Top 7 bài kể lại một trận đấu ác liệt mà em đã đọc đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh

Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh là nội dung bài viết số 2 lớp 9 đề 3 phần viết bài tập làm văn tự sự. Trong bài viết này Hoatieu xin chia sẻ mẫu lập dàn ý kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh cùng với các bài văn kể lại một trận chiến ác liệt lớp 9 sẽ giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo khi làm bài viết tập làm văn số 2 lớp 9.

Mời các bạn cùng tham gia group Bạn Đã Học Bài Chưa? để cập nhật các kiến thức mới bổ ích về học tập cùng với Hoatieu nhé.

1. Lập dàn ý kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh

kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh

a. Mở bài

Đất nước ta đã có bao nhiêu trận chiến đấu các liệt với những chiến công hiển hách.

Trận chiến đấu… đã để lại cho em những cảm xúc khó phai.

b. Thân bài

+ Kể khái quát về trận chiến đấu

Diễn ra vào năm nào? Ở đâu? Ở thời kì nào? Chống giặc ngoại xâm nào? Mục đích của trận chiến đấu?

Em đã được biết về trận chiến ấy từ ông (bà) kể lại hay sau khi học môn Lịch sử hoặc sau khi xem phim?

+ Kể lại diễn biến chính của trận chiến đấu qua các giai đoạn

- Chuẩn bị, phòng ngự.

Tấn công: tư thế chủ động, tinh thần dũng cảm, quyết chiến quyết thắng của quân ta; sự chống trả của địch…

Lưu ý: Kết hợp miêu tả tư thế, hành động của ta, của địch; tả quang cảnh của trận chiến… Khi kể, chú ý làm nổi bật vai trò của vị chỉ huy tài giỏi, anh dũng và một vài chi tiết thể hiện tinh thần quả cảm của quân ta.

- Kể lại kết quả của trận chiến đấu

Quân ta: chiến thắng (kết hợp với miêu tả không khí chiến thắng, nét mặt, nụ cười của những người lính) và những hi sinh mất mát… Quân địch: thất bại (kết hợp với miêu tả không gian hoang tàn sau trận chiến, hình ảnh những tên lính còn sống sót…)

+ Ý nghĩa của trận chiến đấu trong lịch sử

c. Kết bài

Cảm xúc, suy nghĩ của em về trận chiến đấu ác liệt ấy: Tự hào về lòng yêu nước của các thế hệ cha ông, về những trang sử vàng của dân tộc ta.

Suy nghĩ, liên hệ tới bổn phận của cá nhân và thế hệ sau.

2. Bài viết số 2 lớp 9 đề 3

Em đã từng được nghe rất nhiều những câu chuyện về lịch sử nước nhà, về những người anh hùng hào kiệt. Một trong những câu chuyện đó là cuộc khởi nghĩa của Lý Bí vào mùa xuân năm 542.

Lý Bí vốn là người gốc Trung Quốc nhưng sang nước ta lập nghiệp và từ lâu đã có lòng căm ghét bọn đô hộ phương Bắc. Nhà Lương đô hộ nước ta và siết chặt ách đô hộ bằng cách phân biệt đối xử với người Việt, chỉ có tôn thất nhà Lương và những người dòng họ lớn mới được giữ chức vụ quan trọng. Trước những chính sách cai trị hết sức tàn bạo cùng với hàng trăm thứ thuế vô lý, Lý Bí vốn làm quan giữ chức chỉ huy quân đội ở Đức Châu (Nghệ An - Hà Tĩnh) vì căm ghét đã từ quan về ở ẩn và ngấm ngầm lên kế hoạch cùng các hào kiệt trong vùng để nổi dậy. Khi Lý Bí phất cờ khởi nghĩa ở quê hương Thái Bình (mạn Sơn Tây) vào mùa xuân năm 542 đã được rất đông đảo hào kiệt khắp nơi hưởng ứng, nhờ đó mà chỉ trong chưa đầy ba tháng quân ta đã giành lại chủ quyền khắp các quận huyện. Trước sự hùng mạnh của nghĩa quân Lý Bí nhà Lương đã phải đưa quân sang đàn áp, nhưng quân ta lại chủ động lật ngược tình thế chủ động kéo quân lên phương bắc đánh bại quân Lương. Đến năm 543 quân Lương lại tiếp tục kéo quân sang đàn áp và quân ta lại một lần nữa cho thấy sức mạnh của mình, đánh một trận ác liệt khiến cho quân nhà Lương mười phần thì chết đến bảy, tám phần. Cuối cùng các tướng địch đã bị giết gần hết, Lý Bí lên ngôi vua lấy hiệu là Lý Nam Đế, thành lập nhà nước Vạn Xuân.

