Đáp án câu hỏi thi viết tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về CAND

hoatieu.vn mời các bạn tham khảo hệ thống câu hỏi và đáp án gợi ý trả lời làm bài dự thi cuộc thi viết tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về CAND nhân 70 năm Công an nhân dân học tập, thực hiện 6 điều bác Hồ dạy. Hy vọng các bạn sẽ làm bài dự thi thuận tiện và đạt kết quả cao.

Bản đăng ký Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh năm 2017

Bài thu hoạch học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

HỆ THỐNG CÂU HỎI

CUỘC THI VIẾT TÌM HIỂU TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CAND
NHÂN 70 NĂM CAND HỌC TẬP, THỰC HIỆN 6 ĐIỀU BÁC HỒ DẠY

(11/3/1948 - 11/3/2018)

1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG SỰ NGHIỆP GIỮ GÌN TRẬT TỰ, AN NINH

Câu 1: Phân tích cơ sở, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về CAND? Đánh giá giá trị và ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về CAND?

Câu 2: “Công an của ta là Công an nhân dân, vì dân mà phục vụ và dựa vào nhân dân mà làm việc” được trích trong tác phẩm nào của Hồ Chí Minh? Phân tích nội dung của câu nói nêu trên?

Câu 3: Trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của nhân dân trong sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh? Lực lượng CAND cần làm gì để phát huy vai trò của nhân dân trong giữ gìn trật tự, an ninh?

Câu 4: Vì sao trong bài nói chuyện tại Trường Công an Trung cấp năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn”?

Câu 5: Qua nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về CAND, đồng chí hãy chỉ ra những việc cần phải làm để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác nghiên cứu, tìm hiểu, học tập, tuyên truyền, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về CAND trong thời gian tới?

2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ CAND

Câu 1: Trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của người cán bộ, chiến sỹ Công an? Đồng chí cần phải làm gì để xứng đáng với vị trí, vai trò đó?

Câu 2: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh người cán bộ, chiến sỹ Công an phải có những phẩm chất nào? Vì sao Hồ Chí Minh lại yêu cầu cán bộ, chiến sỹ Công an phải có những phẩm chất đó?

Câu 3: Phân tích nội dung 6 điều Bác Hồ dạy CAND? Nghiên cứu, quán triệt và vận dụng tư tưởng đó có ý nghĩa như thế nào đối với việc thực hiện Cuộc vận động “Xây dựng người cán bộ, chiến sĩ CAND bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ”?

Câu 4: Trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng bộ máy CAND? Rút ra ý nghĩa đối với việc xây dựng bộ máy CAND hiện nay?

Câu 5: Đồng chí hãy trình bày những thành tựu và hạn chế của công tác xây dựng cán bộ và công tác cán bộ hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh? Nêu một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng cán bộ và công tác cán bộ CAND thời gian tới theo tư tưởng Hồ Chí Minh?

ĐỀ CƯƠNG GỢI Ý TRẢ LỜI

CUỘC THI VIẾT TÌM HIỂU TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CAND
NHÂN 70 NĂM CAND HỌC TẬP, THỰC HIỆN 6 ĐIỀU BÁC HỒ DẠY

(11/3/1948 - 11/3/2018)

1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG SỰ NGHIỆP GIỮ GÌN TRẬT TỰ, AN NINH

Câu 1: Phân tích cơ sở, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân? Đánh giá giá trị và ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân?

Ý 1: Phân tích cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân

  • Cơ sở thực tiễn

+ Thực tiễn cách mạng Việt Nam: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân được hình thành từ kinh nghiệm của Đảng trong việc tổ chức các đội tự vệ - tiền đề cho sự ra đời của Công an nhân dân Việt Nam: Trải qua từng bước phát triển của phong trào cách mạng, các đội vũ trang, tự vệ được xây dựng, từng bước hoàn thiện về mặt tư tưởng, tổ chức, chính trị và thể hiện vị trí, vai trò ngày càng quan trọng trong sự nghiệp cách mạng chung của cả dân tộc.

+ Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân là kết quả của sự tự tích lũy kinh nghiệm của bản thân Hồ Chí Minh trong quá trình hoạt động cách mạng: Hoạt động bí mật như một chiến sĩ điệp báo, đối mặt với rất nhiều loại mật thám, tình báo nhà nghề ở nhiều nước trên thế giới, Người càng nhận thức sâu sắc bản chất công an đế quốc và bọn tay sai thực chất là nanh vuốt của đế quốc thực dân, là lũ “đầu trâu mặt ngựa”. Thực tiễn đó cung cấp cho Hồ Chí Minh những kinh nghiệm và gợi ý về việc xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong tương lai: Chuyên môn phải phục tùng chính trị, Công an cách mạng, hoàn toàn khác Công an đế quốc, phải là lực lượng của nhân dân, phục vụ nhân dân chứ không phải để đè đầu cưỡi cổ dân...

+ Thực tiễn và kinh nghiệm trong xây dựng tổ chức bộ máy và hoạt động của lực lượng công an ở các nước trên thế giới: Các tác phẩm “Kinh nghiệm du kích Tàu”, “Kinh nghiệm du kích Pháp”, “Kinh nghiệm du kích Nga” được Quốc tế Cộng sản dùng làm tài liệu huấn luyện chứa đựng những kinh nghiệm to lớn của các nước trong đấu tranh chống phản cách mạng. Hồ Chí Minh rất chú ý đến việc học hỏi, vận dụng kinh nghiệm đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự, kinh nghiệm xây dựng lực lượng công an của các nước tiến bộ trên thế giới. Tuy nhiên, theo Người, việc học tập kinh nghiệm phải luôn luôn sáng tạo, phù hợp với thực tiễn đất nước.

  • Tiền đề tư tưởng - lý luận.

+ Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân là kết quả của sự kế thừa sâu sắc những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc: Truyền thống yêu nước; bài học lớn về tinh thần cảnh giác, bảo vệ bí mật quốc gia, bảo vệ độc lập dân tộc; bài học bảo vệ đất nước đi đôi với xây dựng, phát triển kinh tế, giữ yên bên trong, chủ động phòng ngừa ngay trong thời bình; bài học phải “yên dân”, “dựa vào dân”, “lấy dân làm gốc”...

+ Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân có sự tiếp thu tinh hoa văn hóa phương Đông: Tư tưởng “thân dân” của Nho giáo; tư tưởng từ bi, hỷ xả của Phật giáo...

+ Tư tưởng và văn hóa phương Tây: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghiên cứu các cuộc cách mạng dân chủ tư sản phương Tây, tiếp thu tư tưởng dân chủ pháp quyền qua các tác phẩm của Rútxô và Môngtétxkiơ... Người đã tiếp nhận tinh hoa của triết lý phương Tây, đặc biệt là tư tưởng dân chủ, tư tưởng về quyền của con người.

+ Chủ nghĩa Mác - Lênin: Là nền tảng tư tưởng, thế giới quan, phương pháp luận, tiền đề tư tưởng, lý luận trực tiếp của tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân.

  • Nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh:

+ Tinh thần yêu nước và nhiệt thành cách mạng: Đây là động lực thôi thúc Người ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc cho dân tộc Việt Nam.

+ Khả năng quan sát, phân tích, đánh giá thực tiễn một cách tinh tường, sáng suốt.

+ Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo.

+ Vốn kiến thức thực tiễn phong phú, đa dạng...

Ý 2: Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân

  • Thời kỳ trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945

+ Trải qua quá trình vừa học tập, khảo cứu, hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã nhận ra chế độ nhà nước tư sản thực chất là công cụ của giai cấp tư sản được sử dụng để áp bức, bóc lột nhân dân. Trong các nhà nước đó, bộ máy quân đội, công an, cảnh sát là tay sai, nanh vuốt của đế quốc, hà hiếp, áp bức dân chúng, “chúng nó là lũ đầu trâu, mặt ngựa”. Bộ máy đó chỉ bảo vệ lợi ích cho một nhóm người và đi ngược lại lợi ích của đại đa số nhân dân lao động.

+ Trong quá trình hoạt động cách mạng ở nước ngoài, qua khảo sát chế độ chính trị các nước dân chủ tư sản phương Tây, Hồ Chí Minh nhận thấy nhu cầu được sống trong an ninh là một trong những nhu cầu cơ bản của con người.

  • Thời kỳ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (năm 1954).

+ Ngay sau khi công bố Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 13-9-1945, Người ký Sắc lệnh số 33A/SL quy định về quyền hạn của Ty Liêm phóng và Sắc lệnh 33B/SL về trình tự, thủ tục khi bắt người của Sở Liêm phóng và Sở Cảnh sát. Để thống nhất công tác bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, ngày 21-2-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 23/SL hợp nhất Sở Cảnh sát và Sở Liêm phóng thành Việt Nam Công an vụ và đặt dưới quyền quản lý của Bộ Nội vụ.

