Sự tích ông Táo ngày 23 tháng Chạp

Đã thành lệ, cứ ngày 23 tháng Chạp hằng năm, nhà nhà làm lễ cúng để tiễn Táo quân về trời tâu việc một năm của gia đình mình với Ngọc hoàng. Vậy tục lệ cúng Táo công có từ đâu? Trong bài viết này Hoatieu xin chia sẻ sự tích Táo quân cũng như ý nghĩa của tục lệ cúng ông Công ông Táo ngày 23 tháng Chạp, mời các bạn cùng theo dõi.

Thần Táo Quân trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có nguồn gốc từ ba vị thần Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ của Lão giáo Trung Quốc.

Nhưng được Việt hóa thành sự tích "2 ông 1 bà" - vị thần Đất, vị thần Nhà, vị thần Bếp núc. Tuy vậy người dân vẫn quen gọi chung là Táo Quân hoặc ông Táo.

Theo văn hóa truyền thống dân tộc, ngày 23 tháng chạp hằng năm, các gia đình đều chuẩn bị mâm cỗ thịnh soạn để tiễn ông Công ông Táo lên chầu trời.

Các vị Táo Quân quanh năm ở trong bếp, biết hết mọi chuyện hay dở tốt xấu trong nhà sẽ lên báo cáo tình hình của gia chủ năm qua với Ngọc Hoàng.

Phong tục thờ cúng ông Công ông Táo mang nhiều ý nghĩa nhân văn, hướng con người ta tích cực làm việc tốt, sống lương thiện.

1. Truyền thuyết ông Công ông Táo

Theo người Việt Nam, Táo quân là chức Ngọc Hoàng thượng đế trao cho ba người có mối tình thâm nghĩa nặng: nàng Thị Nhi và hai chàng Trọng Cao, Phạm Lang. Thị Nhi có chồng là Trọng Cao.

Tuy ăn ở mặn nồng tha thiết với nhau, nhưng mãi không có con. Vì vậy, dần dà Cao hay kiếm chuyện xô xát dằn vặt vợ.

Một hôm, chỉ vì một chuyện nhỏ, Cao gây thành chuyện lớn, đánh Thị Nhi và đuổi đi. Nhi bỏ nhà, lang thang đến một xứ khác và sau đó gặp Phạm Lang. Phải lòng nhau, hai người kết thành vợ chồng.

Phần Trọng Cao, sau khi nguôi giận thì quá ân hận, nhưng vợ đã bỏ đi xa rồi. Ray rứt và nhớ quay quắt, Cao lên đường tìm kiếm vợ.

Ngày này qua tháng nọ, tìm mãi, hết gạo hết tiền, Cao phải làm kẻ ăn xin dọc đường. Cuối cùng, may cho Cao, tình cờ tìm xin ăn đúng nhà của Nhi, nhằm lúc Phạm Lang đi vắng.

Nhi sớm nhận ra người hành khất thân tàn ma dại đúng là người chồng cũ của mình. Nàng mời vào nhà, nấu cơm mời Cao.

Đúng lúc đó, Phạm Lang trở về. Nhi sợ chồng nghi oan, nên giấu Cao dưới đống rạ sau vườn.

Chẳng may, đêm ấy, Phạm Lang nổi lửa đốt đống rạ để lấy tro bón ruộng. Thấy lửa cháy, biết Cao ở trong đó, Nhi lao mình vào tính cứu Cao ra.

Thấy Nhi nhảy vào đống lửa, Phạm Lang thương vợ cũng nhảy theo. Cả ba đều chết trong đám lửa.

Thượng đế thương tình thấy 3 người sống có nghĩa có tình nên phong cho làm vua bếp hay còn gọi là Định phúc Táo Quân và giao cho người chồng mới là Thổ Công trông coi việc trong bếp, người chồng cũ là Thổ Địa trông coi việc trong nhà, còn người vợ là Thổ Kỳ trông coi việc chợ búa.

Không những định đoạt may, rủi, phúc họa của gia chủ, các vị Táo còn ngăn cản sự xâm phạm của ma quỷ vào thổ cư, giữ bình yên cho mọi người trong nhà.

Trên cao Ngọc Hoàng thượng đế, đã chứng kiến hết câu chuyện nên phong cho 3 người mỗi người một chức vụ khác nhau:

  • Phạm Lang là Thổ Công trông lo việc bếp.
  • Trọng Cao là Thổ Địa trông nom việc nhà.
  • Thị Nhi là Thổ Kỳ trong nom việc chợ búa.

Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Hùng Vĩ cho biết, truyền thuyết về ba ông đầu rau của Việt Nam là một sáng tạo độc đáo. Từ ý nghĩa của những cái tên cũng nhiều ẩn ý thú vị.

Nàng Thị Nhi (Nhi ẩn nghĩa từ Hán Việt là nấu chín, nấu nhừ) lấy chàng Trọng Cao (Cao ẩn nghĩa là tinh bột, bánh bột, cơm).

Còn Phạm Lang thì Lang, còn âm đọc khách là Canh, nghĩa là món canh, người ta nấu chín thức ăn với nhiều nước.

Chỉ có thế, Cơm - Canh - Nấu chín, thật đơn giản và rất Việt Nam. Nhưng nó ẩn chứa một triết lí: Bếp lửa có thể nuôi chúng ta sống như lầm lẫn sơ suất cũng có thể tạo ra những bi kịch.

Mâm cỗ cúng Táo Quân ở miền Bắc

2. Ý nghĩa ngày ông Công ông Táo

Táo Quân trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có nguồn gốc từ ba vị thần Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ của Lão giáo Trung Quốc, nhưng được Việt hóa thành huyền tích "2 ông 1 bà" - vị thần Đất, vị thần Nhà, vị thần Bếp núc. Tuy nhiên hiện nay nhiều người vẫn quen gọi chung là Táo quân hoặc ông Táo.

Theo truyền thống từ xa xưa được truyền lại từ đời này sang đến đời khác, người Việt Nam quan niệm Táo quân sẽ lên trời và thưa với Ngọc Hoàng Thượng đế những sự kiện xảy ra trong năm vừa qua ở dưới trần gian.

Vì thế người Việt Nam làm lễ tiễn ông Công - ông Táo rất thịnh soạn với mong muốn những điều tốt đẹp nhất sẽ được thưa với Ngọc Hoàng. Những điều không may mắn hoặc không tốt sẽ được báo cáo nhẹ đi.

3. Nghi lễ cúng Táo quân

Sở dĩ Táo quân được dân gian kính trọng vì ngoài việc coi sóc bếp núc để nuôi sống con người, ngài còn theo dõi và ghi chép lại sinh hoạt tốt xấu của người trong nhà để cuối năm trình tấu với Ngọc hoàng. Theo sách “Kính Táo toàn thư”, “Táo Thần hưởng nhang khói của một nhà, gìn giữ sức khỏe cho người trong gia đình, theo dõi việc thiện ác của gia đình, tâu trình công tội của nhà đó” (thụ nhất gia hương hỏa, bảo nhất gia khang thái, sát nhất gia thiện ác, tấu nhất gia công quá). Với nhiệm vụ bảo hộ sinh mạng cho gia chủ nên Táo Quân còn được gọi là Tư mệnh Thần quân.

Trước kia, người Trung Quốc tin rằng báo cáo của Táo quân thường được đưa về trời lúc nửa đêm ngày mùng một hoặc ngày rằm mỗi tháng (có khi là ngày Canh và ngày Thân hoặc ngày tối trời của tháng âm lịch). Hiện nay, đa số tin rằng ngày báo cáo đó rơi vào 23, 24, hoặc 25 tháng Chạp, dựa theo quy tắc “Quan tam, dân tứ, đại gia ngũ”. Theo đó, những nhà quan chức quyền quý cúng tiễn Táo quân vào ngày 23, người dân bình thường cúng ngày 24 còn giới thượng lưu (đại gia) tiễn ngày 25. Nhưng thường dân gian cúng ngày 23 để “lấy hơi quan” cho nhà mình được phát đạt.

Lễ đưa tiễn ông Táo được gọi là lễ “Tống Táo”. Vào ngày đó, người Trung Quốc bày phẩm vật cúng Táo Thần tại bàn thờ gần bếp, gồm những thức vừa ngọt vừa dẻo như dưa hấu, kẹo mạch nha, kẹo kéo, bánh da lợn, mật ong, bánh nếp…, dụng ý để cho thức ăn ngọt khiến Táo Thần về trời chỉ tâu những điều tốt lành “ngọt ngào” cho gia chủ. Thế nên có câu “Ngật điềm điềm, Thuyết hảo thoại” (Ăn ngọt ngọt, nói việc tốt) và câu “Hảo thoại truyền thượng thiên, Hoại thoại đâu nhất biên” (Lời nói tốt trình lên trời, Lời nói xấu gạt sang bên). Để “trám miệng” Táo Thần, người ta cũng dâng ngài một loại rượu riêng gọi là “Túy Tư Mệnh” (Ông Táo say). Ngoài ra còn có nước, cỏ khô và đậu nành làm thức ăn cho ngựa của Táo quân. Khi cúng tiễn Táo quân, gia chủ dọn bày phẩm vật, đốt hương, châm rượu, khấn vái cầu xin rồi châm rượu thêm hai lần nữa. Tiếp đó, gỡ hình Táo quân cũ, kèm với hình con ngựa và giấy tiền vàng bạc đốt chung. Khi đốt xong rồi, phải nhặt lấy ít tro đặt vào bình mang đến trước bàn thờ Táo quân khấn: “Thượng thiên ngôn hảo sự, hồi cung giáng bình an” (Lên trời tâu việc tốt, trở về ban yên lành). Nhiều gia đình đốt pháo cho thêm long trọng, náo nhiệt. Như vậy, việc cúng tế Táo Thần có ý nghĩa “cầu phước tránh họa”.