Cuộc khởi nghĩa của Lý Bí em cảm nhận được sự đồng lòng, ý chí đấu tranh kiên cường của nhân dân ta, vì căm ghét bọn đô hộ mà quyết tâm đi theo khởi nghĩa, quyết tâm giành lại độc lập, tự chủ.

3. Kể lại trận chiến Bạch Đằng

Năm 931, Dương Đình Nghệ đánh đuổi quân Nam Hán, giành lại độc lập cho nhân dân vùng Tĩnh Hải quân nhưng sau đó chưa lâu thì bị tướng Kiều Công Tiễn giết hại, âm mưu đoạt chức Tiết độ sứ. Nhận được tin dữ cha vợ bị tên giặc giết hại, Ngô Quyền tập hợp quân lính đem quân ra Bắc đánh tên nghịch tặc vì tội phản chủ. Nghe tin Ngô Quyền sắp đem quân ra đánh, Kiều Công Tiễn sợ hãi, chạy sang cầu cứu quân Nam Hán. Không bỏ lỡ cơ hội này, vua Nam Hán nhanh chóng tập binh lực lượng, giao cho con trai thứ chin là Hoằng Thao đem quân sang xâm lược một lần nữa.

Nhận được tin Hoằng Thao đem quân sang đánh, sau khi tập hợp các đạo quân chính nghĩa, Ngô Quyền mang quân tiến ra thành Đại La giết chết Kiều Công Tiễn – kẻ đã “cõng rắn cắn gà nhà”, rước giặc xâm lược bờ cõi nước ta. Ông nói rằng:

- Hoằng Tháo là đứa trẻ khờ dại, đem quân từ xa đến, quân lính còn mỏi mệt, lại nghe Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta lấy sức còn khỏe địch với quân mỏi mệt, tất phá được. Nhưng bọn chúng có lợi ở chiến thuyền, ta không phòng bị trước thì thế được thua chưa biết ra sao. Nếu sai người đem cọc lớn vạt nhọn đầu bịt sắt đóng ngầm ở trước cửa biển thuyền của bọn chúng theo nước triều lên vào trong hàng cọc thì sau đó ta dễ bề chế ngự, không cho chiếc nào ra thoát.

Các tướng lĩnh nghe theo chiến lược của Ngô Quyền, cho là phải lắm. Vừa lợi dụng được lòng hiếu chiến và non nớt của tướng địch, lại vừa có thể dựa vào sức mạnh thiên nhiên, thật không gì có thể tốt hơn được nữa!

Ngô Quyền nhanh chóng cho lính chặt những cây gỗ lớn nhất, chờ đến khi đêm xuống mới bắt đầu vát nhọn đầu, bọc sắt, chờ ngày ra trận. Bởi vậy mà mật thám quân thù không hề hay biết, chúng cứ ung dung tiến tới bờ cõi nước ta với thái độ ngông nghênh ngạo mạn.

Vào một ngày cuối đông năm 938, tại cửa sông Bạch Đằng, chiến thuyền của quân địch đã tới sát cửa sông. Hoằng Thao vừa đi vừa thét lớn:

- Giao Chỉ bé nhỏ này, chỉ một tay ta là ôm được tất!

Ngô Quyền cho lính bơi thuyền nhẹ ra khiêu khích. Giặc hối hả bắn cung, tốt gươm sáng loáng, ta vờ thua lui về phía thượng lưu. Thấy quân sĩ ta chỉ có thuyền nhỏ, quân lại ít, giặc tưởng có thể dễ dàng ăn tươi nuốt sống nên hùng hổ tiến vào. Ngô Quyền lại cho quân lùi sâu hơn nữa. Hoằng Thao hung hăng cho quân lính tiến theo, âm mưu giết sạch hết binh sĩ của ta nhưng không thể ngờ rằng hắn đã sa vào bẫy quân ta giăng sẵn! Chiều đã ngả, triều cường bắt đầu rút xuống rất nhanh. Thuyền giặc lớn nên bị mắc cạn, rơi vào thế “Tiến thoái lưỡng nan”, tiến không được mà lui cũng chẳng xong. Lúc này, Ngô Quyền mới hạ lệnh binh sĩ từ hai bên tả hữu sông Bạch Đằng sông ra đánh. Hoằng Thao hét lên:

- Binh sĩ đâu, tiến lên giành lấy đất Giao Chỉ cho ta!

Nhưng thuyền giặc sao có thể tiến thêm được nữa! Quân ta bơi thuyền nhỏ, xông ra tấn công kẻ thù dữ dội. Thuyền lớn của quân địch bị cọc đâm thủng hết, từng tên giặc lần lượt giơ kiếm đầu hàng. Quân Nam Hán thua chạy, còn Hoằng Thao đã tử trận cùng với nửa đám quân sĩ từ lúc nào. Thuyền giặc bốc cháy ngùn ngụt trên dòng sông Bạch Đằng, tiếng reo hò vang dội của quân sĩ ta vang lên. Đó là cái giá phải trả cho những kẻ đi cướp nước!