+ Để đảm bảo cho các hoạt động điều tra tội phạm diễn ra theo đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, ngày 20-7-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 131/SL về tổ chức tư pháp Công an. Trong văn bản này, lần đầu tiên Hồ Chí Minh đề cập đến vấn đề luật pháp tố tụng hình sự và tổ chức điều tra hình sự nhằm quy định hành lang pháp luật cho các hoạt động điều tra, xét xử phân công, phân cấp điều tra, xét xử, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

+ Những vấn đề tâm huyết nhất đối với Ngành Công an đã được Hồ Chí Minh bày tỏ đầy đủ trong tác phẩm “Tư cách người Công an cách mệnh” với sáu điều dạy cụ thể hàm chứa nhiều vấn đề lý luận sâu sắc, vẫn còn nguyên giá trị cho đến tận ngày nay.

+ Trong “Thư gửi Hội nghị Công an toàn quốc”, tháng 01-1950, Người nhắc nhở: “Xây dựng bộ máy Công an nhân dân tức là Công an phải có tinh thần phục vụ nhân dân, là bạn dân. Đồng thời phải dựa vào các đoàn thể mà tổ chức và giáo dục nhân dân trong công việc phòng gian trừ gian, để nhân dân thiết thực giúp đỡ công an. Cách tổ chức công an phải giản đơn, thiết thực, tránh cái tệ quá hình thức, giấy má. Lề lối làm việc phải dân chủ. Cấp trên phải thường kiểm tra cấp dưới. Cấp dưới phải phê bình cấp trên. Giúp nhau kinh nghiệm và sáng kiến, giúp nhau tiến bộ. Tự phê bình và phê bình nhau theo tinh thần thân ái và lập trường cách mệnh. Phải hoan nghênh nhân dân phê bình công an, để đi đến hiểu công an, yêu công an, và giúp đỡ công an”.

+ Ngày 14-5-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 66/SL, chia Cục Tình báo Bộ Quốc phòng thành hai bộ phận: một bộ phận nhập vào Nha Công an thuộc Bộ Nội vụ và một bộ phận sáp nhập vào ngành quân báo Bộ Tổng tham mưu thuộc Bộ Quốc phòng. Sắc lệnh này cho thấy tư tưởng sáng suốt của Người trong việc phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của bộ máy tình báo bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và chức năng, nhiệm vụ bộ máy tình báo phục vụ các mục đích quân sự - chính trị.

+ Ngày 16-2-1953, Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 141/SL về việc đổi Nha Công an thuộc Bộ Nội vụ thành Thứ bộ Công an do một Thứ trưởng phụ trách. Những nhiệm vụ quan trọng nhất của Thứ bộ Công an được ghi rõ trong Sắc lệnh số 141/SL là: “Chống gián điệp, phản động ở trong nước để bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân, bảo vệ quân đội nhân dân, bảo vệ các đoàn thể nhân dân, bảo vệ kinh tế quốc dân; bảo vệ biên giới, chống đặc vụ và gián điệp quốc tế. Bài trừ lưu manh, trộm cướp, bài trừ các tệ nạn xã hội và giữ trật tự, an ninh trong nhân dân. Quản trị các trại giam, giáo dục, cải tạo phạm nhân”.

  • Thời kỳ bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước

+ Ngay từ ngày đầu tiếp quản Thủ đô Hà Nội (ngày 10-10-1954), bên cạnh “Lời kêu gọi nhân ngày Thủ đô giải phóng”, Hồ Chí Minh viết và cho công bố bài “Giữ gìn trật tự, an ninh”, đăng trên báo Nhân dân số 236 ra ngày 9 và ngày 10-10-1954. Người xác định: “Hiện nay, việc quan trọng nhất của Thủ đô là giữ vững trật tự, an ninh. Có giữ vững trật tự, an ninh thì nhân dân Thủ đô mới an cư lạc nghiệp. Giữ gìn trật tự, an ninh trước hết là việc của công an, bộ đội, cảnh sát. Nhưng chính quyền ta là chính quyền dân chủ, bất kỳ việc to việc nhỏ đều phải dựa vào lực lượng của nhân dân để phụng sự lợi ích của nhân dân. Việc an ninh trật tự càng phải dựa vào sáng kiến và lực lượng của nhân dân”.

+ Cũng trong những ngày trọng đại đó, Người cho đăng bài viết “Ổn định sinh hoạt” trên báo Nhân dân số 238 ra ngày 13 và 14-10-1954, trong đó giao nhiệm vụ rõ ràng cho lực lượng công an là: “Công an, tự vệ phải cố gắng giữ gìn trật tự, an ninh được vững chắc”.

+ Tháng 1-1956, tại Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 10, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rất rõ nhiệm vụ của lực lượng Công an nhân dân là: “Nhân dân ta có hai lực lượng. Một là quân đội để đánh giặc ngoại xâm, để bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn hòa bình. Một lực lượng nữa là công an để chống kẻ địch trong nước, chống bọn phá hoại. Có lúc chiến tranh, có lúc hoà bình. Lúc chiến tranh thì quân đội đánh giặc, lúc hòa bình thì tập luyện. Còn công an thì phải đánh địch thường xuyên, lúc chiến tranh có việc, lúc hoà bình lại càng nhiều việc... công việc công an phải thường xuyên, không phải có từng đợt, từng lúc”.

+ Ngày 27-8-1953, Hội đồng Chính phủ dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh đã quyết định đổi Thứ bộ Công an thành Bộ Công an. Tại Luật tổ chức Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được Quốc hội khoá II, kỳ họp thứ nhất thông qua ngày 17-7-1960, xác định Bộ Công an là một trong 30 bộ và cơ quan ngang bộ được cơ cấu trong Hội đồng Chính phủ.

Ý 3: Đánh giá giá trị và ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân?

  • Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc, là cơ sở để Đảng ta lãnh đạo xây dựng Công an nhân dân. Nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân ở chỗ: Hồ Chí Minh chủ trương xác định công an ta là Công an nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ, dựa vào nhân dân mà làm việc. Trong thực tiễn cách mạng, tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân đã được hiện thực hóa vào trong quá trình Đảng lãnh đạo Công an nhân dân và được thực tiễn chứng minh là đúng đắn, sáng tạo.
  • Tư tưởng Hồ Chí Minh định hướng cho lực lượng Công an nhân dân từng bước trưởng thành và phát triển.

+ Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân đã, đang và sẽ mãi là ngọn đuốc soi đường, chỉ lối, dẫn dắt lực lượng Công an nhân dân vượt qua mọi khó khăn, thử thách, luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự.

+ Trong suốt chặng đường lịch sử cách mạng Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân đã trở thành ngọn cờ dẫn dắt, “kim chỉ nam” cho mọi hành động của lực lượng Công an nhân dân.

+ Ngày nay, những bài học quý báu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn công an là cơ sở quan trọng để lực lượng Công an tiếp tục phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ, củng cố và phát triển lực lượng, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước, nhân dân. Những giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân chính là cẩm nang để mỗi cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân học tập, góp phần thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong tình hình mới.

Câu 2: “Công an của ta là Công an nhân dân, vì dân mà phục vụ và dựa vào nhân dân mà làm việc” được trích trong tác phẩm nào của Hồ Chí Minh? Phân tích nội dung của câu nói nêu trên?

Ý 1: Câu nói: “Công an của ta là Công an nhân dân, vì dân mà phục vụ và dựa vào nhân dân mà làm việc” được trích trong tác phẩm nào của Hồ Chí Minh?

Tác phẩm “Tư cách người Công an cách mệnh” Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng chí Hoàng Mai, Giám đốc Công an khu XII, vào ngày 11/3/1948.

Ý 2: Phân tích nội dung của câu nói trên

  • “Công an của ta là Công an nhân dân”.

+ Đây là Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt tên cho lực lượng Công an Việt Nam.

+ Hồ Chí Minh xác định nguồn gốc của Công an là từ nhân dân.

+ Hồ Chí Minh xác lập mối quan hệ máu thịt giữa công an và nhân dân.

+ Hồ Chí Minh xác định tính nhân dân, tính dân tộc của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam.

+ Là lời nhắc nhở của Người đối với toàn lực lượng Công an nhân dân về việc phải luôn gìn giữ bản chất giai cấp, tính nhân dân, tính dân tộc.

  • “Vì nhân dân mà phục vụ”.

+ Đây là một yêu cầu của Hồ Chí Minh đối với lực lượng Công an nhân dân phải thực hiện cho thật tốt.

+ Vì nhân dân mà phục vụ là mục tiêu cao nhất của sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự; mục tiêu cuối cùng của sự nghiệp cách mạng của dân tộc; khẳng định bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa.

+ Công an nhân dân phải không ngừng cố gắng, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, giữ vững an ninh, trật tự đấu tranh đập tan mọi âm mưu, hoạt động của các loại tội phạm bảo đảm sự ổn định cho xã hội để nhân dân an cư, lạc nghiệp; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân.

  • “Dựa vào nhân dân mà làm việc”.

+ Là mục tiêu, yêu cầu đối với lực lượng Công an nhân dân.

+ Nhân dân có lực lượng vô cùng to lớn, nghìn tay, nghìn mắt; là cội nguồn của mọi thắng lợi trong sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh.

+ Dựa vào nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh là điều kiện tiên quyết giúp lực lượng Công an hoàn thành nhiệm vụ.

+ Trong tư tưởng Hồ Chí Minh bảo vệ an ninh, trật tự biện pháp kỹ thuật là cần thiết, nhưng quan trọng nhất là biện pháp vận động quần chúng.

+ Vì vậy, Công an nhân dân phải “dựa vào nhân dân” mà làm việc.

