tự hào về dân tộc, về những con người của núi rừng, luôn mang trong mình khát khao, nghị lực, khí phách lớn lao.

Chỉ qua khổ 2 của bài thơ Nói Với Con chúng ta đã thấu hiểu phần nào những khát vọng lớn lao của người dân tộc miền núi. Bằng biện pháp miêu tả, ẩn dụ, đối lập tác giả đã vẽ lên một bức tranh về cuộc sống của người dân miền núi, khí phách, hiên ngang. Lời thơ giản dị, chân thành nhưng chạm đến trái tim bạn đọc, cảm nhận được tình yêu to lớn của người cha dành cho con hay chính xác hơn là dành cho quê hương đất nước.

4. Phân tích khổ 2 bài Nói với con

Lấy cảm hứng từ tình yêu thương con và ước mong thế hệ mai sau sẽ gìn giữ, phát huy những truyền thống của quê hương, dân tộc, nhà thơ Y Phương đã sáng tác bài thơ “Nói với con”. Bài thơ xuất phát từ tình cảm gia đình, mở rộng ra là tình yêu quê hương đất nước. Đặc biệt trong khổ thơ thứ hai, nhà thơ đã bộc lộ rất rõ niềm tự hào, kiêu hãnh về sức sống mạnh mẽ, đức tính tốt đẹp và truyền thống cao đẹp của quê hương, nhắn nhủ người con hãy phát huy truyền trống ấy.

Nếu như trong khổ thơ đầu là sự gợi nhớ về tình yêu thương của cha mẹ và sự đùm bọc của quê hương dành cho con thì đến khổ thơ thứ hai, người cha muốn nói với con về những đức tính cao đẹp của đồng bào mình, dặn dò con phải kế tục và phát huy một cách xứng đáng.

“Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”

Tiếng gọi “người đồng mình” sao mà thân thương, thân mật và gần gũi đến thế, trong phạm vi nhỏ đó là người cùng một bản, một vùng, rộng hơn đó là người cùng dân tộc cùng một đất nước. “Thương lắm” ở đây không chỉ đơn thuần là tình yêu thương mà còn chứa đựng sự đồng cảm, sẻ chia, giúp đỡ và đùm bọc lẫn nhau của con người. “Cao” và “xa” là khoảng cách của đất trời, cũng chính là những thử thách khó khăn mà người đồng mình phải chiến đấu. Người đồng mình tuy sống trong khó khăn, đói khổ nhưng biết cách vượt lên tất cả, vẫn nuôi chí lớn và không ngừng nỗ lực phấn đấu vươn lên.

“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”

Mặc dù đá gập ghềnh, mặc cho thung nghèo đói nhưng cha vẫn muốn sống ở nơi mảnh đất quê hương, không vì những thiếu thốn gian khổ mà chối bỏ hay chê bai quê hương. Ngược lại phải lấy đó làm động lực để biết phấn đấu, biết vươn lên trong cuộc sống, làm nên nghị lực phi thường trong hoàn cảnh khắc nghiệt. Sống như sông, suối nghĩa là sống một cách lạc quan và mạnh mẽ, sống thủy chung với quê hương, biết chấp nhận khó khăn và vượt qua khó khăn bằng chính niềm tin, thực lực của mình. “Người đồng mình” sống trong vất vả nhưng mạnh mẽ và khoáng đạt, gắn bó chung thủy với quê hương, chấp nhận mọi khó khăn, thử thách và chiến đấu hết mình với niềm tin và ý chí của mình. Lên thác rồi lại xuống ghềnh, không màng mệt nhọc mà chỉ vững tin vào ngày mai tươi sáng, khi đó mọi khó khăn, đói nghèo sẽ tan biến.

“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”

Hình ảnh người đồng mình “thô sơ da thịt” là ẩn dụ cho những cốt cách giản dị, mộc mạc, chất phác thật thà của người dân tộc. Tuy cũng chỉ là con người bình thường bằng da bằng thịt nhưng ý chí và tâm hồn của người đồng mình lại lớn lao chứ không hề “nhỏ bé”. Truyền thống đục đá kê cao nhà của người đồng mình mang ý nghĩa kê cao nhà cũng là kê cao quê hương, tự hào về quê hương và tự tay mình xây nên những truyền thống tốt đẹp làm cho quê hương giàu đẹp vươn lên. Ngược lại quê hương chính là cội nguồn cho những phong tục tập quán để nâng đỡ, làm động lực cho con người thêm tin yêu, tự hào.

“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con”

Tiếng gọi “con ơi” tha thiết, tâm tình, nhắn nhủ với con điều lớn lao nhất đó là lòng tự hào dân tộc và niềm tự tin khi con bước vào đời. Đã đến lúc con phải trưởng thành, rời xa quê hương để phát triển, đứng trước mọi hoàn cảnh, mọi khó khăn, con hãy vững tin và phải luôn tự hào với truyền thống của quê hương, hãy tự tin rằng mình không nhỏ bé mà phải vững bước trên đường đời. Hai tiếng “nghe con” là lời nhắn chứa chan tình yêu thương, nồi niềm và sự kỳ vọng con sẽ làm rạng rỡ, vẻ vang quê hương, đất nước.

Với giọng điệu thiết tha, trìu mến và đầy tình yêu thương, nhà thơ Y Phương đã thành công lan tỏa lời tâm tình của mình đến với mọi người. Hình ảnh “người đồng mình” vừa nổi bật lại thật thân thương trìu mến, ai cũng nhận ra mình cũng chính là “người đồng mình”. Từ đó thêm yêu quê hương đất nước, thêm sức mạnh để vươn lên trong cuộc sống, tự hào về truyền thống cao đẹp và vững tin sẽ xây dựng quê hương giàu đẹp bằng chính bàn tay của mình.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Học tập - Lớp 9 của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
3 5.663
0 Bình luận
Sắp xếp theo