Vua Nam Hán đang cầm quân tiếp ứng ở biên giới, nghe tin con là Hoằng Thao đã tử trận bèn khóc thương rồi cho quân lui về. Từ ấy, nước Nam Hán không còn ôm mộng xâm lược nước ta nữa. Còn về phần Ngô Quyền, sau chiến thắng rực rỡ trên sông Bạch Đằng năm 938, trận thủy chiến oanh liệt của dân tộc ta, năm 939, Ngô Quyền xưng vương, lập ra nhà Ngô, đóng quân ở thành Cổ Loa.

Người đời còn nhắc tên vua Ngô Quyền với trận thủy chiến trên sông ấy mãi. Người ta nói rằng đó vừa là một vị tướng tài ba, lại là người am hiểu địa hình của đất nước, xứng đáng trở thành người đứng đầu cho một chính quyền còn non trẻ bấy giờ.

4. Kể lại trận đánh đồn Ngọc Hồi

Tôi là người lính trong nghĩa quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy của vua Quang Trung. Được tham gia trận đánh nên tôi thấy rất vẻ vang khi một đất nước nhỏ bé có thể đánh thắng khi quân địch vô cùng mạnh. Đặc biệt là trận đấu Ngọc Hồi- Hà Hồi đại phá quân Thanh. Sau đây tôi xin kể cho các bạn nghe về diễn biến trận đánh ấy mùa xuân Kỷ Dậu năm 1789.

Các bạn cũng biết hồi đó vua Lê Chiêu Thống sang cầu cứu nhà Thanh, nhân cơ hội đó Tôn Sĩ Nghị kéo hai mươi vạn quân Thanh đi thẳng vào Thăng Long xâm lược nước ta mà không tốn một mũi tên hạt đạn nào. Được tin đó Bắc Bình Vương- Nguyễn Huệ đã lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Quang Trung vào ngày 25 tháng Chạp năm 1788. Ngay hôm đó nhà vua đã mở một đội quân ra Bắc và tôi có mặt trong đấy. Có thể nói rằng đó là một cuộc lùi binh thần tốc. Chúng tôi đi suốt ngày đêm không nghỉ bằng chân bộ. Thật là không gì bằng sức con người.

Đêm 29 Tết đánh đồn sông Gián Khẩu và đến nửa đêm 30 Tết kế hoạch đánh đồn Hà Hồi. Là đồn nhỏ vua Quang Trung cho chúng tôi dùng mưu kế và trận đánh diễn ra nhanh chóng quân Thanh phải đầu hàng. Quả thực vua Quang Trung đúng là một người tài giỏi.

Nhưng khi đánh đồn Ngọc Hồi thì quả là khó khăn bởi đây là đồn lớn ở địa thế bằng phẳng, bảo vệ kinh thành Thăng Long, xây dựng kiên cố, đội quân tinh nhuệ đó là điều bất lợi về phía chúng ta. Vì thế mà ta đã phải chuẩn bị ba tấm ghép thành một bức lấy rơm dấp nước phủ kín mười người khiêng một bức, lung dắt dao ngắn dàn theo chữ “nhất” phía sau là đội quân binh tinh nhuệ chỉnh tề được vua Quang Trung trực tiếp chỉ huy.

Trận đánh diễn ra mờ sáng mùng 5 Tết khi mà màn sương mù vẫn chưa tan, mưa phùn quân Tây Sơn lặng lẽ bao vây đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh bắn mũi tên có lửa nhưng bị tấm ván cản lại làm vô hiệu hóa. Quân Thanh trong đồn dùng súng bắn ra nhưng không chúng một ai. Nhân lúc có gió Bắc hắn phun khói lửa, khói tỏa mù trời phòng làm quân ta hoảng sợ. Nhưng bỗng trời chuyển gió Nam thành ra quân Thanh tự hại mình. Thật là gậy ông đập lưng ông. Trong thành quân địch rối loạn. Thừa thế quân ta xông thẳng vào trong thành văng ván xuống đất. Khi giao gươm của hai bên chạm vào nhau thì ai nấy đều cầm giao ngắn chém bừa. Đội quân phía sau thấy thế xông lên. Khung cảnh lúc thế trận đấu thật là hỗn loạn, tiếng gươm giáo, tiếng la hét reo hò của nghĩa quân Tây Sơn họ tung hoành trên chiến trường dũng cảm. Vua Quang Trung uy nghi ngồi trên lung voi điều khiển ba quân tiến thẳng vào thành. Thật là một hình ảnh oai phong lẫm liệt.