Câu 3: Trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của nhân dân trong sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh? Lực lượng Công an nhân dân cần làm gì để phát huy vai trò của nhân dân trong giữ gìn trật tự, an ninh?

Ý 1: Trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của nhân dân trong sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh?

  • Giữ gìn an ninh, trật tự là nhiệm vụ của nhân dân

+ Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Mọi người công dân, bất kỳ già trẻ gái trai, bất kỳ làm việc gì, đều có nhiệm vụ giúp chính quyền giữ gìn trật tự, an ninh”. Trong lời chúc Tết năm 1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ nhiệm vụ của nhân dân ta và đặc biệt nhấn mạnh: “Đại đoàn kết, thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm, thi hành triệt để hiệp định đình chiến, tỉnh táo đề phòng đế quốc Mỹ và bè lũ phá hoại hòa bình". Người nhiều lần kêu gọi: “Ai nấy hãy làm tròn nghĩa vụ của người công dân, người chủ nước nhà; giúp chính quyền giữ gìn trật tự, an ninh”...

+ Theo Hồ Chí Minh giữ gìn trật tự, an ninh liên quan trực tiếp đến lợi ích của mỗi người dân, có giữ gìn an ninh, trật tự thật tốt thì nhân dân mới an cư, lạc nghiệp. Hồ Chí Minh khẳng định bản chất của Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân, tất cả lợi ích đều thuộc về nơi dân, mọi quyền bính của Nhà nước đều thuộc về dân. Song song với việc nhân dân thực hiện quyền lực, nhân dân cũng phải có nghĩa vụ, có trách nhiệm và có hành động thể hiện rõ vai trò là chủ và làm chủ qua việc có nhiệm vụ tham gia vào sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh.

  • Nhân dân là là cội nguồn của mọi sức mạnh trong sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh.

+ Nhân dân là điểm gốc, điểm cội nguồn sản sinh ra mọi sức mạnh trong sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh. Nghĩa là trong sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh mọi sức mạnh mà chúng ta có được đều xuất phát từ nơi dân, có nguồn gốc từ nơi dân. Người từng khẳng định “giữ gìn trật tự, an ninh trước hết là việc của công an, bộ đội, cảnh sát”. Sức mạnh mà hai lực lượng này có được theo Hồ Chí Minh không những do sự cố gắng trong học tập, rèn luyện, để nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng của từng cán bộ, chiến sĩ của các lực lượng đó, mà còn xuất phát từ phía nhân dân. Đối với lực lượng quân đội, Hồ Chí Minh cho rằng “nhân dân là nền tảng, là cha mẹ của bộ đội”. Đối với lực lượng Công an nhân dân, ngay từ năm 1948, Hồ Chí Minh đã có lời căn dặn, công an phải chú trọng tuyên truyền để cán bộ, chiến sĩ luôn hiểu rõ: Công an của ta là Công an nhân dân. Sức mạnh to lớn của công an có được là nhờ nhân dân, những chiến công hiển hách của lực lượng Công an nhân dân giành được là do sự đồng tình, ủng hộ, giúp sức của nhân dân. Vì lẽ đó, theo Hồ Chí Minh, nhân dân là cội nguồn sản sinh ra mọi sức mạnh của các lực lượng khác trong sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh.

+ Mọi thắng lợi trong sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh là xuất phát từ sức mạnh to lớn của nhân dân. Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “Nhờ sự hy sinh cố gắng của công nhân, ta đã khôi phục những xí nghiệp cũ và xây dựng một số nhà máy mới. Trật tự an ninh được giữ vững. Trường học mở thêm nhiều; bình dân học vụ phát triển mạnh. Đồng bào Tây Bắc và Việt Bắc đã thành lập tốt đẹp hai khu tự trị. Mặc dù gặp nhiều khó khăn gian khổ, đồng bào miền Nam ta vẫn giữ vững phong trào đấu tranh anh dũng đòi tự do dân chủ, đòi thống nhất nước nhà, thật xứng đáng là Thành đồng Tổ quốc”. Để tiếp tục nhấn mạnh vai trò của nhân dân, Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhờ sự cố gắng của nhân dân ta và sự giúp đỡ của các nước anh em, chúng ta đã vượt được nhiều khó khăn, thu được nhiều thành tích to lớn trong công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa, củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh trật tự. Đồng bào miền Nam thì anh dũng và bền bỉ đấu tranh cho hòa bình và thống nhất đất nước”.

  • Nhân dân vừa là chủ thể vừa là mục tiêu của sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh

+ Hồ Chí Minh cho rằng, trong sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh, nhân dân giữ vai trò chủ thể. Lý giải vấn đề này, Hồ Chí Minh nhấn mạnh, nhân dân là chủ thể của đất nước, chủ nhân của mọi quyền lực, nhân dân làm chủ, nhân dân là chủ, cho nên trong sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh, nhân dân cũng giữ vai trò chủ thể. Nhân dân vừa có quyền được biết và tham gia vào sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh. Bằng sức mạnh vô địch của mình và quyền lực có trong tay, nhân dân trực tiếp là người quyết định vận mệnh, tính mạng, tài sản của mình, thông qua việc tham gia vào sự nghiệp giữ gìn an ninh, trật tự. Nhân dân tham gia vào sự nghiệp giữ gìn an ninh, trật tự với tư cách là một chủ thể có vai trò quyết định sự thành công của sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh.

+ Theo Hồ Chí Minh, nhân dân là mục tiêu cao nhất của sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước vì dân, bao nhiêu lợi ích đều thuộc về nhân dân. Cho nên, lợi ích lớn nhất, đầu tiên của sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh phải thuộc về nhân dân.

  • Nhân dân - lực lượng quyết định sự thành công của sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh.

+ Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của công an, quân đội, dân quân tự vệ,... và là trách nhiệm, nghĩa vụ của toàn dân. Tuy nhiên, trong tất cả các lực lượng tham gia giữ gìn an ninh, trật tự, đủ sức mạnh, theo Hồ Chí Minh chỉ có lực lượng duy nhất có vai trò quyết định đến sự thành công hay thất bại của sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh đó là nhân dân.

+ Theo Hồ Chí Minh, nhân dân quyết định sự thành công hay thất bại của sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh trước hết là xuất phát từ số lượng đông đảo, to lớn của nhân dân. “Bác lấy một thí dụ: Công an có bao nhiêu người? Dù có vài ba nghìn hay năm bảy vạn đi nữa thì lực lượng ấy vẫn còn ít lắm bên cạnh lực lượng nhân dân. Năm vạn người thì chỉ có 5 vạn cặp mắt, 5 vạn đôi bàn tay...”. Nhân dân có sức mạnh to lớn. Lực lượng nhân dân ở khắp mọi nơi, địch không giấu được nhân dân, cái gì nhân dân cũng có thể nghe, có thể biết, có thể thấy; không âm mưu, thủ đoạn, hoạt động nào của địch có thể thoát được sự giám sát của nhân dân. “Mấy mươi vạn con mắt soi sáng, mấy mươi vạn lỗ tai nghe ngóng, thì bọn gian phi, côn đồ sẽ lòi mặt ra và sẽ phải cải tà quy chính dưới lực lượng to lớn của quần chúng”.

+ Đánh giá khái quát vai trò to lớn của nhân dân, Hồ Chí Minh đã nêu ra một luận điểm nổi tiếng: “Khi nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thi thắng lợi hoàn toàn”.

  • Giữ gìn trật tự, an ninh phải dựa vào nhân dân

+ Để khẳng định vai trò to lớn của nhân dân trong sự nghiệp giữ gìn an ninh, trật tự, Hồ Chí Minh đã nêu lên luận điểm mang tính nguyên tắc: Giữ gìn trật tự, an ninh phải dựa vào nhân dân. Trên cơ sở đó, Hồ Chí Minh đi tới kết luận: “Phải gần gũi nhân dân, dựa vào lực lượng của nhân dân, xa rời nhân dân thì tài tình mấy cũng không làm gì được”. Nhấn mạnh sự cần thiết phải dựa vào nhân dân trong sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh, trong Bài nói chuyện với đồng bào và cán bộ tỉnh Hà Giang, Hồ Chí Minh khẳng định: “Các đồng chí bộ đội, công an nhân dân và dân quân tự vệ giữ gìn tốt trật tự trị an. Đó là ưu điểm mà Bác thay mặt Đảng và Chính phủ khen ngợi các đồng chí. Nhưng các đồng chí chớ chủ quan khinh địch; mà phải luôn luôn nâng cao cảnh giác; luôn luôn đoàn kết giúp đỡ nhân dân, dựa vào lực lượng nhân dân; luôn luôn có quyết tâm khắc phục khó khăn để làm trọn nhiệm vụ. Đồng thời phải học thêm chính trị, văn hóa và nghiệp vụ để tiến bộ mãi”.