Sau lễ tiễn Táo quân, đến chiều ba mươi Tết (có nơi là đêm Giao thừa) hoặc ngày mùng bốn tháng Giêng, phải làm lễ đón ngài từ trời quay trở về với gia chủ, gọi là lễ tiếp Táo. Lễ này có thể long trọng không kém lễ tiễn nhưng cũng có thể rất đơn giản, chỉ cần treo hình Táo quân và hình con ngựa mới, tượng trưng là ngài đã trở về trấn thủ trong nhà để tiếp tục phù hộ và giám sát việc thiện ác trong năm mới.

Lễ vật cúng ông Táo

Ở Việt Nam, dân gian quan niệm ba vị Táo quân định đoạt phúc đức cho gia đình. Hằng năm, đúng ngày 23 tháng Chạp, các gia đình cúng tiễn ông Táo về trời, nhân tiện cúng gia tiên, nên ngày này gọi là "Tết ông Công". Trong số lễ vật, người miền Bắc (từ Nghệ An trở ra) thường cúng một con cá chép sống rồi thả ra sông hồ (phóng sinh). Có gia đình thả vào giếng hay bể, nuôi cá lớn với mong muốn cá trông coi gia đình luôn thịnh vượng, con cháu được đỗ đạt, làm ăn được hanh thông, bởi vì cá chép có thể hóa rồng để vượt qua chín tầng trời, đưa ông Táo gặp Ngọc hoàng. Hiện nay, nhiều gia đình sử dụng cá chép giấy có kèm sẵn trong bộ quan miện của ông Táo. Người vùng Nam Trung Bộ trở vào không cúng cá chép mà đốt giấy in mộc bản hình “cò bay, ngựa chạy”. Người dân ở đây thường dâng hoa quả, kẹo, bánh mứt... miễn là đồ ngọt. Món bánh thường là bánh cốm làm bằng bột nếp rang nở. Riêng miền Nam lại cúng món bánh mè (vừng) gọi là “thèo lèo”.

Lý do cúng cá chép là vì loại cá này được người Việt và người Hoa xếp đứng đầu trong các loại cá nước ngọt. Truyền thuyết cho rằng, cá chép có thể hóa thành rồng nếu vượt qua Vũ môn. Với người Trung Quốc, Vũ môn (hay Long môn) là hai mỏm núi đá đứng sừng sững hai bên bờ một khúc sông Hoàng Hà, như hình cái cửa. Cửa này trước chật hẹp, khi Hạ Vũ trị thủy mới đục phá cho rộng thêm ra, nên gọi là Vũ môn (cửa ông Vũ). Sách “Tam Tần ký” ghi: “Long Môn là nơi sóng dữ, cá khó vượt qua, nếu vượt qua được thì sẽ hóa rồng”. Còn theo sách “Thủy kinh chú”, tiết tháng ba, cá chép vượt qua được Long Môn hóa rồng.

Theo “Ðại Nam nhất thống chí”, nước ta cũng có Vũ môn ở dãy núi Khai Trướng (Giăng Màn) thuộc huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, là một dòng suối ba bậc. Tương truyền, mỗi năm đến tháng tư, mưa to, có nước nguồn thì cá chép ngược dòng vượt Vũ môn để hóa rồng. Vì thế, ca dao có câu “Tháng ba cá đi ăn thề/Tháng tư cá về, cá vượt Vũ Môn".

Với ý nghĩa này, người Việt dùng cá chép làm phương tiện tiễn Táo quân về trời, đồng thời cũng cầu mong sự thành đạt, thăng tiến.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tết cổ truyền - Tài liệu của HoaTieu.vn.

Đánh giá bài viết
3 511
0 Bình luận
Sắp xếp theo