Trong phút chốc quân ta đã chiếm đồn Ngọc Hồi. Sầm Nghi Đống thắt cổ tự tử. Thân nằm đầy đồng, máu chảy thành suối quân địch còn lại bỏ chạy toán loạn. Trưa mùng 5 Tết vua Quang Trung cùng đội quân tiến thẳng vào Thăng Long với tiếng gieo hò của nhân dân, sắc đào của hoa xuân, tiếng pháo nổ của ngày tết. Tôi rất khâm phục khi vua Quang Trung là người trí tuệ, có tầm nhìn chiến lược. Là một người chiến sĩ tôi cũng rất tự hào vì mình cũng góp một công sức để đem thắng lợi về cho dân tộc.

Giờ đây khi đất nước đã được thái bình tôi không hề quên được trận đánh vẻ vang đấy. Nghĩ lại thời đấy thì tôi vẫn rất buồn khi có nhiều người đã hi sinh, chúng tôi tự hào về cuộc chiến đấu của mình. Tôi mong rằng sau này đất nước sẽ không còn chiến tranh, mọi người có cuộc sống hạnh phúc. Trận chiến Hà Hồi - Đống Đa đã đi vào trang sử vàng của dân tộc, niềm tự hào của con cháu muôn đời.

5. Kể lại một trận chiến ác liệt lớp 9

Lịch sử quân sự Hoàng Mai còn ghi rõ những trận đánh trên mảnh đất kiên cường này trong những năm chiến tranh chống Mỹ. Trong những dòng lịch sử đó, có tên Đỗ Lương Bằng, có cả thế trận chiến tranh nhân dân.

Trung tá Trần Quốc Mỹ kể lại cho chúng tôi nghe về một trong những trận đánh tại trận địa pháo năm xưa. Giọng ông chậm rãi, đôi mắt rực sáng khi hướng về những chiến công năm ấy.

…13 giờ 15 phút, ngày 3/2/1966, một tốp máy bay trinh sát A3J và F4H từ phía biển bay vào Khe nước Lạnh trinh sát khu vực Hoàng Mai. 2 đơn vị cao xạ pháo C214, D14, F34, cùng với lực lượng chiến đấu kịp thời nổ súng bắn trúng chiếc máy bay A3J. Trúng đạn, chúng cố nhoài theo hướng Đông Nam để chuồn ra biển. Nhưng đến địa phận xã Quỳnh Liên, chiếc máy bay bốc cháy nghi ngút và rơi làm 3 mảnh.

Hai tên phi công nhảy dù xuống cách bờ biển khoảng 2.000m. Đài quan sát ở Hòn Ói lập tức báo tin: máy bay rơi ở tọa độ 200 07’, giặc lái rơi ở tọa độ 210 77’ 2". Cả vùng bãi Ngang không ai bảo ai đều hô to: “Máy bay địch cháy, bắt sống phi công bà con ơi”.

Các xã Quỳnh Liên, Quỳnh Bảng, Quỳnh Lương… đã phối hợp với lực lượng chủ lực, huy động mọi phương tiện vũ khí ra khơi bắt giặc lái.

Các chiến sĩ cảm tử trước khi ra đi đã gửi lại gói quần áo cho đồng chí mình và trao đổi nhanh: “Nếu tôi có hy sinh thì đưa lại cho bố, mẹ tôi và nói rằng tôi hy sinh vì đã hoàn thành nhiệm vụ…”, đội hình chiến đấu được triển khai theo hình chữ V, mỗi thuyền cách nhau 100m nhằm thẳng mục tiêu lướt tới. Trên bờ, lực lượng triển khai đội hình sẵn sàng phối hợp chiến đấu. Các thuyền, máng của các xã xung quanh được xuất phát.

Trong lúc chúng ta đang tiếp cận mục tiêu để bắt gọn 2 tên giặc lái, địch đã tổ chức đội hình ứng cứu, huy động đủ các máy bay chiến đấu: 2 máy bay A6A, 4 máy bay C123, 1 trực thăng và 5 tàu chiến trực cách bờ biển 20km, sẵn sàng ứng cứu, giải thoát cho phi công Mỹ.

Trong lúc thuyền áp sát mục tiêu, chúng cho bọn AD6 ồ ạt bao vây các thuyền. Các chiến sỹ cảm tử vẫn không hề nao núng, vẫn bám sát mục tiêu bao vây, khép chặt giặc lái. Hai thuyền chủ lực vượt trước, quay trở lại tạo thành thế gọng kìm, thuyền thứ 3 lao tới áp đảo nổ súng. 17 giờ 17 phút, ngày 3/2/1966, 2 tên giặc lái Mỹ: Hen Béc Rô Mác Rôn, Đại uý và Rôbét Hanson Trung uý bị bắt.