+ Hồ Chí Minh khẳng định sự cần thiết phải dựa vào nhân dân xuất phát từ âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch: “Một việc nữa, chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội thì bọn Mỹ - Diệm không muốn cho chúng ta thành công. Chúng âm mưu phá hoại ta bằng nhiều cách. Chúng còn bịa đặt tin đồn nhảm, phá hoại tinh thần nhân dân ta. Vì vậy toàn Đảng, toàn dân ta phải cảnh giác để đập tan âm mưu phá hoại của chúng, cố nhiên bộ đội, công an, dân quân là lực lượng bảo vệ chính, là những cơ quan trực tiếp phụ trách. Nhưng chỉ bộ đội, công an, dân quân thì chưa đủ. Phải dựa vào nhân dân, vì đông đảo nhân dân rất nhiều tai mắt, cho nên bộ đội, công an không những phải đoàn kết nội bộ, lại phải đoàn kết với nhân dân, dựa vào nhân dân, giáo dục nhân dân cảnh giác thì địch không làm gì được”.

+ Trong thư gửi Hội nghị tình báo vào tháng 8-1949, Hồ Chí Minh viết: “Tình báo cũng như mọi việc khác phải dựa vào dân. Tai mắt của người tình báo có hạn. Nhân dân có hàng chục triệu tai mắt. Việc gì họ cũng có thể nghe, có thể thấy, có thể biết. Vì vậy, tình báo phải cố gắng làm thế nào cho nhân dân giúp sức, thì sẽ thành công to”. Tại buổi nói chuyện với lớp Chỉnh huấn khóa II của Bộ Công an, Người nói: “Làm công an thì phải làm cho dân tin, dân yêu, dân ủng hộ. Có dựa vào nhân dân thì công an mới hoàn thành được tốt nhiệm vụ của mình. Nhân dân có hàng triệu tai mắt thì kẻ địch khó mà che giấu được. Nếu trong công tác, các cô, các chú được dân ủng hộ, làm cho dân tin, dân phục, dân yêu thì nhất định các cô, các chú thành công”.

+ Sự cần thiết phải dựa vào nhân dân trong sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh trong tư tưởng Hồ Chí Minh có mối quan hệ biện chứng. Một mặt, công an, quân đội muốn giữ gìn trật tự, an ninh thì phải dựa vào nhân dân; mặt khác, nhân dân phải luôn hết sức giúp đỡ công an, quân đội hoàn thành tốt nhiệm vụ. Người nói: “Vậy bộ đội, công an, dân quân tự vệ phải dựa vào dân, còn dân thì phải hết sức giúp đỡ và luôn luôn đề cao cảnh giác. Các cô, các chú hiểu chưa? Hiểu rồi thì phải làm cho tốt”.

+ Dựa vào nhân dân theo tư tưởng của Hồ Chí Minh là dựa vào tài năng của nhân dân, trí tuệ của nhân dân, sức sáng tạo vĩ đại của nhân dân để giữ gìn trật tự, an ninh. Đồng thời người cán bộ, chiến sĩ làm công tác giữ gìn trật tự, an ninh phải dựa vào nhân dân mà rèn luyện, dựa vào nhân dân mà chiến đấu, học hỏi ở nhân dân. Phát huy tài năng và trí tuệ của nhân dân, trong sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh.

Ý 2: Lực lượng Công an nhân dân cần làm gì để phát huy vai trò của nhân dân trong giữ gìn trật tự, an ninh?

  • Nâng cao nhận thức cho mỗi cán bộ, chiến sỹ trong toàn lực lượng về vai trò của nhân dân trong bảo vệ an ninh, trật tự;
  • Tuyên truyền cho mỗi người dân hiểu rõ về quyền và nghĩa vụ tham gia bảo vệ an ninh, trật tự;
  • Tăng cường đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia bảo vệ an ninh, trật tự;
  • Chú trọng xây dựng, phát triển và nâng cao chất lượng các hình thức tự quản, tự phòng, tự bảo vệ, tự hòa giải từ gia đình đến cộng đồng dân cư, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, nhà trường;
  • Chủ động phòng ngừa, tích cực đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hành động phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân của các thế lực thù địch;
  • Coi trọng phát huy vai trò của người có uy tín trong các vùng dân tộc và các chức sắc tôn giáo có uy tín để vận động nhân dân tham gia bảo vệ an ninh, trật tự;
  • Nghiên cứu tham mưu cho các cấp có thẩm quyền luật hóa rõ ràng, đầy đủ về quyền, nghĩa vụ, nội dung phát huy vai trò của nhân dân trong bảo vệ an ninh, trật tự;
  • Xây dựng và thực hiện tốt chế độ, chính sách khuyến khích, động viên, khen thưởng đối với nhân dân tham gia bảo vệ an ninh trật tự.

Câu 4: Vì sao trong bài nói chuyện tại Trường Công an Trung cấp năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn”?

  • Vì, Hồ Chí Minh thấu hiểu vai trò to lớn của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng.

+ Tiếp thu thế giới quan, phương pháp luận cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, bằng thiên tài trí tuệ, Hồ Chí Minh đã nhận thức đầy đủ, đúng đắn và toàn diện về vai trò, sứ mệnh lịch của nhân dân một cách toàn diện, hệ thống. Người khẳng định: “Cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người”. Hồ Chí Minh đánh giá nhân dân là lực lượng có sức mạnh vô địch, vô tận. Theo Hồ Chí Minh “lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai chiến thắng được lực lượng đó”. Người khẳng định: “Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại nổi”. “Phải dựa vào dân, dựa chắc vào dân thì kẻ địch không thể nào tiêu diệt được”. Nhất quán khẳng định vai trò to lớn của nhân dân, Hồ Chí Minh kết luận “có dân là có tất cả”.

+ Trong tư tưởng của Người, dân là gốc của nước, là cội nguồn của mọi sức mạnh của Đảng và của sự nghiệp cách mạng. Trí tuệ và năng lực sáng tạo của Đảng đều bắt nguồn từ quần chúng nhân dân. Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Công - nông là gốc của cách mệnh” bởi “công nông là tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc”. Trong quá trình phát triển của cách mạng, Người thường xuyên nhắc nhở: “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không làm nên”; “nước lấy dân làm gốc”; “Gốc có vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”.

  • Hồ Chí Minh cho rằng trong sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh nhân dân: Nhân dân là lực lượng quyết định thành công hoặc thất bại của sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh. Nhân dân là cội nguồn của mọi thắng lợi trong sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh. Lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh, trật tự phải dựa vào nhân dân. Nhân dân có lực lượng to lớn, vô địch; nhân dân có nghìn tai, nghìn mắt. Công an, quân đội, đoàn kết tạo thành thế thiên la, địa võng địch không thể thoát ra khỏi được.
  • Trong mối tương quan với nhân dân, theo Hồ Chí Minh lực lượng của công an vẫn còn ít lắm so với dân. Người từng nói: “Công an có bao nhiêu người? Dù có vài ba nghìn hay năm bảy vạn đi nữa thì lực lượng ấy vẫn còn ít lắm bên cạnh lực lượng nhân dân. Năm vạn người thì chỉ có 5 vạn cặp mắt, 5 vạn đôi bàn tay. Phải làm sao có hàng chục triệu đôi bàn tay, hàng chục triệu cặp mắt và đôi tai mới được”.
  • Hồ Chí Minh thấu hiểu, nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự là rất to lớn nên cần sức lực của nhiều người, riêng lực lượng Công an nhân dân thì chưa đủ. Người từng nói với Công an nhân dân: “Các cô, các chú là cán bộ cần phải nhận thức sâu hơn nữa. Phải thấy càng vĩ đại bao nhiêu thì càng gian khổ bấy nhiêu... Một cuộc thay đổi vĩ đại như vậy tất nhiên phải mất nhiều công sức”. Nói chuyện với bộ đội, công an và cán bộ trước khi tiếp quản thủ đô, Hồ Chí Minh căn dặn: “Việc nước là việc chung, mà việc thì rất nhiều, chỉ Bác cháu ta không làm hết việc đâu. Chúng ta phải dùng năng lực của mọi người”.

Vì vậy, Hồ Chí Minh khẳng định “Nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn”.

Câu 5: Qua nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân, đồng chí cần chí hãy chỉ ra những việc cần phải làm để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác nghiên cứu, tìm hiểu, học tập, tuyên truyền, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân trong thời gian tới?

Căn cứ vào vị trí, vai trò, trách nhiệm, đơn vị công tác, điều kiện thực tiễn của bản thân, đồng chí hãy chỉ ra những công việc cần phải làm sao cho thiết thực, phù hợp để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác nghiên cứu, tìm hiểu, học tập, tuyên truyền, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân trong thời gian tới.

II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ

Câu 1: Trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của người cán bộ, chiến sỹ công an? Đồng chí cần phải làm để xứng đáng với vị trí, vai trò đó?

Ý 1: Trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của người cán bộ, chiến sỹ công an?

  • Vị trí của người cán bộ, chiến sỹ công an

+ Đối với Đảng, Chính phủ:

Cán bộ, chiến sỹ công an có một vị trí là bộ phận cấu thành không thể tách rời của bộ máy Công an nhân dân, nằm trong Chính phủ, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam; “là người chuyên trách thi hành chính sách, phương châm của Đảng và Chính phủ cho tốt”.

+ Đối với nhân dân:

Trong mối tương quan với nhân dân, Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ công an giữ vị trí vừa là người lãnh đạo, hướng dẫn vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân.