Ghi lại chiến công của những người lính cao xạ và toàn thể quân dân đóng quân trên địa bàn Quỳnh Lưu ngày 3/2/1966, Đỗ Lương Bằng đã viết vào nhật kí: “Ngày kỷ niệm thành lập Đảng tròn 36 tuổi, tối qua đơn vị phát động thi đua lập thành tích chào mừng ngày kỷ niệm thành lập Đảng, nhất là trong chiến đấu. Không khí thi đua sôi nổi hào hứng trong toàn đơn vị. Vừa hết giờ nghỉ trưa. Tiếng động cơ xuất hiện hướng 14. Lúc này là 13 giờ 5 phút, một máy bay phản lực A3J bay vào bắt mục tiêu ở cự ly 5000m và 4000m, đơn vị nổ súng. Đầu máy bay Mỹ bị bốc cháy vỡ thành 3 mảnh, cháy đỏ cả góc trời, rơi tại đất liền giữa tiếng hò reo ầm ĩ của nhân dân địa phương… bọn mình thật phấn khởi quá. Hò reo ầm ĩ cả trận địa. Chả là vì sau hơn 2 tháng, hôm nay mới nổ súng, lại bắn cháy ngay từ điểm xạ đầu”.

6. Kể lại bài học lịch sử Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán

Đêm đã rất khuya…

Ngoài trời, những vệt sáng mờ mờ đầu tiên của một ngày mới đã xuất hiện. Trong những xóm làng gần đó đã cất lên thưa thớt vài ba tiếng gà gáy vang vọng.

Sự yên lặng bao phủ toàn doanh trại. Các binh sĩ đều đã đi ngủ cả, chỉ nghe tiếng thở đều nhè nhẹ, tiếng cuốc kêu não nuột vang trong đêm vắng. Nhưng trong bóng tối và cái tĩnh mịch ấy, ở một góc trại, vẫn còn một ánh đèn sáng.

Bên chiếc đèn dầu gần cạn chỉ còn le lói, vị chủ tướng đang ngồi trầm ngâm, mắt đăm đăm nhìn về phía trước. Trên bàn, cuốn binh thư đọc dở nằm im như chờ đợi. Ánh sáng yếu ớt hắt lên khuôn mặt suy tư, đôi mày nhíu lại, chòm râu đen và đôi mắt sáng rực như hai vì sao. Đó chính là Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo. Làm cách nào? Làm cách nào? Trong đầu vị chủ tướng vẫn trăn trở câu hỏi. Chỉ còn một ngày nữa thôi, vào rạng sáng, đoàn thuyền chiến của Ô Mã Nhi sẽ xuôi dòng Bạch Đằng để rút về nước. Đây là thời cơ thuận lợi để quân ta phản công, để giải phóng đất nước. Thời gian đã gấp rút lắm rồi. Vậy mà ông chưa nghĩ ra cách đánh nào thích hợp, đảm bảo chiến thắng cho quân ta. Đánh địch đã khó nhưng chiến thắng chúng còn khó khăn hơn rất nhiều lần !

Trần Hưng Đạo chợt nhớ bài học lịch sử xa xưa - năm 938, Ngô Quyền đã đánh thắng quân Nam Hán… Đúng rồi, chỉ có cách đánh của Ngô Quyền mới thật là thượng sách. Trong ông luồng nhiệt huyết lại bốc cháy bừng bừng, ông thầm cảm ơn vị dũng tướng họ Ngô đã cho ông một ý tưởng. Vừa lúc đó, gà gáy báo trời đã sáng hẳn.

Trần Hưng Đạo ban lệnh toàn quân vào rừng đẵn gỗ làm cọc. Dân chúng cũng hồ hởi đi theo giúp. Họ đẵn những cây gỗ chắc khoẻ như lim hay táu. Cây đổ ầm ầm. Khắp nơi chỉ nghe tiếng rìu, tiếng cưa ồn ào, náo động. Người ta dùng dao, dùng rìu chuốt nhọn đầu những thanh gỗ thành những cọc nhọn cao quá đầu người, có cái cao đến hai trượng sáu, to đến nỗi một vòng ôm mới đủ. Đầu nhọn được lấy sắt bọc lại, lúc này mỗi chiếc cọc trở thành một thứ vũ khí vô cùng lợi hại cho những gì sẽ va vào nó.

Nhìn cảnh làm việc như vậy, Trần Hưng Đạo rất hài lòng. Ông sung sướng ngắm nhìn những chiếc cọc nhọn mà tin tưởng vào chiến thắng sắp tới. Sau khi cọc đã đủ, Trần Hưng Đạo cho đóng cọc xuống khúc sông gần ngã ba sông Chanh. Đây quả là một địa thế thuận lợi do thuỷ triều lên xuống nhanh và mạnh.

Tại đây, những người lặn giỏi như Yết Kiêu lại có dịp trổ tài. Ở trên, những thanh niên khoẻ mạnh ngồi trên thuyền, đưa những chiếc cọc nặng xuống dưới, cắm sâu vào lòng sông. Còn dưới mặt nước, những người thợ lặn đã chờ sẵn. Họ đỡ những chiếc cọc, thận trọng chỉnh lại hướng và độ vững chắc trước khi ngoi lên. Người đâm, kẻ đỡ thật ồn ào náo nhiệt.