Là đày tớ, theo Hồ Chí Minh: “Làm công an không phải làm “quan cách mạng”. Làm công an là để giữ trật tự an ninh cho nhân dân, xem xét tìm tòi âm mưu phản động làm hại nhân dân. Từ Chủ tịch nước đến giao thông viên cũng vậy, nếu không làm được việc cho dân, thì dân không cần đến nữa”.

Cán bộ công an còn là người lãnh đạo, hướng dẫn nhân dân trong sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh. Đây là một tư tưởng hết sức độc đáo, sáng tạo thể hiện giá trị nhân văn sâu sắc. Nhờ có sự lãnh đạo, chỉ huy, tổ chức, hướng dẫn của cán bộ công an, nhân dân mới có phương pháp, cách thức tham gia bảo vệ an ninh, trật tự hiệu quả, an toàn.

+ Trong mối tương quan giữa cán bộ công an với cán bộ bên ngoài lực lượng Công an nhân dân:

Hồ Chí Minh cho rằng, người cán bộ công an với người cán bộ ở các cơ quan, đơn vị, đoàn thể khác đều có vị trí ngang bằng nhau, là người “đồng chí”, không phân biệt hơn, kém và đều là “người đày tớ thật trung thành của nhân dân”, phải hết lòng hết sức phụng sự nhân dân, phụng sự Tổ quốc.

  • Vai trò của người cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân

+ Cán bộ công an có vai trò nòng cốt trong sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh được Hồ Chí Minh lý giải: Sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh tuy có sự tham gia của nhiều lực lượng, cơ quan, đơn vị, song giữ gìn trật tự, an ninh trước hết là nhiệm vụ của công an. Công an nhân dân là lực lượng chuyên trách, chịu trách nhiệm trước Đảng, Chính phủ, nhân dân về sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh. Cho nên, Công an nhân dân giữ vai trò nòng cốt.

+ Xuất phát từ vai trò nòng cốt của mình, đòi hỏi người cán bộ công an phải phát huy vai trò tiên phong trong mọi công việc. Hồ Chí Minh cho rằng: “Tiến lên chủ nghĩa xã hội phải có người, mà trong số người muốn lên chủ nghĩa xã hội thì cán bộ là đầu tiên và cốt cán”. Trong số những người cán bộ đó, người cán bộ công an là lực lượng tiên phong nhất, cần đi trước các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể khác: “Công an đi bước trước”.

Ý 2: Đồng chí cần phải làm gì để xứng đáng với vị trí, vai trò đó?

  • Nhận thức rõ vị trí, vai trò của người cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân.
  • Có những hành động thiết thực, cụ thể thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của bản thân và của đơn vị nơi công tác.
  • Không ngừng tu dưỡng phẩm chất đạo đức, tài năng, phong cách, nền tảng tư tưởng, chính trị, giữ gìn ý thức tổ chức kỷ luật theo tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
  • Không ngừng cố gắng học tập, tu dưỡng, rèn luyện để có những phẩm chất cần thiết cần phải có đối với người cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân theo lời chỉ dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
  • Chấp hành tốt kỷ cương, kỷ luật của Đảng, của Ngành, của đơn vị công tác; suốt đời hy sinh, phấn đấu vì sự nghiệp cách mạng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với chế độ và nhân dân.
  • Suốt đời phấn đấu, hi sinh vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước, vì cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân; tận tụy phục vụ nhân dân.

Câu 2: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh người cán bộ, chiến sỹ công an phải có những phẩm chất nào? Vì sao Hồ Chí Minh lại yêu cầu cán bộ, chiến sỹ công an phải có những phẩm chất đó?

Ý 1: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh người cán bộ, chiến sỹ công an phải có những phẩm chất nào?

  • Bản lĩnh chính trị vững vàng: Theo Hồ Chí Minh, bản lĩnh chính trị vững vàng của người cán bộ công an thể hiện rõ nét ở chỗ luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, Chính phủ, chế độ và Tổ quốc trong mọi tình huống, mọi điều kiện, hoàn cảnh dù đó là hoàn cảnh khó khăn nhất. Hồ Chí Minh chỉ rõ, cán bộ công an: “Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành”. Cán bộ công an phải phục tùng sự lãnh đạo tuyệt đối, nhất quán của Đảng từ trên xuống dưới, nhất định phải như thế. Bởi lẽ: “Đảng có lãnh đạo chính trị đúng thì chuyên môn mới đúng”, “nếu thoát ly đường lối chính trị của Đảng, thì dù khéo mấy cũng không kết quả”.
  • Lập trường tư tưởng rõ ràng, vững chắc: Theo Hồ Chí Minh, là việc cán bộ, chiến sỹ công an thấm nhuần tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Còn về phần cán bộ công an thì phải như thế nào?... Trước hết cán bộ phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa, lập trường phải rõ ràng, vững chắc đã”.
  • Có phẩm chất đạo đức cách mạng: Trước hết, theo Hồ Chí Minh cán bộcông an cần phải có những chuẩn mực đạo đức nói chung là: Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm; cần, kiệm, liêm, chính trí công, vô tư; Trung với nước, hiếu với dân... Song, do tính chất, nhiệm vụ, chuyên môn, nghiệp vụ của ngành công an có những đặc thù riêng, cho nên Người đã nhấn mạnh tới một số chuẩn mực đạo đức của người cán bộ công an đó là:

“Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính.

Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ.

Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành

Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép.

Đối với công việc, phải tận tụy.

Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo”.

  • Chuyên môn, nghiệp vụ giỏi: Theo Hồ Chí Minh, biểu hiện của chuyên môn, nghiệp vụ giỏi của người cán bộ công an là: “Phải nắm vững đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ”; “Phải nắm vững chính sách đối với đồng bào thiểu số”. “Về công tác: Phải đi sâu, phải thiết thực, phải điều tra nghiên cứu, không được chủ quan, tự túc tự mãn”; “Làm việc phải có điều tra, nghiên cứu, không được tự kiêu, tự đại. Phải toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân”; “phải luôn cảnh giác, phải biết trấn áp kẻ địch bên trong và kẻ địch bên ngoài”; phải tổ chức được toàn dân, đoàn kết được dân: “Vấn đề quan trọng nhất là giáo dục, tuyên truyền cho dân, để quản lý tốt tai, mắt, miệng của dân, làm thế nào dân giúp công an để phát hiện địch và giấu địch những điều của ta. Nói cho địch là phải nói dối, nói cho ta thì nói thật. Mắt để phát hiện địch. Tai cũng vậy. Tổ chức tốt quần chúng để giấu không cho địch biết và bảo vệ ta”; phải luôn giữ được bản lĩnh cách mạng, “đối với địch, chớ nên hoang mang, cần phải hết sức trấn tĩnh, trấn tĩnh là bước đầu thắng địch. Cố nhiên, trấn tĩnh rồi còn phải đi sâu xét kỹ”... Có như vậy, mới “làm tròn nhiệm vụ của người Công an nhân dân của một nước dân chủ nhân dân”.

Đối với một số lực lượng công an có nhiệm vụ đặc thù như công an cảnh vệ, Người chỉ rõ hơn: Người bảo vệ phải biết đánh địch, phải biết võ giỏi, phải khỏe, phải bắn súng giỏi, bơi giỏi, chèo thuyền giỏi và cả phải biết trèo cây nữa; phải biết giữ bí mật; phải biết bảo vệ được Bác nhưng không xô đẩy đồng bào... muốn bảo vệ tốt, phải có kỹ thuật, phải giữ vững được bí mật và phải có thái độ tốt đối với đồng bào. Với người cán bộ tình báo, do công việc mang nhiều đặc thù nghề nghiệp, đòi hỏi sự thận trọng, bí mật và sự cảnh giác cao độ là yếu tố sống còn, Hồ Chí Minh đã chỉ ra bốn đức tính ắt phải có của là bí mật, cẩn thận, khôn khéo, kiên nhẫn.

  • Phong cách làm việc dân chủ, quần chúng, tận tụy, khoa học:

+ Bác chỉ rõ: “Lề lối làm việc phải dân chủ. Cấp trên phải thường kiểm tra cấp dưới, cấp dưới phải phê bình cấp trên. Giúp nhau kinh nghiệm và sáng kiến, giúp nhau tiến bộ. Tự phê bình và phê bình nhau theo tinh thần thân ái và lập trường cách mệnh”.

+ Tác phong quần chúng: Hồ Chí Minh nhắc nhở công an phải: giản dị, gần gũi nhân dân, dựa vào lực lượng của nhân dân. Muốn xây dựng tác phong quần chúng, phải “vào sâu trong quần chúng”; tức là phải cùng ăn, cùng ở, cùng làm với nhân dân, chịu khó giúp dân trong mọi việc...

+ Làm việc phải khoa học: Bác dạy “Phải đi sâu xét kỹ. Phải kiên quyết, tránh bắt bừa, mớm cung, dùng nhục hình”; “tác phong phải thật khách quan, thiết thực, phải tăng cường công tác điều tra nghiên cứu tổng hợp và trao đổi kinh nghiệm giữa các lực lượng công an”. Làm việc “phải phân công cụ thể, công an làm gì? các ngành có liên quan phải làm gì?”. Trong kế hoạch đó phải xác định mục đích rõ ràng, chương trình đặt ra phải sát hợp: “Đích nghĩa là nhằm vào đó mà bắn. Nhiều đích quá thì loạn mắt, không bắn trúng đích nào”.