Trên bờ, Trần Hưng Đạo ngắm nhìn trận địa cọc đang dần hình thành. Lúc này thuỷ triều đang rút, ta có thể nhìn thấy những cọc nhọn hoắt nhô lên trông thật nguy hiểm. Cọc này sát với cọc kia như bàn chông, đứng vững như bàn thạch, không hề suy chuyển khi bị những cơn sóng to ập vào. Ông mỉm cười sung sướng rồi đích thân chuẩn bị ở hai bên bờ. Những toán quân khoẻ mạnh, nhanh nhẹn được chọn ra. Những bùi nhùi, đá lửa, rơm rạ, dầu cùng những thứ dễ cháy đã được bà con dấu sẵn vào luồng lạch hoặc hai bên bờ những nơi lau lách um tùm rậm rạp gần đó để phóng hoả khi cần thiết.

Người làm việc nọ, kẻ giúp việc kia, thật khẩn trương nhưng vẫn chu đáo, cẩn trọng. Họ thi nhau đóng những chiếc thuyền nhỏ, nhẹ, bằng gỗ chuẩn bị cho cuộc tiến công.

Giữa lúc ấy, trên bờ những quân sĩ còn lại cũng không chịu ngồi yên. Họ rèn đúc khí giới, mài dao thêm sắc, mài gươm thêm nhọn, chuẩn bị cung tên. Nhóm thì đấu vật, nhóm thì đấu gươm. Tinh thần hăng hái không kể đầu cho xiết.

Thấm thoát đến chiều tối thì mọi việc cũng đã xong. Những quân sĩ vẫn chưa ngủ. Họ ngồi lại nghe một người đọc lại bài hịch của Hưng Đạo Vương: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng…”. Lời hịch vang lên khiến lòng người rạo rực, bừng bừng trong máu, trong tim. Doanh trại lại ồn ào tiếng múa gươm, múa kiếm sôi động nhộn nhịp. Tưởng như đang diễn ra một cuộc chiến đấu.

Trống đã điểm canh hai, tờ mờ sáng, bỗng gần cửa sông Bạch Đằng xuất hiện một đoàn thuyền chiến dài dằng dặc làm chật cả khúc sông. Những cánh buồm làm thẫm màu nước. Chiêng trống vọng ra ầm ầm như sấm, như sét… Quanh hai bên bờ không một bóng người. Lúc này thuỷ triều đang dâng lên cao, chỉ thấy mênh mông màu nước trắng xoá, những bụi lau lách ven bờ. Thỉnh thoảng vọng lại vài tiếng chim thưa thớt.

Trọng thuyền, Ô Mã Nhi đang nằm ung dung trên đệm gấm, mừng rỡ nói với các tướng: “Quân Trần thấy ta là sợ mất mật, còn sức đâu mà đánh!”. Y lại càng yên tâm hơn vì sắp ra đến biển rồi, quân ở đâu ra cũng khó cản đường một đoàn thuyền đông đúc! Thuyền chậm lại dần.

Bỗng dậy lên tiếng trống, tiếng chiêng đầy náo nức, vọng hết cả mặt sông. Từng đàn chim bay loạn xạ từ những bụi cây. Ô Mã Nhi giật mình chạy ra ngoài nhìn. Tiếng trống vẫn cứ rộn rã. Quân Nguyên đang ngơ ngác, bỗng thấy trước mặt xuất hiện một đoàn, thuyền nhẹ. Trên con thuyền dẫn đầu là tướng quân Nguyễn Khoái, tay cầm một thanh đao, thét lớn: “Ồ Mã Nhi, ta chờ mày ở đây lâu rồi, mày chạy đâu cho thoát”. Nguyễn Khoái đứng hiên ngang, thân thể cao lớn, vững như tượng đồng, cùng quân sĩ tấp vào thuyền giặc. Tiếng trống vang vang. Những mũi tên bay từ đâu tới tấp vào quân giặc. Ô Mã Nhi giơ khiên lên đỡ, cùng người tướng là Phàn Tiếp xông ra: Nhưng vừa đánh nhau một lúc, bỗng Nguyễn Khoái thét lớn với quân sĩ: “Anh em, sức giặc còn mạnh, người còn đông, chưa thể hạ được, chúng ta rút lui!”. Quân sĩ dạ ran. Rồi đoàn thuyền nhỏ chèo nhanh trở lại.