  • Có tinh thần cố gắng, trách nhiệm: Hồ Chí Minh yêu cầu, cán bộ công an phải có tinh thần cố gắng, vươn lên khắc phục khó khăn, gian khổ; “cố gắng học tập chính trị và kỹ thuật”. Hồ Chí Minh từng nói: “Công việc của công an ngày càng nhiều, công an càng phải cố gắng nhiều”. Cán bộ công an: “Phải luôn luôn nâng cao tinh thần trách nhiệm. Có như vậy mới xứng đáng là người cán bộ được Đảng và nhân dân tín nhiệm”.
  • Có ý thức tổ chức, kỷ luật tốt: Người phân tích: “Công an đánh địch bên ngoài đã khó, đánh địch bên trong người còn khó khăn hơn. Vì vậy phải nâng cao kỷ luật, tính tổ chức, chống ba phải, nể nang”.
  • Gần dân, thân dân, trọng dân, lễ phép với nhân dân và vì dân:

+ Cán bộ công an phải gần dân: Trong buổi Nói chuyện tại Hội nghị công an toàn quốc lần thứ 10, tháng 1-1956, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Phải gần gũi nhân dân, dựa vào lực lượng của nhân dân, xa rời nhân dân thì tài tình mấy cũng không làm gì được. Nhân dân có hàng triệu tai mắt. Nếu công an biết dựa vào nhân dân, thì nhân dân sẽ là người giúp việc rất đắc lực của công an. Muốn làm tròn nhiệm vụ, công an phải nắm vững đường lối, chính sách của Đảng và của Chính phủ, hết lòng phục vụ nhân dân và dựa vào nhân dân”. Muốn gần dân, Hồ Chí Minh cho rằng: “Phải làm thế nào cho được lòng dân, phải thực sự giúp đỡ dân trong công việc chứ không phải là lối ngoại giao qua loa. Có như thế thì người dân mới tích cực trở lại giúp đỡ công an”.

+ Cán bộ công an phải thân dân: Theo Hồ Chí Minh, cán bộ công an có thân dân thì mới hiểu dân là chủ, dân làm chủ.

+ Cán bộ công an phải trọng dân: Nghĩa là, cán bộ công an phải nhận thức rõ vị trí, vai trò to lớn của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng nói chung và trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự nói riêng. Cán bộ công an phải có hành động thiết thực, cụ thể để phát huy vai trò của nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh trật tự qua các biện pháp giáo dục, biện pháp vận động quần chúng...

+ Lễ phép với nhân dân: Lễ phép là cách xưng hô đúng mực, là thái độ hòa nhã, khiêm tốn trước nhân dân, biết kính trên nhường dưới, biết lắng nghe ý kiến của nhân dân.

+ Cán bộ công an phải vì dân: Người luôn luôn khẳng định, giữ vững an ninh cho nhân dân là mục tiêu cao nhất của sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự. “Công an của ta là Công an nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ, dựa vào nhân dân mà làm việc”. Người cho rằng: “Làm công an là để giữ trật tự an ninh cho nhân dân, xem xét tìm tòi âm mưu phản động làm hại nhân dân”.

  • Đoàn kết, thân ái giúp đỡ đồng chí, đồng đội: Người nhắc nhở: “Nội bộ công an từ cấp cao cho đến nhân viên phải đoàn kết nhất trí”. Người nhấn mạnh: “Đoàn kết là rất cần thiết, đoàn kết nội bộ ngành Công an, đoàn kết với các ngành khác, đoàn kết với nhân dân. Có thế thì công tác mới làm được”. Bên cạnh đó, theo Người: “Công an với quân đội và các ngành khác cũng phải thực sự đoàn kết”...

Hồ Chí Minh cũng cảnh báo cần chú ý phân biệt đoàn kết với bao che, bao biện cho nhau, hay đổ lỗi cho cán bộ khác: “Đoàn kết không phải là “chén chú chén anh”, là anh A giấu lỗi cho anh B. Trong nội bộ phải thực hành dân chủ, phải luôn luôn tự kiểm thảo để đi đến đoàn kết. Phê bình và tự phê bình phải từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên phê bình trên công tác cách mạng, phê bình để tiến bộ, không phải để soi mói”. Không những thực hiện phê bình trong nội bộ mà: “Công an với dân phải đoàn kết nghĩa là phải khuyến khích cho dân phê bình công an. Trong 10 lần phê bình cũng có lần đúng, có lần không đúng. Đúng thì nhận, không đúng thì giải thích”.

Ý 2: Vì sao Hồ Chí Minh lại yêu cầu cán bộ, chiến sỹ công an phải có những phẩm chất đó?

  • Hồ Chí Minh nhận thức rõ những phẩm chất đó là rất quan trọng, vô cùng cần thiết, là những phẩm chất không thể thiếu của người cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân Việt Nam.
  • Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra và đánh giá cao vị trí, vai trò của người cán bộ, chiến sỹ công an. Để xứng đáng với vị trí, vai trò của mình, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân phải có những phẩm chất cần thiết.
  • Hơnai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấu hiểu, sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự là vô cùng vất vả, không phải lúc nào cũng được lên mặt báo, đài phát thanh; các thế lực thù địch và bọn tội phạm không từ bỏ mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá chúng ta về mọi mặt. Để hoàn thiện nhiệm vụ trước Đảng, trước niềm tin tuyệt đối của nhân dân, đòi hỏi mỗi người cán bộ, chiến sỹ của lực lượng Công an nhân dân cần phải có những phẩm chất cần thiết.

Câu 3: Phân tích nội dung 6 điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân? Nghiên cứu, quán triệt và vận dụng tư tưởng đó có ý nghĩa như thế nào đối với việc thực hiện cuộc vận động “Xây dựng phong cách người CAND bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ”?

Ý 1: Phân tích nội dung 6 điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân?

Trong tác phẩm Tư cách người công an cách mệnh viết năm 1948, Hồ Chí Minh yêu cầu người cán bộ công an phải luôn rèn tư cách:

“Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính.

Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ.

Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành.

Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép.

Đối với công việc, phải tận tụy.

Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo”.

  • Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính. Cần là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai. Kiệm “là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”. Liêm là trong sạch, không tham lam. Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà. Cần, kiệm, liêm, chính có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
  • Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ. Theo Hồ Chí Minh, thân ái giúp đỡ gắn liền với việc hướng dẫn, truyền đạt tri thức, kinh nghiệm nghề nghiệp cho đồng đội; thể hiện ở việc cấp trên quan tâm, giúp đỡ cấp dưới về mọi mặt để vững tin, một lòng, một dạ hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, thân ái giúp đỡ không phải là “chén chú chén anh, che giấu khuyết điểm” mà là để giúp nhau nhận rõ thành tích, khuyết điểm để thật thà sửa chữa. Người cũng đồng thời kiên quyết đấu tranh chống lại những biểu hiện của thói ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa, chia rẽ, bè phái, địa phương cục bộ, hoặc thái độ “dĩ hòa vi quý”.
  • Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành. Trung thành với Chính phủ cũng có nghĩa là trung thành với Đảng, với nhân dân. Công an nhân dân là công cụ chuyên chính sắc bén của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, có nhiệm vụ bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân. Do vậy, tuyệt đối trung thành với Chính phủ là một trong những yêu cầu hàng đầu, không thể thiếu trong phẩm chất của người Công an nhân dân.
  • Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép. Là Công an nhân dân, mang bản chất nhân dân, vì vậy kính trọng, lễ phép với nhân dân luôn là quan điểm, là thái độ cách mạng, là nguyên tắc xử thế của người công an cách mạng. Công an phải, kính trọng, lễ phép với nhân dân như kính trọng, lễ phép với cha mẹ mình; có cách xưng hô đúng mực, là thái độ hòa nhã, khiêm tốn trước nhân dân, biết kính trên nhường dưới, biết lắng nghe ý kiến của nhân dân.
  • Đối với công việc, phải tận tụy. Người luôn yêu cầu cán bộ công an phải toàn tâm, toàn ý với công việc. Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở thái độ của cán bộ công an đối với công việc, không nên suy bì, tị nạnh lương cao, lương thấp, tính toán tiền đồ hơn thiệt. Làm người công an là phải toàn tâm, toàn ý, hết lòng, hết sức cho công việc, nêu cao tinh thần trách nhiệm và nghĩa vụ đạo đức nghề nghiệp trước Đảng, trước dân ở mọi nơi, mọi lúc.
  • Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo.

+ Cương quyết với địch được hiểu là ý chí sắt đá, thái độ cứng rắn, không khoan nhượng, tinh thần vững vàng, không gì có thể lay chuyển về mục tiêu chung của cách mạng; cương quyết không để địch phá hoại, bọn tội phạm làm hại dân, làm hại cho cách mạnh; cương quyết giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng, không thỏa hiệp, không nhân nhượng, không để bọn tội phạm mua chuộc, dụ dỗ trước những “viên đạn bọc đường”.

+Khôn khéo là một cách ứng xử thông minh, nhanh nhẹn, linh hoạt, sáng tạo của người cán bộ, chiến sĩ công an với địch, là cách thức đánh địch đạt hiệu quả nhất mà địch không phòng, chống nổi, để địch không thể làm tổn hại cho ta, là làm sao ta để địch chủ quan, không phòng bị, sơ hở trước sự tấn công của ta, là nghệ thuật, cách thức đánh địch. Theo Hồ Chí Minh cương quyết và khôn khéo với địch không thể tách rời nhau, cương quyết phải trên cơ sở khôn khéo, ngược lại sự khôn khéo là để giữ vững được sự cương quyết, là hình thức, phương pháp thực hiện sự cương quyết.

Ý 2: Nghiên cứu, quán triệt và vận dụng tư tưởng đó có ý nghĩa như thế nào đối với việc thực hiện Cuộc vận động “Xây dựng phong cách người Công an nhân dân bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ”?

  • Phát động Cuộc vận động “Xây dựng phong cách người Công an nhân dân bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ” thực chất là Công an nhân dân đang thực hành sáng tạo 6 điều Bác Hồ dạy. Vì vậy, việc nghiên cứu, quán triệt và vận dụng 6 điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân sẽ là giải pháp then chốt đảm bảo cho sự thành công một cách hiệu quả, thiết thực của cuộc vận động.
  • Nghiên cứu, quán triệt và vận dụng 6 điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với xây dựng lực lượng Công an nhân dân. Những hoạt động đó được lực lượng Công an nhân dân triển khai thực hiện từ rất sớm. Nghiên cứu, quán triệt và vận dụng tốt 6 điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân sẽ trở thành điểm “gốc”, “điểm nền tảng” tạo nên sự thành công của Cuộc vận động Xây dựng phong cách người Công an nhân dân bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ bởi vì:

+ “Tư cách người công an cách mệnh” theo tư tưởng Hồ Chí Minh hạt nhân trong đó là đạo đức cách mạng. Trong tư tưởng của Người đạo đức trở thành điểm gốc, điểm nền tảng phong cách của người cán bộ nói chung và phong cách bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ” cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân nói riêng.

+ Tư cách người công an cách mệnh trong tư tưởng Hồ Chí Minh bao hàm phong cách người cán bộ công an từ bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ. Cho nên, nghiên cứu, quán triệt và vận dụng tư các người công an cách mệnh theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đồng nghĩa với việc thực hiện Cuộc vận động “Xây dựng phong cách người Công an nhân dân bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ”. Trong mối quan hệ ấy, việc nghiên cứu, quán triệt, vận dụng 6 điều Bác Hồ dạy công an nhân dân luôn giữ vai trò nền tảng, điều kiện đảm bảo thành công của Cuộc vận động “Xây dựng phong cách người Công an nhân dân bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ”.

Câu 4: Trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng bộ máy Công an nhân dân? Rút ra ý nghĩa đối với việc xây dựng bộ máy Công an nhân dân hiện nay?

Ý 1: Trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng bộ máy Công an nhân dân?

  • Xây dựng Công an nhân dân vững mạnh về chính trị

+ Kiên định, giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo công an nhân dân: Người nói, “Đảng lãnh đạo đúng thì chuyên môn mới đúng”. Cho nên, công an phải tuyệt đối trung thành với Đảng. Tăng cường công tác xây dựng Đảng trong Công an nhân dân.

+ Xây dựng và giữ vững bản chất của giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của công an nhân dân: Sở dĩ như vậy là do công an ta là công an nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ, dựa vào nhân dân mà làm việc.

+ Chú trọng xây dựng lòng yêu nước, khắc sâu lòng căm thù giặc cho mỗi cán bộ, chiến sỹ công an: Hồ Chí Minh nhấn mạnh, “trước hết là phải khắc sâu lòng căm thù giặc Mỹ, phải nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, luôn luôn cảnh giác, dũng cảm chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân”.

+ Xây dựng lý tưởng, mục tiêu chiến đấu của công an: Hồ Chí Minh nhiều lần yêu cầu công an phải hết sức cố gắng, có tinh thần trách nhiệm trong công tác, sáng tạo, khắc phục khó khăn.

  • Xây dựng lực lượng Công an nhân dân vững vàng về tư tưởng

+ Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Còn về phần cán bộ công an thì phải như thế nào? Không phải chỉ muốn không là được. Miệng nói tiến lên chủ nghĩa xã hội, nhưng tư tưởng còn không thông và hành động còn không đúng thì không tiến lên được. Trước hết, cán bộ phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa, lập trường phải rõ ràng, vững chắc đã”.

+ Người kiên quyết yêu cầu công an loại bỏ tư tưởng và hành động sử dụng bạo lực trong quá trình thực hiện nhiệm vụ cách mạng; công an phải tuyệt đối tin tưởng vào khả năng của quần chúng, dựa vào quần chúng để làm việc; khắc phục bệnh công thần, bệnh quan liêu, bệnh thành tích...

  • Xây dựng cơ cấu tổ chức của lực lượng Công an nhân dân

+ Xây dựng bộ máy công an tinh gọn, thiết thực, chuyên sâu; trong sạch, vững mạnh: Người luôn nhắc nhở: “cách tổ chức công an phải giản đơn, thiết thực, tránh cái tệ quá hình thức, giấy má”, “phải xây dựng một bộ máy công an rất tốt, rất chắc chắn”. Người yêu cầu: “... phải cần kiệm xây dựng quân đội. Đối với công an cũng phải như thế. Không nên đặt ra nhiều bàn giấy, nhiều máy chữ, tránh quan liêu, vô ích, không thiết thực, phải nhớ là cần kiệm”. “Phải thực hành khẩu hiệu: làm việc gì học việc ấy. Vô luận ở quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, tổ chức, tuyên truyền, công an, v.v., cán bộ ở môn nào phải học cho thạo công việc ở trong môn ấy”. Người cho rằng, công an phải xây dựng bộ máy thật sự trong sạch bởi lẽ “có thể những người khi kháng chiến thì rất anh dũng, trước bom đạn địch không chịu khuất phục, nhưng đến khi về thành thị lại bị tiền bạc, gái đẹp quyến rũ, mất lập trường, sa vào tội lỗi. Cho nên bom đạn của địch không nguy hiểm bằng “đạn bọc đường” vì nó làm hại mình mà mình không trông thấy".

+ Xây dựng lực lượng Công an nhân dân tuyệt đối trung thành với Đảng: Theo Hồ Chí Minh, trung thành với Đảng là nội dung quan trọng bậc nhất trong công tác xây dựng lực lượng Công an nhân dân. Để xây dựng lực lượng Công an nhân dân tuyệt đối trung thành, Người yêu cầu ngành Công an phải làm tốt công tác “chọn lọc” những người có phẩm chất tốt vào ngành. Đồng thời, công an nhân dân phải làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, kiên quyết loại bỏ những đối tượng không đủ phẩm chất, năng lực ra khỏi ngành, tránh để xảy ra tình trạng “con sâu bỏ rầu nồi canh”.

+ Chú trọng xây dựng bộ máy công an ở địa phương, biên giới, hải đảo: Người yêu cầu: “Đối với các anh em ở những nơi hẻo lánh, gian khổ, ra một bước phải trèo núi, v.v., thì cấp trên phải chú ý nhiều hơn so với những đơn vị ở thành phố”. Mặt khác, Hồ Chí Minh cũng yêu cầu công an ở các địa phương, vùng biên giới, hải đảo cũng cần phải thật sự cố gắng, sáng tạo, kiên trì vượt qua khó khăn. Người phân tích rõ: “... các đơn vị ấy cũng phải có tinh thần kiên trì và tự lực cánh sinh một phần nào đó. Ví dụ: đóng ở chỗ nào thì phải trồng rau, trồng khoai, trồng sắn mà ăn; nuôi gà, nuôi lợn để tự cải thiện đời sống của mình một chừng nào. Những việc ấy, cán bộ và chiến sĩ có sáng kiến là làm được”.

+ Xây dựng bộ máy công an kiểu mới, mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc: Hồ Chí Minh khẳng định Công an nhân dân hoàn toàn khác công an đế quốc. Công an đế quốc là nanh vuốt của tư bản được sử dụng như một công cụ hà hiếp, áp bức đa số nhân dân... Ngược lại, Công an nhân dân phải là kiểu mẫu, phải là người chuyên trách thi hành chính sách, phương châm của Đảng và Chính phủ cho tốt.

+ Xây dựng bộ máy công an đoàn kết: Người nhắc nhở: “Nội bộ công an từ cấp cao cho đến nhân viên phải đoàn kết nhất trí”. Người nhấn mạnh: “Đoàn kết là rất cần thiết, đoàn kết nội bộ ngành Công an, đoàn kết với các ngành khác, đoàn kết với nhân dân. Có thế thì công tác mới làm được”.

+ Xây dựng lề lối làm việc dân chủ trong Công an nhân dân: Riêng đối với Công an nhân dân, Người chỉ rõ: “Lề lối làm việc phải dân chủ. Cấp trên phải thường kiểm tra cấp dưới, cấp dưới phải phê bình cấp trên. Giúp nhau kinh nghiệm và sáng kiến, giúp nhau tiến bộ. Tự phê bình và phê bình nhau theo tinh thần thân ái và lập trường cách mệnh”.