7. Kể lại trận chiến ác liệt Đại thắng mùa xuân Kỷ Dậu 1789

Mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789), quân của Nguyễn Huệ nước An Nam vượt sông Gián Thủy đánh bại quân phòng thủ của Lê Duy Kỳ (Lê Chiêu Thống), lại bắt toán quân Thanh tuần thám giết sạch. Ngày mồng hai, Tôn Sĩ Nghị được tin hoảng hốt ngự địch, ra lệnh Tổng binh Trương Triều Long mang ba ngàn quân tăng cường cho các đồn Hà Hồi, Ngọc Hồi để chống cự, lại ra lệnh cho Ðề đốc Hứa Thế Hanh mang một ngàn năm trăm tên, tự đốc suất một ngàn hai trăm tên để tiếp ứng. Quân Nguyễn Huệ tiến tới đông như ong, vây đồn bốn phía, đánh nhau một ngày một đêm, quân Thanh bị đánh tan bèn bỏ chạy.

Vào canh năm ngày mồng 5, Nguyễn Huệ mang đại binh tiến đánh, thân tự đốc chiến, dùng một trăm thớt voi khỏe làm tiên phong. Rạng sáng quân Thanh cho kỵ binh nghênh đón địch, ngựa bị voi quần kinh hãi bỏ chạy, quân rút lui vào trại cố thủ. Phía ngoài trại, lũy đầy chông sắt, bên trong bắn súng ra cự địch. Vào giờ Ngọ quân Nguyễn bắn hỏa châu, hỏa tiễn tới tấp; lại dùng rạ bó to lăn mà tiến đều, khinh binh theo sau, trước ngã sau tiến lên một lòng quyết chiến, tại các trại quân Thanh đồng thời tan vỡ, quân Nguyễn thừa thắng chém giết, quân Thanh tử thương quá nửa.

Ðề đốc Hứa Thế Hanh thấy thế lực nhiều ít rõ ràng, bảo gia nhân đem ấn triện Ðề đốc mang đi, rồi ra sức đánh, bị chết tại trận. Lúc này quân địch càng bị giết càng nhiều, chia cắt quân Thanh từng nhóm rồi vây kín. Thống soái Tôn Sĩ Nghị mất liên lạc với Hứa Thế Hanh và các đại viên Ðề, Trấn; bèn ra lệnh Phó tướng Khánh Thành, Ðức Khắc Tinh Ngạch mang ba trăm quân đoạt vây chạy về phía bắc. Khi tàn quân của Tôn Sĩ Nghị chạy đến bờ sông, thì số quân Thanh ba ngàn tên trú đóng tại bờ phía nam đã được Tổng binh Thượng Duy Thanh mang đi tiếp ứng cho Hứa Thế Hanh, bèn ra lệnh cho Tổng binh Lý Hóa Long vượt qua cầu nổi chiếm cứ bờ phía bắc, để tiện việc yểm hộ qua sông. Không ngờ Lý Hóa Long đi đến giữa cầu, trượt chân rơi xuống nước chết, số quân mang đi kinh hãi không biết làm gì. Tôn Sĩ Nghị ra lệnh Khánh Thành yểm hộ mặt sau bằng cách bắn súng điểu thương vào quân Nguyễn Văn Huệ đang truy kích, riêng mình tự mang quân theo cầu nổi lui về bờ phía bắc; rồi lập tức cho chặt đứt cầu nổi, cùng với bọn Khánh Thành rút lui về sông Thị Cầu.

Quân Thanh tại phía nam sông thấy cầu đã bị đứt chìm, không có đường về, bèn đánh trở lại thành nhà Lê. Các Tổng binh Thượng Duy Thăng, Trương Triều Long, Phó tướng Na Ðôn Hành, Tham tướng Dương Hưng Long, Vương Tuyên, Anh Lâm đều tử trận. Tri châu Ðiền Châu Sầm Nghi Ðống không được viện binh đành tự tử, số thân binh tự tử cũng đến hàng trăm. Quốc vương An Nam Lê Duy Kỳ vào lúc binh thua tới dinh Tôn Sĩ Nghị họp bàn, thấy Tôn Sĩ Nghị đã bỏ chạy, bèn hoảng hốt vượt sông chạy lên phương Bắc, đến đây nhà Lê diệt vong.

Nguyễn Huệ xua quân tiến vào thành, chiến bào mặc trên người nhuốm đen, do bởi thuốc súng. Ðề đốc Ô Ðai Kinh mang đạo quân Thanh tại Vân Nam xuất phát từ Mã Bạch quan vào ngày 20 tháng 11 năm ngoái, đến Tuyên Quang vào ngày 21 tháng 12; khi đến sông Phú Lương thấy cầu nổi bằng tre đã bị chìm đứt, nhìn sang bên kia bờ thấy lửa rực bốn phía, bèn triệt hồi Tuyên Quang, rồi lập tức lui vào trong nước.