+ Xây dựng bộ máy Công an nhân dân là trách nhiệm của Đảng, của nhân dân và của từng cán bộ, chiến sĩ công an: Người yêu cầu: “Phải xây dựng một bộ máy công an rất tốt, rất chắc chắn. Ai phải xây dựng? Mỗi một cán bộ công an đều có trách nhiệm vào đấy. Ai cũng tiến bộ, cũng khắc phục được khuyết điểm, phát huy được ưu điểm, thì toàn bộ bộ máy công an sẽ tốt. Điều đó thật là rõ ràng, dễ hiểu cho nên mỗi cán bộ công an phải cố gắng, gương mẫu trong học tập, trong công tác, gương mẫu về đạo đức cách mạng”.

Ý 2: Rút ra ý nghĩa đối với việc xây dựng bộ máy Công an nhân dân hiện nay?

  • Hiện nay xây dựng lực lượng Công an nhân dân chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tinh gọn, hiệu quả, hiệu lực là một yêu cầu tất yếu, khách quan. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng bộ máy Công an nhân dân trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của sự nghiệp xây dựng lực lượng Công an nhân dân nói chung và xây dựng bộ máy Công an nhân dân trong tình hình mới nói riêng.
  • Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng bộ máy Công an nhân dân là “cẩm nang” gối đầu giường của mỗi người cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân nói chung và đặc biệt là đối với đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng lực lượng, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy công an các cấp. Đây là cơ sở, nền tảng soi đường, chỉ lối giúp lực lượng Công an nhân dân đề ra chủ trương, chính sách xây dựng bộ máy Công an nhân dân trong tình hình mới.

Câu 5: Đồng chí hãy trình bày những thành tựu và hạn chế của công tác xây dựng cán bộ và công tác cán bộ hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh? Nêu một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng cán bộ và công tác cán bộ Công an nhân dân thời gian tới theo tư tưởng Hồ Chí Minh?

Ý 1: Đồng chí hãy trình bày những thành tựu và hạn chế của công tác xây dựng cán bộ và công tác cán bộ hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh?

  • Những thành tựu

+ Ngành Công an đã ban hành các chương trình, kế hoạch về công tác cán bộ mang tính chiến lược, dài hạn, định ra những bước đi thích hợp, giải pháp cụ thể, thiết thực, phù hợp với từng giai đoạn.

+ Công tác cán bộ của lực lượng Công an nhân dân đã có những chuyển biến tích cực và rõ nét. Công tác tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, luân chuyển, nhận xét, đánh giá, bố trí, sử dụng, bảo vệ chính trị nội bộ, quản lý và thực hiện chính sách cán bộ đã dần đi vào nền nếp, tạo sự thống nhất trong thực hiện; vai trò, trách nhiệm của tập thể các cấp ủy và lãnh đạo các cấp có thẩm quyền quản lý cán bộ trong công tác cán bộ đã được nâng cao.

+ Đội ngũ cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân đã có những bước tiến bộ và trưởng thành rõ rệt, tăng về số lượng, nâng cao về chất lượng, cơ bản đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự.

+ Công tác xây dựng đội ngũ trí thức Công an nhân dân đã từng bước đổi mới về tư duy, nội dung và phương pháp theo đúng quan điểm của Đảng và Nhà nước.

+ Cán bộ lãnh đạo, chỉ huy công an các cấp đã được củng cố; hầu hết được xây dựng, rèn luyện trong thực tiễn của cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự; gương mẫu, tiêu biểu về mọi mặt; năng lực lãnh đạo, chỉ huy từng bước thích ứng trước những diễn biến phức tạp của tình hình, có tư duy đổi mới, năng động, sáng tạo, hoạt động có hiệu quả; luôn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ của mình, đồng thời có ý thức rèn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thuộc quyền; thành thạo chuyên môn nghiệp vụ và có phẩm chất đạo đức tốt.

+ Đội ngũ cán bộ quy hoạch tăng về cả số lượng và chất lượng, từng bước đảm bảo về cơ cấu 3 độ tuổi; tỉ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số đã được nâng lên.

- Hạn chế

+ Đội ngũ cán bộ xét cả về số lượng, chất lượng còn một số mặt chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự trong thời đại mới. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ Công an Trung ương lần thứ VI (nhiệm kỳ 2015 - 2020) đã chỉ rõ hạn chế: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên giảm sút về tinh thần trách nhiệm, còn tư tưởng trung bình chủ nghĩa, thiếu rèn luyện phấn đấu; một số trường hợp vi phạm điều lệnh, quy trình công tác, thậm chí vi phạm pháp luật”.

+ Đội ngũ cán bộ còn bất cập so với yêu cầu, nhiệm vụ. Đang thiếu hụt cán bộ lãnh đạo, chỉ huy giỏi, có khả năng dự báo, xử lý tốt những vấn đề phức tạp về an ninh - trật tự; thiếu cán bộ chuyên gia đầu ngành về lý luận nghiệp vụ công an, cán bộ khoa học, kỹ thuật, cán bộ có trình độ ngoại ngữ... Chưa quan tâm đúng mức đến công tác quy hoạch, đào tạo đội ngũ cán bộ là nữ, ở các vùng biên giới, hải đảo.

+ Các khâu trong công tác cán bộ còn chưa thật sự gắn kết. Việc đánh giá cán bộ còn có nhiều biểu hiện né tránh, nể nang, chưa sát với thực tế cán bộ và đội ngũ cán bộ. Chất lượng công tác xây dựng tiêu chuẩn đội ngũ cán bộ còn chậm. Quy hoạch cán bộ còn hiện tượng hình thức, khép kín. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa cao, chưa gắn kết với yêu cầu, tiêu chuẩn chưa hợp lý, chưa mạnh dạn bổ nhiệm cán bộ trẻ, cán bộ nữ thay thế kịp thời cán bộ tín nhiệm thấp, năng lực hạn chế. Công tác quản lý cán bộ, bảo vệ chính trị nội bộ ở nhiều đơn vị địa phương còn lỏng lẻo, sơ hở...

+ Có lúc, có nơi, khuyết điểm, yếu kém trong công tác cán bộ chậm được khắc phục.

+ Trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chưa quán triệt đầy đủ quan điểm công tác cán bộ là khâu then chốt của công tác xây dựng Đảng. Việc quán triệt, triển khai các văn bản về công tác cán bộ chưa đồng đều, chỉ đạo tổ chức thực hiện còn chậm, lúng túng, thiếu đồng nhất. Công tác nghiên cứu, tham mưu, ban hành chính sách cán bộ còn thiếu đồng bộ, chưa theo kịp với thực tế.

+ Công tác tuyển dụng, bố trí cán bộ có lúc, có nơi còn cảm tính dẫn đến tình trạng tuyển dụng một số cán bộ không có năng lực, trình độ. Công tác xác minh trong quá trình tuyển dụng còn có những bất cập, hạn chế, nhiều đơn vị còn còn làm chưa đúng quy trình, thủ tục dẫn đến việc tuyển dụng cán bộ chưa đủ tiêu chuẩn, thậm chí là đối tượng truy nã, phản động...

+ Nhiều đơn vị biên chế tăng nhưng chất lượng đội ngũ cán bộ tăng lên không đáng kể. Năng lực của một bộ phận cán bộ còn yếu, không theo kịp yêu cầu nhiệm vụ, nên phải lấy số lượng thay cho chất lượng, tình trạng này không đến mức phổ biến, nhưng ở đơn vị, địa phương nào ít nhiều cũng có mà không thể điều chuyển từ nơi thừa sang nơi thiếu hoặc giải quyết đầu ra.

+ Tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số, cán bộ xuất thân từ công nhân chưa đạt yêu cầu.

+ Công tác quy hoạch còn mang tính hình thức, khép kín, thiếu tính tổng thể làm giảm tác dụng của công tác quy hoạch, một số chức danh không đủ số lượng quy hoạch theo cơ cấu quy định, hoặc khó khăn về độ tuổi quy hoạch do chưa có biện pháp tạo nguồn cán bộ.

+ Trong công tác bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm cán bộ còn tình trạng mất dân chủ, coi trọng yếu tố chực hiện chính sách cán bộ hơn là chất lượng cán bộ và yêu cầu công tác.

Ý 2: Nêu một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng cán bộ và công tác cán bộ Công an nhân dân thời gian tới theo tư tưởng Hồ Chí Minh?

  • Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng đối với cán bộ và công tác cán bộ Công an nhân dân.
  • Chú trọng đầu tư nâng cao chất lượng công tác giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
  • Quan tâm đúng mức và có cơ chế, chính sách đối với cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số và cán bộ nghiên cứu, giảng dạy, làm khoa học công nghệ trong Công an nhân dân.
  • Kiện toàn bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng lực lượng.
  • Nâng cao chất lượng công tác tổng kết thực tiễn; nghiên cứu khoa học; phát triển lý luận xây dựng lực lượng Công an nhân dân.
  • Tăng cường xây dựng tư cách đạo đức của người cán bộ Công an nhân dân trong tình hình mới gắn với quán triệt và thực hiện nghiêm túc Chỉ thị 05-CT/TWcủa Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”./.
Đánh giá bài viết
3 3.604
Bạn có thể tải về tập tin thích hợp cho bạn tại các liên kết dưới đây.
0 Bình luận
Sắp xếp theo