Cuộc chiến vẫn còn tiếp tục, nhưng rõ ràng rằng phần thắng sẽ thuộc về những lý tưởng chiến đấu vì chính nghĩa. Tinh thần hy sinh và tài năng của dân tộc ta một lần nữa được khẳng định với bạn bè năm châu khi một lần nữa nhắc lại chiến công oai hùng.

8. Kể lại cuộc Tổng công kích - tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân (1968)

“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”

Những câu thơ mang hào khí, tinh thần quyết chiến của những con người trẻ tuổi trong cuộc kháng chiến chống Mĩ ác liệt. Họ có thể đánh đổi cả thanh xuân, tuổi trẻ, cuộc đời mình, làm những việc tưởng chừng như không thể chỉ để hoàn thành sứ mệnh của cuộc đời mình: giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong dịp 30/4 vừa qua, tôi đã may mắn xem được bộ phim tài liệu về cuộc Tổng công kích - tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân (1968) của quân và dân ta thời kì chống Mĩ.

Sau hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, sự tương quan lực lượng trên chiến trường miền Nam đã có sự thay đổi cho quân và dân ta. Đồng thời, lúc này ở Mĩ đang diễn ra cuộc bầu cử tổng thống Mĩ (1968) với những mâu thuẫn nội bộ đang xảy ra, ta chủ trương mở một cuộc tiến công và nổi dậy trên quy mô toàn miền Nam, chủ yếu tập trung vào các đô thị nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân Mĩ, đánh sập chính quyền ngụy và buộc Mĩ phải đàm phán và rút quân về nước.

Quân ta đã tập kích chiến lược vào hầu hết các đô thị trong đêm ngày 30 rạng sáng ngày 31 tháng 1 năm 1968 (trong giao thừa Tết Mậu Thân), mở đầu cuộc tiến công và nổi dậy. Qua ba đợt từ đêm 30 tháng 1 đến ngày 25 tháng 2; tháng 5 và tháng 6; tháng 8 và tháng 9 năm 1968 quân và dân ta ở miền Nam đã đồng loạt tiến công và nổi dậy ở 37/44 tỉnh, 4/6 đô thị lớn, 6/242 quận lị và ở hầu khắp các ấp chiến lược, các vùng nông thôn. Tại Sài Gòn, quân giải phóng đã tấn công vào các vị trí đầu não của địch, phá hủy một khối lượng lớn vật chất và phương tiện chiến tranh của chúng. Quả thực, chính kẻ địch cũng không ngờ được cuộc tiến công và nổi dậy của quân và dân ta trong khi thời khắc giao thừa vừa mới điểm. Có lẽ chính vì sự chủ quan ấy mà quân và dân ta mới nhanh chóng tiến hành được cuộc tiến công thần tốc ấy.

Trong mưa bom bão đạn và khói súng mù trời, những người con anh dũng của mảnh đất hình chữ S lao ra mặt trận. Súng nổ bên tai, thần chết theo sát từng bước chân nhưng các anh, các chị vẫn vững vàng, kiên quyết không hề run sợ. Bao nhiêu năm nằm gai nếm mật, cực khổ trăm bề mà gan không núng, chí không mòn, tất cả chỉ chờ đợi thời khắc phản công, tấn công bất ngờ khiến địch trở tay không kịp mà thôi.

Kết cục của mọi cuộc chiến tranh phi nghĩa là kẻ đi xâm lược thất bại thảm hại còn nhân dân yêu chuộng hòa bình và đánh đổi tất cả trong cuộc chiến tranh vệ quốc sẽ giành được chiến thắng vẻ vang. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã làm lung lay ý chí xâm lược của quân Mĩ, buộc chúng phải tuyên bố phi Mĩ hóa chiến tranh xâm lược, đồng thời cũng chấm dứt không điều kiện chiến tranh phá hoại miền Bắc. Quan trọng hơn nữa, Mĩ đã phải chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán ở Paris để bàn về việc chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Trận chiến ác liệt, dữ dội và cam go này cũng đã mở ra một bước ngoặt cho cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước ở Việt Nam.

Chứng kiến thời khắc lịch sử hào hùng của dân tộc và sự anh dũng, oai hùng của thế hệ thanh niên, cha ông trong quá khứ, tôi cảm thấy mình thật nhỏ bé biết bao. Họ đã hi sinh tất cả những gì mình có, chỉ để bảo vệ những gì họ yêu. Và trận chiến khốc liệt thời kì chống Mĩ, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy vào Tết Mậu Thân 1968 ấy chính là lời tuyên bố đanh thép của nhân dân Việt Nam trước những kẻ thù đang lăm le xâm lược nước ta. Giống như bài thơ thần mà Lý Thường Kiệt đã đọc bên sông Như Nguyệt năm nào:

“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ, lai xâm phạm
Như đẳng hành khan thủ bại hư”

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Học tập - Lớp 9 của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
8 8.062
0 Bình luận
Sắp xếp theo